Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tu Đạt

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14700)
Kinh Tu Đạt


PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0073 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tiêu Tề, Thiên Trúc Tam tạng Cầu Na Tỳ Ðịa.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ cư sĩ Tu Ðạt đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn xong ngồi qua một bên. Cư sĩ Tu Ðạt ngồi qua một bên xong, đức Thế Tôn hỏi rằng:

–Này cư sĩ, gia đình cư sĩthực hành hạnh bố thí chăng?

Cư sĩ trả lời:

–Dạ có, bạch Thế Tôn, gia đình con có bố thí nhưng chỉ bố thí những thức thô xấu, không phải diệu mỹ, như cơm lẫn với cám, canh lá gai chỉ có một miếng gừng để thí.

Ðức Thế Tôn bảo:

–Này cư sĩ, dù bố thí những thức thô xấu hay bố thí những thức mỹ diệu, cả hai đều có quả báo. Nhưng này cư sĩ, nếu bố thí những thức ăn thô xấu, kẻ ấy không có lòng tinbố thí, bố thí không đúng lúc, không tự tay bố thí, không tự mình đến để bố thí, không biết, không có tín tâm cũng không biết có quả báobố thí, thì nên biết rằng sẽ thọ quả báo đúng như thế, ý không muốn cho phòng xá tốt đẹp, cũng không muốn cho áo quần tốt đẹp, cũng không muốn cho đồ ẩm thực ngon lành, cũng không muốn cho ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Người cư sĩ này vì không chí tâm bố thí và có quả báo như vậy. Này cư sĩ đó là người không chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, người thực hành bố thí mà có tín tâm, tùy thờibố thí, tự tay bố thí, đi đến để bố thí, có tri, có tín, biết có quả báo nhân duyên mới hành bố thí. Nên biết người ấy có quả báo như vầy: Ý muốn gia đình tốt đẹp, nghiệp báo cực tốt, đồ dùng cực đẹp, áo quần cực đẹp, muốn đồ ăn, thức uống ngon lành, muốn được ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Cư sĩ nên biết, kẻ ấy chí tâm bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu nhưng không có tín tâmbố thí, không tùy thờibố thí, không tự tay bố thí, không đến để bố thí, cũng không biết cũng không tin, cũng không biết có nhân duyên hành quả báo mà thực hành bố thí, nên biết kẻ ấy sẽ thọ báo đúng như thế, ý cũng không muốn cho gia nghiệp tốt đẹp, cũng không muốn cho y phục tốt đẹp, cũng không muốn đồ ăn ngon lành, cũng không muốn ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, vì đây là không hết lòng bố thí.

Này cư sĩ, nếu bố thí những thức mỹ diệu, tín tâm ưa thích bố thí, tùy thời thí, tự tay bố thí, tự mình đến để bố thí, có trí, có tín, biết có hạnh quả báo mà hành bố thí. Nên biết kẻ ấy sẽ được quả báo đúng như vậy. Ðó là tâm muốn gia nghiệp tốt đẹp, cho đến muốn đồ ăn, thức uống, ngũ dục công đức tốt đẹp. Vì sao? Này cư sĩ, nên biết như vậy vì kẻ ấy tùy thời bố thí nên có quả báo ấy. Vì sao? Này cư sĩ, thuở xưa ở đời quá khứ có một bà la môn tên là Tỳ Lam, rất giàu có, của cải vô lượng, vị ấy đã làm một cuộc bố thí lớn như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng vàng đựng đầy bạc, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn bát bằng bạc đựng đầy vàng, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn thớt voi được trang sức đầy đủ, voi trắng như tuyết, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: lấy tám vạn bốn ngàn con ngựa được trang sức đầy đủ dây vàng xâu ngọc, thực hành đại bố thí như sau: lấy tám vạn bốn ngàn con trâu, lấy áo làm dây thừng, trâu thường cung cấp một hộc sữa, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: dùng tám vạn bốn ngàn ngọc nữ đoan chánh, đẹp đẽ, trang sức đầy đủ châu báu, vị ấy thực hành đại bố thí như vầy: ngoài ra còn có thức ăn mỹ vị nhiều vô số kể.

Ðó là, này cư sĩ, bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, nhưng phước ấy không bằng cúng thí cho một vị tiên nhơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy: thí cho nhơn tiên ở cõi Diêm Phù Ðề này, nhưng không bằng phước đức cúng cho một vị Tu Ðà Hoàn sẽ được nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy cúng thí cho người phàm phu, tiên nhơn và một trăm vị Tu Ðà Hoàn cõi Diêm Phù Ðề không bằng cúng thí cho một vị Tư Ðà Hàm, phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm, tiên nhơn, một trăm vị Tu Ðà Hoàn và một trăm vị Tư Ðà Hàm ở Diêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A Na Hàm được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A Na HàmDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị A La Hán được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị A La HánDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho một vị Bích Chi Phật, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, thí cho người phàm,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng cúng dường cho đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu,... một trăm vị Bích Chi PhậtDiêm Phù Ðề không bằng tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy đã thực hành đại bố thí như vậy, bố thí cho người phàm phu, cho đến... tạo lập phòng xá để cúng dường cho bốn phương tăng ở cõi Diêm Phù Ðề cũng không bằng đem ý thanh tịnh thọ Tam tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy, thực hành sự đại bố thí ấy, bố thí cho người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến đem ý thanh tịnh phụng hành ba tự quy: Phật, Pháp và Tỳ kheo Tăng giữ giới không bằng đối với tất cả chúng sanh cho đến loài trâu, bò trải lòng từ chỉ trong khoảnh khắc, được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, tuy bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy thực hành sự bố thí như vậy, đối với những người phàm phu ở cõi Diêm Phù Ðề, cho đến tất cả chúng sanh phân biệt hạnh từ, kể cả thương yêu loài trâu, bò trong khoảnh khắc, không bằng đối với tất cả hành, tư duy, cho dù trong khoảng khắc thấy nó là vô thường, khổ, không, vô ngã, thì được phước đức nhiều hơn.

Này cư sĩ, ý ông nghĩ sao? Bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam ấy là ai khác chăng? Chớ có nghĩ như vậy. Vị ấy chính là Ta vậy. Lúc ấy Ta là bà la môn rất giàu có tên là Tỳ Lam.

Như vậy, này cư sĩ, lúc ấy ta tự làm lợi ích cho mình và làm lợi ích cho người khác, lợi ích cho nhiều người, thương xót thế gian, mong cầu ý nghĩa, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Ta thuyết pháp như vậy nhưng vẫn chưa rốt ráo, chưa rốt ráo vô xấu, chư rốt ráo phạm hạnh, chưa rốt ráo thành tựu phạm hạnh, vì vậy lúc ấy ta chưa thoát khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu không vui, cũng chưa thoát khỏi khổ đau.

Này cư sĩ, nay ta là Như Lai xuất hiện thế gian, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác, Minh hạnh thành, là Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðạo pháp ngự, Thiên nhơn sư, là Phật, Thế Tôn. Nay ta tự làm lợi ích cho mình, cũng làm lợi ích cho người khác, vì lợi ích nhiều người, thương xót người thế gian, cầu nghĩa lý, khoái lạc, an ổn cho trời và người. Nay ta thuyết pháp đến chỗ rốt ráo, rốt ráo vô cấu, rốt ráo phạm hạnh, rốt ráo hành phạm hạnh. Nên nay ta đã thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ, bất lạc. Ta đã thoát khỏi mọi khổ đau.

Ðức Phật thuyết như vậy, cư sĩ Tu Ðạt nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH TU ÐẠT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32614)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11097)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30234)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12040)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12591)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34461)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10390)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10345)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12974)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21647)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12534)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16398)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11964)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16130)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11911)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14866)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20544)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14234)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17470)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13859)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11910)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant