Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13583)
Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc


PHẬT THUYẾT HỌC KINH CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0075 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ vào Tống Lục.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


 

  Nghe như vầy:

 Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn Hoàng Trúc, Tỳ Lan Nhã. Bấy giờ Bà la môn Tỳ Lan Nhã tuổi cao tác lớn, là bậc kỳ túc, tuổi thọ gần mãn, đã một trăm hai mươi tuổi, tay chống gậy, lúc xế trưa thong thả tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong cùng đức Thế Tôn chào hỏi, thăm viếng, sau khi chào hỏi thăm viếng đức Thế Tôn rồi, chống gậy đứng trước đức Thế Tôn, rồi Lan Nhã đứng qua một bên bạch đức Thế Tôn rằng:

 –Này Cù Ðàm, tôi nghe Sa môn Cù Ðàm tuổi còn quá trẻ, vừa mới xuất gia học đạo, thế mà nếu có Ðại Sa môn, Bà la môn nào đích thân đến vẫn không tùy thời cung kính, cũng không đứng dậy, không mời các vị ấy ngồi. Này Cù Ðàm, việc ấy tôi không thể chấp nhận được.

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, ta chưa từng thấy chư thiênthế gian, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài người đi đến mà khiến cho Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy mời các vị ấy ngồi. Này Bà la môn, đó là nếu đức Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy thì đầu của người ấy sẽ bể thành bảy mảnh.

 Bà la môn nói rằng:

 –Này Sa môn Cù Ðàm, đó chỉ là sự giải đãi, ngạo mạn.

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có sắc vị, thinh vị, hương vị, xúc vị, vật trơn mịn, thì những thứ ấy đã bị Như Lai dứt sạch, đã biết, đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự khủng bố ở tương lai nữa. Này Bà la môn, đó là điều khiến ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có sợ hãi?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, lại có điều kiện khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói. Ðó là nếu có sự sợ hãi các sắc, sợ hãi thinh, sợ hãi hương, sợ hãi vị, sợ hãi sự xúc trơn mịn, thì Như Lai đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai nữa. Này Bà la môn, có điều kiện này khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có đầu thai nữa chăng?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta không đầu thai, nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có Sa môn, Bà la môn phải đầu thai trở lại thì ta đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, thì ta nói không đầu thai. Này Bà la môn, đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác không còn đầu thai trở lại nữa, Ngài đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, ta không đầu thai nữa. Này Bà la môn, đó là có trường hợp khiến cho ta không đầu thai nữa, chứ nhưng không phải như lời ông nói.

 Lại nữa, này Bà la môn, ta ở trong đời này có sự ngu si tham đắm sự ngu si bị ngu si che lấp trói buộc, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, đối với chúng sanh, ta là bậc nhất. Này Bà la môn, giống như gà mái sanh trứng, hoặc mười hoặc hai mươi trứng, nó tùy thời, đúng thời ấp trên trứng. Nó đúng thời, tùy thời ấp trứng; nó đúng thời, tùy thời chuyển bên này bên kia. Nếu con gà mái ấy có đi đâu, các gà con ở trong trứng dùng mỏ, dùng chân mổ và chọi, phá vỡ trứng chui ra an ổn, nó là những con gà con bậc nhất. Cũng vậy, này Bà la môn, ta bị ngu si trói chặt, bị ngu che lấp, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, với các chúng sanh ấy, ta là bậc nhất.

 Này Bà la môn, ta ôm cỏ khô đi đến dưới gốc cây đạo tràng, đến dưới gốc cây đạo tràng rồi, rải cỏ ngồi xuống gốc cây, trải Ni sư đànngồi kiết già, quyết không đứng dậy, cho đến khi dứt sạch hữu lậu. Này Bà la môn, ta không đứng dậy, cho đến khi chấm dứt hữu lậu. Này Bà la môn, ta đã giải thoát dâm dục, giải thoát các pháp ác bất thiện, tự giác, tự hành, được ái hỷ, đạt được Sơ thiền, thành tựu an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta đạt được pháp tư duy thứ nhất, thấy pháp, an lạc trụ, có lạc hạnh, không mất sự an trụ yên ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, sau khi ta chấm dứt tự giác hành, bên trong có tin vui, ý được chuyên nhất, không giác không quán, có sự hoan hỷ do định sanh, đạt đến Nhị thiền, chánh thọ an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tâm tư duy thứ hai, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta không đắm trước ái hỷ, thủ hộ ý, niệm đẳng tri, thân được an lạc, đó gọi là điều Thánh quán, điều Thánh hộ niệm, trú trong an lạc, đạt đến Tam thiền, thành tựu an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tư duy thứ ba, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta diệt lạc, diệt khổ, bỏ sự hoan hỷ, diệt ái ở trước, không khổ không lạc, giữ ý thanh tịnh, đạt được Tứ thiền, an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, lúc đó ta đạt được sự tư duy thứ tư, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, nhờ Tam muội này, ý ta thanh tịnh, trong sạch, không có kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, nhờ Túc mạng trí đã chứng đắc để tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhớ vô lượng đời trước đã qua, có hành động và có lời nói thế nào. Nghĩa lại ta nhớ lại một lần sanh, hai lần sanh, trăm lần sanh, ngàn lần sanh, hoặc một kiếp, nửa kiếp, vô lượng kiếp, các chúng kia tên này, họ này, tánh tình như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, thọ mạng dài, ngắn, chết ở đây sanh ở kia, chết ở kia sanh ở đây. Tại đó ta tên này, họ này, ăn món ăn như vậy, thọ mạng dài ngắn như vậy. Này Bà la môn, ngay lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng Thánh trí minh đạt thứ nhất. Nhờ không phóng dật, nên được đắc định, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh. Tối tăm tiêu trừ, ánh sáng xuất hiện, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc trí Túc mạng minh.

 Lại nữa, này Bà la môn, nhờ vào Tam muội, ý thanh tịnh, trong trắng, không kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng đắc Thiên nhãn trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhờ vào Thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người thường. Ta thấy chúng sanh lúc sanh, lúc tử, tốt đẹp xấu xí, hoặc sanh đến chỗ thiện hay chỗ ác, tùy theo nghiệp mà chúng sanh đã tạo, ta biết đúng như sự thật rằng: chúng sanh này với thân làm ác, miệng làm ác và ý nghĩ ác, phỉ báng bậc Thánh, tà kiến, do nhân đó duyên đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh trong địa ngục. Nếu chúng sanh nào thân làm việc thiện, miệng nói điều thiện và ý nghĩ điều thiện, có tín, có thiện hạnh, chánh kiến, cùng tương ưng với chánh kiến, do nhân đó duyên đó, khi thân hoại mạng chung được đến chỗ thiện, sanh lên cõi trời. Này Bà la môn, lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng trí minh đạt thứ hai này. Nhờ không phóng dật, nay được định hạnh, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh, mê ám tiêu tan và ánh sáng thành tựu, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc Trí Thiên nhãn minh.

 Này Bà la môn, ta nhờ Tam muội này, ý được thanh tịnh trong sáng, không trói buộc, trừ các trói buộc, thực hành nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng được hữu lậu tận trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta biết như thật rằng: “Ðây là khổ”, biết như thật rằng: “Ðây là khổ tập”, “Khổ tận”, “Khổ tận trụ xứ”. Biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu”, biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu tập”, “Hữu lậu tận”, “Hữu lậu tận xứ”. Ta biết như thế, thấy như thế, tâm giải thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu và si lậu. Sau khi giải thoát thì biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ danh sắc đời trước”. Này Bà la môn, bấy giờ vào đêm đó ta chứng được ba Minh. Nhờ không phóng dật nên nay được định hạnh, vô trí diệt và trí phát sanh, vô minh dứt và minh xuất hiện. Nghĩa là ta chứng đắc được Minh đạt hữu lậu tận trí.

 Lại nữa, này Bà la môn, đó là nếu có ai với sự thuyết giảngthuyết giảng không có ngu si, đối với chúng sanh sanh ra ở thế gian, ở giữa tất cả chúng sanh vị ấy là tối thắng, thoát ly khỏi khổ lạc. Này Bà la môn, nên biết rằng, vị thuyết giảng chơn chánh ấy là ta. Vì sao này Bà la môn, ta là người không ngu si, xuất hiệnthế gian, đối với chúng sanh trên thế gian này ta là tối thắng, không bị khổ lạc chi phối.

 Bấy giờ Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã bỏ gậy xuống đất, cúi đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, ở trước đức Thế Tôn, tán thán đức Thế Tôn:

 –Thế Tôn là tối thắng, Thế Tôn là tối diệu, Thế Tôn là tối vi diệu, Thế Tôn là không ai bằng, không ai sánh bằng Thế Tôn. Thế Tôn không có tai hoạn, Thế Tôn không sân hận với người, trời. Bạch Thế Tôn, nay con tự quy y PhápTỳ kheo tăng. Mong đức Thế Tôn ngày hôm nay nhận con làm Ưu bà tắc, bắt đầu từ hôm nay cho đến trọn đời con xin xa lìa sát sanh... ngày hôm này con xin tự quy y.

 Ðức Phật thuyết như vậy, Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT THUYẾT KINH HỌC CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12638)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10180)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11948)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15156)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10948)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10393)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12342)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16279)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14130)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11636)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14645)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11905)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12624)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11231)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11929)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51766)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15328)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13860)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11354)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12664)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13102)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54044)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14271)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9847)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57606)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14354)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19981)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17362)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13217)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11825)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14552)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12363)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12039)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11959)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13177)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13232)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25377)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12099)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41946)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28169)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38578)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14613)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12589)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16107)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant