Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13645)
Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc


PHẬT THUYẾT HỌC KINH CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0075 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ vào Tống Lục.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


 

  Nghe như vầy:

 Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn Hoàng Trúc, Tỳ Lan Nhã. Bấy giờ Bà la môn Tỳ Lan Nhã tuổi cao tác lớn, là bậc kỳ túc, tuổi thọ gần mãn, đã một trăm hai mươi tuổi, tay chống gậy, lúc xế trưa thong thả tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong cùng đức Thế Tôn chào hỏi, thăm viếng, sau khi chào hỏi thăm viếng đức Thế Tôn rồi, chống gậy đứng trước đức Thế Tôn, rồi Lan Nhã đứng qua một bên bạch đức Thế Tôn rằng:

 –Này Cù Ðàm, tôi nghe Sa môn Cù Ðàm tuổi còn quá trẻ, vừa mới xuất gia học đạo, thế mà nếu có Ðại Sa môn, Bà la môn nào đích thân đến vẫn không tùy thời cung kính, cũng không đứng dậy, không mời các vị ấy ngồi. Này Cù Ðàm, việc ấy tôi không thể chấp nhận được.

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, ta chưa từng thấy chư thiênthế gian, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài người đi đến mà khiến cho Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy mời các vị ấy ngồi. Này Bà la môn, đó là nếu đức Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy thì đầu của người ấy sẽ bể thành bảy mảnh.

 Bà la môn nói rằng:

 –Này Sa môn Cù Ðàm, đó chỉ là sự giải đãi, ngạo mạn.

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có sắc vị, thinh vị, hương vị, xúc vị, vật trơn mịn, thì những thứ ấy đã bị Như Lai dứt sạch, đã biết, đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự khủng bố ở tương lai nữa. Này Bà la môn, đó là điều khiến ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có sợ hãi?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, lại có điều kiện khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói. Ðó là nếu có sự sợ hãi các sắc, sợ hãi thinh, sợ hãi hương, sợ hãi vị, sợ hãi sự xúc trơn mịn, thì Như Lai đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai nữa. Này Bà la môn, có điều kiện này khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có đầu thai nữa chăng?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta không đầu thai, nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có Sa môn, Bà la môn phải đầu thai trở lại thì ta đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, thì ta nói không đầu thai. Này Bà la môn, đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác không còn đầu thai trở lại nữa, Ngài đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, ta không đầu thai nữa. Này Bà la môn, đó là có trường hợp khiến cho ta không đầu thai nữa, chứ nhưng không phải như lời ông nói.

 Lại nữa, này Bà la môn, ta ở trong đời này có sự ngu si tham đắm sự ngu si bị ngu si che lấp trói buộc, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, đối với chúng sanh, ta là bậc nhất. Này Bà la môn, giống như gà mái sanh trứng, hoặc mười hoặc hai mươi trứng, nó tùy thời, đúng thời ấp trên trứng. Nó đúng thời, tùy thời ấp trứng; nó đúng thời, tùy thời chuyển bên này bên kia. Nếu con gà mái ấy có đi đâu, các gà con ở trong trứng dùng mỏ, dùng chân mổ và chọi, phá vỡ trứng chui ra an ổn, nó là những con gà con bậc nhất. Cũng vậy, này Bà la môn, ta bị ngu si trói chặt, bị ngu che lấp, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, với các chúng sanh ấy, ta là bậc nhất.

 Này Bà la môn, ta ôm cỏ khô đi đến dưới gốc cây đạo tràng, đến dưới gốc cây đạo tràng rồi, rải cỏ ngồi xuống gốc cây, trải Ni sư đànngồi kiết già, quyết không đứng dậy, cho đến khi dứt sạch hữu lậu. Này Bà la môn, ta không đứng dậy, cho đến khi chấm dứt hữu lậu. Này Bà la môn, ta đã giải thoát dâm dục, giải thoát các pháp ác bất thiện, tự giác, tự hành, được ái hỷ, đạt được Sơ thiền, thành tựu an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta đạt được pháp tư duy thứ nhất, thấy pháp, an lạc trụ, có lạc hạnh, không mất sự an trụ yên ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, sau khi ta chấm dứt tự giác hành, bên trong có tin vui, ý được chuyên nhất, không giác không quán, có sự hoan hỷ do định sanh, đạt đến Nhị thiền, chánh thọ an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tâm tư duy thứ hai, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta không đắm trước ái hỷ, thủ hộ ý, niệm đẳng tri, thân được an lạc, đó gọi là điều Thánh quán, điều Thánh hộ niệm, trú trong an lạc, đạt đến Tam thiền, thành tựu an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tư duy thứ ba, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta diệt lạc, diệt khổ, bỏ sự hoan hỷ, diệt ái ở trước, không khổ không lạc, giữ ý thanh tịnh, đạt được Tứ thiền, an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, lúc đó ta đạt được sự tư duy thứ tư, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, nhờ Tam muội này, ý ta thanh tịnh, trong sạch, không có kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, nhờ Túc mạng trí đã chứng đắc để tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhớ vô lượng đời trước đã qua, có hành động và có lời nói thế nào. Nghĩa lại ta nhớ lại một lần sanh, hai lần sanh, trăm lần sanh, ngàn lần sanh, hoặc một kiếp, nửa kiếp, vô lượng kiếp, các chúng kia tên này, họ này, tánh tình như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, thọ mạng dài, ngắn, chết ở đây sanh ở kia, chết ở kia sanh ở đây. Tại đó ta tên này, họ này, ăn món ăn như vậy, thọ mạng dài ngắn như vậy. Này Bà la môn, ngay lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng Thánh trí minh đạt thứ nhất. Nhờ không phóng dật, nên được đắc định, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh. Tối tăm tiêu trừ, ánh sáng xuất hiện, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc trí Túc mạng minh.

 Lại nữa, này Bà la môn, nhờ vào Tam muội, ý thanh tịnh, trong trắng, không kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng đắc Thiên nhãn trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhờ vào Thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người thường. Ta thấy chúng sanh lúc sanh, lúc tử, tốt đẹp xấu xí, hoặc sanh đến chỗ thiện hay chỗ ác, tùy theo nghiệp mà chúng sanh đã tạo, ta biết đúng như sự thật rằng: chúng sanh này với thân làm ác, miệng làm ác và ý nghĩ ác, phỉ báng bậc Thánh, tà kiến, do nhân đó duyên đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh trong địa ngục. Nếu chúng sanh nào thân làm việc thiện, miệng nói điều thiện và ý nghĩ điều thiện, có tín, có thiện hạnh, chánh kiến, cùng tương ưng với chánh kiến, do nhân đó duyên đó, khi thân hoại mạng chung được đến chỗ thiện, sanh lên cõi trời. Này Bà la môn, lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng trí minh đạt thứ hai này. Nhờ không phóng dật, nay được định hạnh, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh, mê ám tiêu tan và ánh sáng thành tựu, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc Trí Thiên nhãn minh.

 Này Bà la môn, ta nhờ Tam muội này, ý được thanh tịnh trong sáng, không trói buộc, trừ các trói buộc, thực hành nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng được hữu lậu tận trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta biết như thật rằng: “Ðây là khổ”, biết như thật rằng: “Ðây là khổ tập”, “Khổ tận”, “Khổ tận trụ xứ”. Biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu”, biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu tập”, “Hữu lậu tận”, “Hữu lậu tận xứ”. Ta biết như thế, thấy như thế, tâm giải thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu và si lậu. Sau khi giải thoát thì biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ danh sắc đời trước”. Này Bà la môn, bấy giờ vào đêm đó ta chứng được ba Minh. Nhờ không phóng dật nên nay được định hạnh, vô trí diệt và trí phát sanh, vô minh dứt và minh xuất hiện. Nghĩa là ta chứng đắc được Minh đạt hữu lậu tận trí.

 Lại nữa, này Bà la môn, đó là nếu có ai với sự thuyết giảngthuyết giảng không có ngu si, đối với chúng sanh sanh ra ở thế gian, ở giữa tất cả chúng sanh vị ấy là tối thắng, thoát ly khỏi khổ lạc. Này Bà la môn, nên biết rằng, vị thuyết giảng chơn chánh ấy là ta. Vì sao này Bà la môn, ta là người không ngu si, xuất hiệnthế gian, đối với chúng sanh trên thế gian này ta là tối thắng, không bị khổ lạc chi phối.

 Bấy giờ Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã bỏ gậy xuống đất, cúi đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, ở trước đức Thế Tôn, tán thán đức Thế Tôn:

 –Thế Tôn là tối thắng, Thế Tôn là tối diệu, Thế Tôn là tối vi diệu, Thế Tôn là không ai bằng, không ai sánh bằng Thế Tôn. Thế Tôn không có tai hoạn, Thế Tôn không sân hận với người, trời. Bạch Thế Tôn, nay con tự quy y PhápTỳ kheo tăng. Mong đức Thế Tôn ngày hôm nay nhận con làm Ưu bà tắc, bắt đầu từ hôm nay cho đến trọn đời con xin xa lìa sát sanh... ngày hôm này con xin tự quy y.

 Ðức Phật thuyết như vậy, Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT THUYẾT KINH HỌC CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22292)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16018)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15025)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18950)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14445)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18626)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14426)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13584)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13547)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11816)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13251)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13650)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13932)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13247)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15022)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16158)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11082)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16449)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11901)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17589)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12872)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13702)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12857)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14853)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16382)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13124)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12080)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12771)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12905)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14173)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14108)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16468)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12375)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14379)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11305)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11025)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13189)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13889)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13156)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12997)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13501)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10219)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11643)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12668)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10793)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10932)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11065)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12612)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11319)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant