Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tôn Thượng

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13286)
Kinh Tôn Thượng


PHẬT NÓI KINH TÔN THƯỢNG


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0077 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, nước Nguyệt Thị Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá vệ. Bấy giờ tôn giả Lô Da Cường Kỳ ở tại Thích Kỳ Sấu, trong hang A Luyện Nhã. Khi ấy tôn giả Lô Da Cường Kỳ sáng sớm thức dậy, ra khỏi hang động rồi đến chỗ đất trống để bày giường dây, trải tọa cụ xong ngồi kiết già.

Khi ấy có một vị trời hình sắc cực đẹp, vào lúc rạng đông đi đến chỗ Lô Da Cường Kỳ, đến xong đảnh lễ dưới chân tôn giả Lô Da Cường Kỳ rồi đứng qua một bên. Do ánh sáng của vị trời ấy chiếu sáng cả hang động, vị trời ấy đứng qua một bên rồi bạch với tôn giả Lô Da Cường Kỳ rằng:

–Này Tỳ kheo! Này Tỳ kheo, ngài có trì bài kệ Hiền Thiện và giải nghĩa bài kệ ấy được chăng?

Nói như vậy xong, tôn giả Lô Da Cường Kỳ đáp lại vị trời ấy rằng:

–Này vị trời, tôi không có trì bài kệ Hiền Thiện và giải nghĩa ý nghĩa bài kệ ấy được. Còn ngài, này vị trời, ngài có trì bài kệ Hiền Thiện và giải nghĩa được chăng?

Nói như vậy xong, vị trời ấy đáp lại tôn giả Lô Da Cường Kỳ:

–Này Tỳ kheo, tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện nhưng không giải nghĩa được.

–Vì sao vậy? Ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện nhưng không giải nghĩa được?

–Này Tỳ kheo, vào một thời, tôi nghe đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca Lan Ðà, thành La Duyệt Kỳ, ngài nói bài kệ Hiền Thiện này cho các Tỳ kheo:

Quá khứ đừng nhớ nghĩ

Tương lai chớ mong cầu.

Quá khứ đã mất rồi,

Tương lai thì chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại

Mỗi mỗi phải tư duy.

Ý niệm không bền lâu

Kẻ trí nên tự giác

Ðược rồi cần tinh tấn.

Bậc trí đâu lo chết

Tâm ta cứ miệt mài

Sự chết ai thoát được?

Giữ vững chắc như vậy,

Ngày đêm không xả bỏ.

Kẻ Hiền Thiện như vậy

Người nên quán như vậy.

Như vậy, này Tỳ kheo, tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện này mà không giải nghĩa được.

–Vậy thưa vị trời, ai thọ trì bài kệ Hiền Thiện và có thể giải nghĩa được?

–Này Tỳ kheo, đức Thế Tôn ở tại vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện này và giải nghĩa được. Cho nên này Tỳ kheo, hãy theo đức Thế Tôn thọ trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa nó, hãy khéo suy nghĩ, nhớ đọc tụngthọ trì. Vì sao như vậy? Này Tỳ kheo, bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ là nghĩa, là pháp, đưa đến phạm hạnh, thành thần thông, cho đến con đường chí tôn, tương ưng với Niết bàn. Vị tộc tánh tử này tin và thích học đạo; tin và thích xuất gia, bỏ nhà học đạo, nên thọ trì bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ, phải khéo suy tư, nhớ nghĩ và phụng trì.

Vị trời ấy nói xong, đảnh lễ dưới chân tôn giả Lô Da Cường Kỳ, nhiễu quanh tôn giả Lô Da Cường Kỳ xong liền biến mất. Bấy giờ tôn giả Lô Da Cường Kỳ, lúc vị trời ấy đã đi không bao lâu, ngài đến Thích Kỳ Sấu để thọ tuế; thọ tuế qua ba tháng xong, đã may y rồi, mang bát đến thành Xá Vệ, tuần tự mà đi đến thành Xá Vệ, ngài dừng chân ở vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Khi ấy tôn giả Lô Da Cường Kỳ đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong, lạy dưới chân đức Phật rồi đứng qua một bên. Tôn giả Lô Da Cường Kỳ đứng qua một bên bạch đức Thế Tôn rằng:

–Thưa Thế Tôn! Một thời con ở tại Thích Kỳ Sấu, trong hang động tịch mịch. Thưa Thế Tôn, sáng sớm con thức dậy, ra khỏi hang, đến chỗ đất trống để bày giường dây, trải tọa cụ xong, con ngồi kiết già. Khi ấy có một vị trời hình sắc cực đẹp, vào lúc rạng đông đi đến chỗ con, đến rồi đảnh lễ dưới chân con, rồi đứng qua một bên. Ánh sáng của vị trời ấy chiếu sáng cả hang động. Vị trời ấy đứng qua một bên và nói với con:

–Này Tỳ kheo! Này Tỳ kheo, ngài có trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy chăng?

Nói như vậy xong, con trả lời vị trời ấy rằng:

–Này vị trời, tôi không có trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy. Thưa ngài, vậy ngài có thọ trì bài kệ Hiền Thiện và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy chăng?

Con nói như vậy xong, vị trời ấy trả lời con rằng:

–Này Tỳ kheo, tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện nhưng không biết ý nghĩa của bài kệ.

–Này vị trời, vì sao ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện mà lại không hiểu ý nghĩa của bài kệ?

–Này Tỳ kheo, vào một thời, tôi nghe đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca Lan Ðà, thành La Duyệt Kỳ, nói bài kệ Hiền Thiện này cho các Tỳ kheo nghe, nhưng Ngài không có giải nghĩa. (Bài kệ như trên). Như vậy, này Tỳ kheo, nên tôi thọ trì bài kệ Hiền Thiện mà không giải nghĩa được.

–Này vị trời, vậy làm sao? Ai thọ trì bài kệ Hiền Thiện và có thể giải nghĩa được bài kệ ấy?

Vị thiên nói:

–Này Tỳ kheo, đức Thế Tôn ở tại vườn Cấp Cô Ðộc, rừng cây Kỳ Ðà, thành Xá Vệ, Ngài thọ trì bài kệ Hiền Thiện này và hiểu ý nghĩa bài kệ ấy được. Cho nên này Tỳ kheo, nên theo đức Thế Tôn thọ trì bài kệ Hiền Thiện và đọc hiểu ý nghĩa bài kệ này, hãy suy tư, nhớ nghĩ và phụng hành bài kệ ấy. Vì sao vậy? Này Tỳ kheo, bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ ấy là nghĩa pháp hành của phạm hạnh, thành được thần thông cho đến đạo cao tột, cùng tương ưng với Niết bàn. người con nhà vọng tộc ấy tin, vui học đạo; tin vui xuất gia, bỏ nhà học đạo, nên thọ trì bài kệ Hiền Thiện và học hiểu ý nghĩa của bài kệ ấy. Hãy khéo tư duy, nhớ nghĩ và phụng trì.

Vị trời ấy nói xong, lạy dưới chân con, nhiễu quanh con rồi bỗng nhiên biến mất.

Phật bảo:

–Này Cường Kỳ! Ngươi có biết tên của vị trời ấy không?

–Bạch Thế Tôn, con không biết tên của vị trời ấy.

–Này Cường Kỳ, vị trời ấy tên là Bát Na Mạc Nan thiên tử, là vị Ðại tướng ở cõi trời thứ ba mươi ba.

–Bạch Thế Tôn, nay đã đúng lúc. Bạch Thiện Thệ, nay đã đúng lúc. Mong đức Thế Tôn nói bài kệ Hiền Thiện và ý nghĩa của bài kệ cho các Tỳ kheo nghe. Khi đức Thế Tôn dạy rồi, các Tỳ kheo sẽ phụng trì.

Này Cường Kỳ, hãy nên khéo suy nghĩ, lắng nghe, hãy khéo tư duy nhớ nghĩ, ta sẽ nói cho.

–Như vậy, thưa Thế Tôn!

Tôn giả Lô Da Cường Kỳ thọ nhận lời dạy của Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nói bài kệ này (như trên).

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo nhớ nghĩ quá khứ? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc quá khứ hoặc vui mừng, đắm trước, an trụ trong đó; hoặc đối với thống (thọ), tưởng, hành, thức ở quá khứ hoặc vui mừng, đắm trước, trụ trong đó, như vậy, này Cường Kỳ, là Tỳ kheo nhớ nghĩ quá khứ.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo không nhớ nghĩ quá khứ? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc quá khứ không thích, không đắm, cũng không trụ trong đó; đối với thống, tưởng, hành, thức trong quá khứ cũng không thích, không đắm, không trụ ở trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, là Tỳ kheo không nhớ nghĩ quá khứ.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo mong cầu ở tương lai? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo mong cầu sắc ở tương lai, hoặc vui mừng, hoặc đắm trước, hoặc ở trong đó; hoặc đối với thống, tưởng, hành, thức ở đương lai, hoặc vui mừng, đắm trước, hay trụ ở trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, đó là Tỳ kheo nhớ nghĩ đương lai.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo không mong cầu ở tương lai? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc ở tương lai, không có vui mừng, không có đắm trước, không trụ ở trong đó; hoặc đối với thống, tưởng, hành, thức ở đương lai cũng không có vui mừng, không có đắm trước, không trụ ở trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, đó là Tỳ kheo không mong cầu ở đương lai.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo suy nghĩ pháp hiện tại? Này Cường Kỳ, đó là hoặc Tỳ kheo ưa thích sắc hiện tại, đắm trước trong đó , an trụ trong đó; đối với thống, tưởng, hành, thức ở hiện tại cũng ưa thích, đắm trước, và an trú trong đó. Như vậy, này Cường Kỳ, đó là gọi là Tỳ kheo suy tư, nhớ nghĩ pháp hiện tại.

Này Cường Kỳ, thế nào là Tỳ kheo ngay trong hiện tại không suy nghĩ nhớ nghĩ? Này Cường Kỳ, hoặc Tỳ kheo đối với sắc hiện tại không có ưa thích, không có đắm trước, không có an trụ; đối với thống, tưởng, hành, thức cũng không có ưa thích, không có đắm trước, không có trụ trong đó. Ðó là Tỳ kheo đối với pháp hiện tại không suy tư nhớ nghĩ.

Ðức Phật nói như vậy, tôn giả Lô Da Cường Kỳ nghe lời đức Thế Tôn nói, hoan hỷ vui sướng.

 

PHẬT NÓI KINH TÔN THƯỢNG

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16024)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15032)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18956)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14450)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11821)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13665)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13938)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16163)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11906)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17598)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12877)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13716)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16390)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13128)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12092)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12774)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12917)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12790)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14121)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16479)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12380)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14389)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11328)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13506)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13967)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16268)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11660)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12681)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12766)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12620)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant