Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt Cho Trưởng Giả Thủ Ca

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12791)
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt Cho Trưởng Giả Thủ Ca


PHẬT NÓI KINH NGHIỆP BÁO SAI BIỆT CHO TRƯỞNG GIẢ THỦ CA


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0080 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tùy Dương Xuyên Quận Thủ Cù Ðàm Pháp Trí.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


 

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, nước Xá vệ.

Bấy giờ đức Phật bảo Ðao Ðề Tử Thủ Ca trưởng giả rằng:

–Này trưởng giả Thủ Ca, ta sẽ nói cho ông nghe về pháp môn sai biệt của nghiệp báo thiện ác. Ông hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ.

Bấy giờ Thủ Ca liền bạch đức Phật:

–Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con muốn được nghe.

Ðức Phật bảo thủ Ca:

–Tất cả chúng sanh bị hệ thuộc nơi nghiệp, y chỉ nơi nghiệp, tùy nơi nghiệp của chính mình lưu chuyển, do nhân duyên đó mà có sự sai biệt lớn, vừa và nhỏ không đồng. Hoặc có nghiệp khiến cho chúng sanh bị quả báo chết yểu, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được sống lâu, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo nhiều bệnh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo ít bệnh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo thô xấu, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo đoan chánh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanhquả báo có ít oai thế, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanhquả báo có oai thế lớn, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh vào dòng họ thấp kém, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo vào dòng họ cao sang, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo có ít của cải, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo có nhiều của cải, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo tà trí, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo chánh trí, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo địa ngục, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo súc sanh, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo ngạ qủy bị quả báo A tu la, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo loài người, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi trời, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi Sắc thiên, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi Vô Sắc thiên, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo quyết định, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo bất định, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh nơi biên địa, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh ở trung quốc, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh trọn tuổi thọ ở địa ngục, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh nửa tuổi thọ ở địa ngục, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh trong địa ngục vừa vào liền ra, hoặc có nghiệp làm mà không tụ tập, hoặc có nghiệp tụ tập mà không làm, hoặc có nghiệp vừa làm vừa tụ tập, hoặc có nghiệp không làm không tụ tập, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh trước vui sau khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh trước khổ sau vui, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh trước khổ sau khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh trước vui sau vui, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghèo mà ưa bố thí, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh giàu mà keo kiết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh giàu mà hay bố thí, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghèo mà keo kiết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh thân được vui mà tâm bị khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh tâm được vui mà thân bị khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả thân tâm đều vui, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả thân tâm đều khổ, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh mạng tuy hết rồi nhưng nghiệp chưa hết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghiệp tuy hết rồi mà mạng vẫn còn, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp và mạng đều hết, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp và mạng đều còn, có thể đoạn trừ các phiền não, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh nơi ác đạohình dung tuyệt đẹp, đôi mắt đoan nghiêm, da dẻ trong sáng, ai cũng ưa nhìn, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh nơi ác đạohình dung thô xấu, da dẻ xù xì, không ai thích nhìn, hoặc có nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh nơi ác đạo, thân miệng hôi thúi, các căn khuyết tật.

Hoặc có chúng sanh tập hành mười nghiệp bất thiện bị ác báo bên ngoài, hoặc có chúng sanh tập hành mười thiện nghiệp được quả báo thù thắng ở bên ngoài

Lại nữa, này trưởng giả, hoặc có chúng sanh kính lạy tháp miếu của Phật được mười thứ công đức, cúng thí bảo cái được mười thứ công đức, cúng thí tràng phan được mười thứ công đức, cúng thí chuông linh được mười thứ công đức, cúng thí y phục được mười thứ công đức, cúng thí chén bát đồ dùng được mười thứ công đức, cúng thí đồ ăn thức uống được mười thứ công đức, cúng thí giày dép được mười thứ công đức, cúng thí hương hoa được mười thứ công đức, cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức, cung kính chắp tay được mười thứ công đức.

Ðó gọi là lược thuyết về pháp môn sai biệt của các nghiệp trong thế gian.

Ðức Phật bảo:

–Này Thủ Ca, có mười loại nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo chết yểu:

1. Tự mình sát sanh.

2. Bảo người sát sanh.

3. Khen ngợi sự giết.

4. Thấy giết vui sướng.

5. Ðối với người oán ghét thì muốn tiêu diệt.

6. Thấy người oán của mình bị tiêu diệt rồi trong lòng sung sướng.

7. Làm hư thai tạng của người khác.

8. Dạy người hủy hoại (thai tạng).

9. Xây dựng miếu thờ trời để giết hại chúng sanh.

10. Dạy người đánh nhau để hai bên bị tàn hại.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo chết yểu.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo trường thọ:

1. Tự mình không sát sanh.

2. Khuyên người khác đừng sát sanh.

3. Tán thán sự không sát sanh.

4. Thấy người không sát sanh trong lòng vui mừng.

5. Thấy người bị giết hại, phương tiện cứu thoát.

6. Thấy kẻ bị cái chết khủng bố, an ủi họ.

7. Thấy kẻ bị khủng bố, bố thí sự vô úy.

8. Thấy người bị các khổ loạn, khởi tâm thương xót.

9. Thấy người bị các điều cấp nạn, khởi tâm đại bi.

10. Dùng các thức ăn uống bố thí chúng sanh.

Do mười nghiệp này nên được trường thọ.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo nhiều bệnh:

1. Thích đánh đập tất cả chúng sanh.

2. Khuyên người đánh đập.

3. Khen ngợi sự đánh đập.

4. Thấy đánh đập thì hoan hỷ.

5. Làm não loạn cha mẹ khiến cha mẹ buồn rầu.

6. Não loạn Thánh hiền.

7. Thấy người oán của mình bị bệnh khổ, trong lòng vô cùng vui sướng.

8. Thấy người oán của mình lành bệnh, trong lòng không vui.

9. Ðối với bệnh của kẻ oán thù, cho không đúng thuốc trị bệnh.

10. Ðồ ăn cách đêm khó tiêu lại ăn vào.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo nhiều bệnh.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo ít bệnh:

1. Không đánh đập tất cả chúng sanh.

2. Không khuyên người khác đánh đập.

3. Tán thán sự không đánh đập.

4. Thấy người không đánh đập, tâm sanh hoan hỷ.

5. Cúng dường cha mẹ và các người bệnh.

6. Thấy bậc Hiền thánh bị bệnh hoạn thì giúp đỡ trông coi, cúng dường.

7. Thấy kẻ oán của mình lành bệnh sanh tâm hoan hỷ.

8. Thấy người bệnh khổ bố thí thuốc hay, cũng khuyên người khác bố thí.

9. Ðối với chúng sanh bệnh khổ, sanh tâm thương xót.

10. Ðối với đồ ăn thức uống, tự mình có thể tiết kiệm.

Do mười nghiệp này nên được quả báo ít bệnh.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo thô xấu:

1. Ưa phẩn nộ.

2. Ưa ôm lòng ghét giận.

3. Dối láo mê hoặc người khác.

4. Não loạn chúng sanh.

5. Ðối với chỗ ở của cha mẹ không có lòng kính yêu.

6. Ðối với chỗ các Hiền thánh không sanh tâm cung kính.

7. Xâm đoạt ruộng vườn sinh sống của các Hiền thánh.

8. Làm mất ánh sáng đèn đuốc nơi tháp miếu của đức Phật.

9. Thấy người thô xấu thì hủy báng khinh chê.

10. Tập các hạnh ác.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo thô xấu.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo đoan chánh:

1. Không sân.

2. Bố thí y.

3. Thương yêu cha mẹ.

4. Tôn trọng Hiền thánh.

5. Tu bổ sơn phết tháp Phật.

6. Lau quét từ đường.

7. Lau quét già lam.

8. Lau quét tháp Phật.

9. Thấy người thô xấu không có tâm khinh khi, nhưng có lòng cung kính.

10. Thấy người đoan chánh biết rõ do nhân đời trước (cảm nên).

Do mười nghiệp này nên được quả báo đoan chánh.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo ít oai nghi:

1. Ðối với chúng sanh khởi tâm ganh ghét.

2. Thấy người khác được tài lợi, sanh tâm buồn rầu bực tức.

3. Thấy người khác bị mất lợi, trong lòng vui mừng.

4. Thấy người khác được danh tiếng sanh tâm ganh ghét.

5. Thấy người bị mất danh dự, trong lòng hân hoan.

6. Thối tâm Bồ đề, hưng hoại hình tượng của Phật.

7. Ðối với cha mẹ mình và chỗ ở của các Hiền thánh không có tâm thờ phụng.

8. Khuyên người tu tập hành động ít oai nghi.

9. Làm chướng ngại kẻ khác tu tập hành động có oai nghi lớn.

10. Thấy người có ít oai đức sanh lòng khinh dễ.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo có ít oai thế.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanhquả báo được oai thế lớn:

1. Ðối với chúng sanh không có tâm đố kỵ.

2. Thấy người khác được tài lợi sanh tâm hoan hỷ.

3. Thấy người khác mất lợi sanh tâm thương xót.

4. Thấy người khác được danh dự trong lòng hân hoan.

5. Thấy người khác bị mất danh dự, giúp cho bớt buồn lo.

6. Phát tâm Bồ đề, tạo hình tượng Phật, cúng thí bảo cái.

7. Ðối với cha mẹ mình và chỗ các Hiền thánh cung kính nghinh rước.

8. Khuyên người bỏ nghiệp ít có oai đức.

9. Khuyên người tu hành nghiệp có oai đức lớn.

10. Thấy người không có oai đức không đem lòng khinh chê.

Do mười nghiệp này nên được quả báo có oai thế lớn.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh vào dòng họ thấp kém:

1. Không biết kính Cha.

2. Không biết kính Mẹ.

3. Không biết kính Sa môn.

4. Không biết kính Bà la môn.

5. Ðối với các bậc Tôn trưởng không biết kính ngưỡng.

6. Ðối với các Sư trưởng không cung nghinh cúng dường.

7. Thấy các bậc Tôn trưởng không cung nghinh mời ngồi.

8. Ðối với chỗ ở của Cha Mẹ không tuân theo lời giáo huấn.

9. Ðối với bậc Hiền thánh không thọ giáo.

10. Khinh chê kẻ thấp kém.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo sanh vào dòng họ thấp kém.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh vào dòng họ cao thượng:

1. Khéo biết kính Cha.

2. Khéo biết kính Mẹ.

3. Khéo biết kính Sa môn.

4. Khéo biết kính Bà la môn.

5. Kính hộ bậc Tôn trưởng.

6. Thờ kính bậc sư trưởng.

7. Thấy các bậc Sư trưởng cung nghinh mời ngồi.

8. Ðối với Cha Mẹ thì kính thọ lời giáo huấn.

9. Ðối với bậc Hiền thánh thì tôn kínhthọ giáo.

10. Không khinh kẻ thấp hèn.

 

Do mười nghiệp này nên được quả báo sanh vào dòng họ cao thượng.

 

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo có ít của cải sinh sống:

 

1. Tự mình làm việc trộm cắp.

2. Khuyên người khác trộm cắp.

3. Khen ngợi sự trộm cắp.

4. Thấy trộm cắphoan hỷ.

5. Ðối với chỗ Cha Mẹ không lo làm ăn.

6. Ðối với chỗ Hiền thánh thì chiếm đoạt tài vật.

7. Thấy người khác được tài vật thì tâm không hoan hỷ.

8. Ngăn cản người khác được lợi, làm cho họ thường gặp tai nạn.

9. Thấy người khác bố thí, không có tâm tùy hủy.

10. Thấy người đời đói kém, tâm không thương xót mà lại vui sướng.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo đời sống có ít của cải.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo đời sống có nhiều của cải:

1. Tự mình xa lìa trộm cắp.

2. Không khuyên người khác trộm cắp.

3. Không tán thán sự trộm cắp.

4. Thấy người không trộm cắp sanh tâm hoan hỷ.

5. Ðối với chỗ ở của Cha Mẹ cung phụng sự làm ăn.

6. Ðối với các vị Hiền thánh thì cung cấp những vật cần dùng.

7. Thấy người khác được lợi, sanh tâm hoan hỷ.

8. Thấy người cầu lợi thì phương tiện hỗ trợ.

9. Thấy người bố thí thuốc (trị bệnh) sanh tâm hoan hỷ.

10. Thấy người đời đói khổ, sanh tâm thương xót.

Do mười nghiệp này nên được quả báo đời sống có nhiều của cải.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo tà trí:

1. Không hay học hỏi với Sa môn, Bà la môntrí tuệ.

2. Rao truyền pháp ác.

3. Không thể tu tập thọ trì chánh pháp.

4. Tán thán pháp không phải định, cho là pháp định.

5. Tiếc pháp không chịu nói.

6. Thân cận kẻ tà trí.

7. Xa lìa chánh trí.

8. Tán thán tà kiến.

9. Xả bỏ chánh kiến.

10. Thấy người ngu si, hung ác thì khinh khi chê bai.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo tà trí.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo chánh trí:

1. Khéo có thể hỏi han những vị Sa môn, Bà la môntrí tuệ.

2. Rao truyền pháp lành.

3. Nghe và thọ trì chánh pháp.

4. Thấy người nói pháp định khen rằng: “Lành thay!”.

5. Ưa nói chánh pháp.

6. Thân cận người có chánh trí.

7. Nhiếp hộ chánh pháp.

8. Siêng tu hạnh nghe nhiều.

9. Xa lìa tà kiến.

10. Thấy người ngu si, hung ác không có khinh chê.

Do mười nghiệp này nên được quả báo chánh trí.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo địa ngục:

1. Làm nghiệp ác nặng.

2. Miệng nói lời ác nghiệp nặng.

3. Ý nghĩ nghiệp ác nặng.

4. Khởi sanh đoạn kiến.

5. Khởi sanh thường kiến.

6. Khởi sanh vô nhơn kiến.

7. Khởi sanh vô tác kiến.

8. Khởi sanh vô kiến kiến.

9. Khởi sanh biên kiến.

10. Không biết báo ân.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo địa ngục.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo súc sanh:

1. Thân làm ác nghiệp bậc trung.

2. Miệng nói ác nghiệp bậc trung.

3. Ý nghĩ ác nghiệp bậc trung.

4. Từ phiền não tham khởi ra các ác nghiệp.

5. Từ phiền não sân khởi ra các ác nghiệp.

6. Từ phiền não si khởi ra các ác nghiệp.

7. Chửi mắng chúng sanh.

8. Não hại chúng sanh.

9. Bố thí vật bất tịnh.

10. Làm việc tà dâm.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo súc sanh.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo ngạ quỷ:

1. Thân làm nghiệp ác nhẹ.

2. Miệng nói nghiệp ác nhẹ.

3. Ý nghĩ nghiệp ác nhẹ.

4. Sanh tâm tham nhiều.

5. Sanh tâm tham ác.

6. Tật đố.

7. Tà kiến.

8. Ái trước của cải cuộc sống rồi bị mạng chung.

9. Do đói mà chết.

10. Bị khô khát bức bách mà chết.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo ngạ quỷ.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo A Tu La:

1. Thân làm nghiệp ác chút ít.

2. Miệng nói nghiệp ác chút ít.

3. Ý nghĩ nghiệp ác chút ít.

4. Kiêu mạn.

5. Ngã mạn.

6. Tăng thượng mạn.

7. Ðại mạn.

8. Tà mạn.

9. Mạn mạn.

10. Ðem các căn lành hướng về Tu La đạo.

Do mười nghiệp này nên bị quả báo A Tu La.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh ở cõi trời:

1. Không sát sanh.

2. Không trộm cắp.

3. Không tà dâm.

4. Không nói láo.

5. Không nói thêu dệt.

6. Không nói hai lưỡi.

7. Không nói lời ác.

8. Không tham.

9. Không sân.

10. Không tà kiến.

Ðối với mười nghiệp thiện, sứt mẻ không hoàn toàn (mười điều ấy). Do mười nghiệp này nên được quả báo cõi người.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh vào trời cõi dục. Ðó là tu hành đầy đủ mười điều thiện tăng thượng.

Lại có mười nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sinh trời cõi sắc. Ðó là tu hành mười điều thiện hữu lậu cũng tương ưng với định.

Lại có bốn nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo cõi trời Vô sắc:

1. Vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ có đối tưởng v.v... nhập vào không xứ định.

2. Vượt qua tất cả không xứ định, nhập vào Thức xứ định.

3. Vượt qua tất cả Thức xứ định, nhập vào Vô sở hữu xứ định.

4. Vượt qua Vô sở hữu xứ định, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.

Do bố nghiệp này được quả báo cõi trời Vô sắc.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo quyết định. Nếu ai đối với Phật, Pháp, Tăng và người giữ giới, khởi tâm tăng thượng bố thí. Do nghiệp thiện này, phát nguyện hồi hướng, liền được vãng sanh. Ðó gọi là nghiệp báo quyết định.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo bất định. Nếu tạo nghiệp không phải tâm tăng thượng, lại không tu tập, cũng không phát nguyện hồi hướng thọ sanh. Ðó gọi là nghiệp báo bất định.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh bị quả báo sanh ở biên địa. Nếu tạo nghiệp đối với Phật, Pháp, Tăng và người trì giới với chỗ ở của đại tăng, không phát tâm tăng thượng cúng thí, rồi do căn lành này sanh ở biên địa. Do vậy nên liền sanh ở biên địa, thọ quả báo tịnh và bất tịnh.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được quả báo sanh ở trung quốc. Nếu khi tạo nghiệp đối với Phật, Pháp, Tăng, thanh tịnh trì giới, bên cạnh người phạm hạnh, và chỗ ở của đại chúng, khởi tâm tăng thượng, ân cần bố thí. Nhờ thiện căn này quyết định phát nguyện cầu sanh trung quốc, lại được gặp Phật và nghe chánh pháp, thọ được quả báo thanh tịnh thượng diệu.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh mãi mãi ở trong địa ngục. Hoặc có chúng sanh, tạo nghiệp địa ngục rồi, không hổ, không thẹn, cũng không yểm ly, tâm không biết sợ sệt, trở lại còn sanh tâm hoan hỷ, lại không sám hối, còn tạo thêm nghiệp ác sâu nặng, như Ðề Bà Ðạt Ða v.v... Do tạo nghiệp này cho nên suốt đời ở trong địa ngục.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh đọa vào địa ngục, nửa chừng thì mạng yểu, không hết tuổi thọ. Nếu có chúng sanh tạo nghiệp địa ngục, chứa nhóm thành rồi, sau sanh sợ sệt, xấu hổ nhàm chán xa lìa, sám hối từ bỏ, chẳng phải tâm tăng thượng. Do nghiệp này cho nên đọa vào địa ngục, sau biết hối cải, ở trong địa ngục nửa chừng thì yểu, không hết tuổi thọ.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh đọa vào địa ngục, mới vào liền ra. Nếu có chúng sanh tạo nghiệp địa ngục, làm rồi sợ sệt, khởi lòng tin tăng thượng, sanh tâm xấu hổ, chán điều ác nên xả bỏ, ân cần sám hối, lại không tạo nữa. Như vua A Xà Thế giết cha các tội, vừa vào địa ngục liền được giải thoát. Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

“Nếu ai tạo tội nặng,

Tạo rồi tự trách mình.

Sám hối không tạo nữa

Nhổ hết nghiệp căn bản”.

Lại có nghiệp làm mà không nhóm tập. Nếu có chúng sanh thân khẩu ý.. tạo các ác nghiệp. Tạo rồi lo sợ, xấu hổ xa lìa, tự mình rất hối hận và than trách, không còn tạo ác lại nữa, đó gọi là làm mà không nhóm tập.

Lại có chúng sanh nhóm tập mà không làm. Nếu có chúng sanh tự không tạo nghiệp, do vì ác tâm khuyên người làm ác. Ðó gọi là nhóm tập mà không làm.

Lại có nghiệp cũng vừa tạo tác cũng vừa nhóm tập. Nếu có chúng sanh tạo các nghiệp rồi, tâm không hối cải, mà lại thỉnh thoảng cứ tạo nghiệp, lại còn khuyên người khác tạo ác. Ðó gọi là vừa tạo tác vừa nhóm tập.

Lại có nghiệp không tạo tác cũng không nhóm tập. Nếu có chúng sanh tự mình không tạo ác, cũng không dạy người khác tạo ác, thuộc về nghiệp vô ký. Ðó gọi là không tạo tác cũng không nhóm tập.

Lại có nghiệp ban đầu thì vui kết thúc thì khổ. Nếu có chúng sanh do người khác khuyên nên hoan hỷ bố thí, nhưng tâm bố thí không kiên cố, sau lại hối tiếc. Do nhân duyên đó sanh ở nhân gian, trước thì giàu có sung sướng, sau lại bần cùng nghèo khổ. Ðó gọi là ban đầu thì vui kết thúc thì khổ.

Lại có nghiệp ban đầu thì khổ kết thúc thì vui. Nếu có chúng sanh nhờ người khuyên hóa, miễn cưỡng bố thí chút ít, nhưng bố thí rồi thì hoan hỷ, tâm không hối tiếc. Do nhân duyên này sanh ở nhân gian, ban đầu thì nghèo khổ nhưng về sau thì giàu có sung sướng. Ðó gọi là ban đầu thì khổ nhưng kết thúc thì vui.

Lại có nghiệp ban đầu thì khổ kết thúc thì khổ. Nếu chúng sanh, xa lìa thiện trí thức, không ai khuyến hóa dẫn dắt cho đến không thể làm việc bố thí dù chút ít. Do nhân duyên này sanh ở nhân gian ban đầu đã bần khổ về sau cũng bần khổ. Ðó gọi là ban đầu khổ mà kết thúc vẫn khổ.

Lại có nghiệp ban đầu sướng mà kết thúc cũng sướng. Nếu chúng sanh, gần gũi thiện tri thức, họ khuyến hóa nên bố thí, rồi sanh tâm hoan hỷ, kiên cố tu nghiệp bố thí. Do nguyên nhân đó sanh ở nhân gian, ban đầu đã giàu có sung sướng, về sau cũng giàu có sung sướng.

Lại có nghiệp nghèo mà ưa bố thí. Nếu có chúng sanh, trước đó đã từng bố thí, nhưng không gặp phước điền, bị lưu chuyển sanh tử, sanh ở nhân gian, vì không gặp được phước điền, nên được quả báo rất ít, vừa được liền mất. Do tập nhân đã bố thí nên dù có bần cùng nhưng vẫn hay làm việc bố thí.

Lại có nghiệp giàu cóxan tham. Nếu có chúng sanh chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức khuyên hóa nên tạm thời làm việc bố thí, gặp được phước điền tốt lành. Nhờ được ruộng tốt nên đời sống được sung túc. Vì trước không có tập nhân cho nên kẻ ấy tuy giàu có mà keo kiết.

Lại có nghiệp giàu có mà hay bố thí. Nếu có chúng sanh gặp được thiện tri thức tu hạnh bố thí thật nhiều, gặp được phước điền tốt. Do nhân duyên này nên được hết sức giàu có, được nhiều tiền của, mà vẫn có thể thực hành bố thí.

Lại có nghiệp nghèo mà xan tham. Nếu có chúng sanh xa lìa thiện tri thức, không ai khuyến hóa chỉ đạo, nên không thể thực hành bố thí. Do nhân duyên này, sanh ở nhà bần cùng mà vẫn xan tham.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh được thân an lạc nhưng tâm không an lạc như người phàm phu có phước.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh tâm được an lạc nhưng thân không an lạc như A La Hán vô phước.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả thân lẫn tâm an lạc đều an lạc như A La Hán có phước.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả thân lẫn tâm an lạc đều không an lạc như kẻ phàm phu vô phước.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh mạng đã tận mà nghiệp không tận. Hoặc có chúng sanh từ địa ngục, chết rồi cũng sanh lại địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, cho đến người, trời, A tu la v.v... Cũng lại như vậy, đó gọi là mạng đã tận mà nghiệp không tận.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh nghiệp đã tận mà mạng không tận. Hoặc có chúng sanh hết vui thì thọ khổ, hết khổ thì được vui ... đó gọi là nghiệp đã tận mà mạng không tận.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp lẫn mạng đều tận. Hoặc có chúng sanh từ địa ngục ra lại sanh vào súc sanh hay là ngạ quỷ, cho đến người, trời, A tu la v.v... đó gọi là cả nghiệp lẫn mạng đều tận.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh cả nghiệp lẫn mạng đều không tận. Hoặc có chúng sanh đã tận trừ các phiền não. Ðó gọi là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán ... đó gọi là cả nghiệp lẫn mạng đều không tận.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh tuy sanh ở ác đạo nhưng hình dung lại tốt đẹp, mắt mày đoan nghiêm, da thịt trong sáng ai cũng thích nhìn. Nếu có chúng sanh do dục phiền não, khởi ra nghiệp phá giới. Do nhân duyên này, tuy sanh ác đạohình dung tốt đẹp, mắt mày đoan nghiêm, da thịt trong sáng ai cũng muốn nhìn.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh ở ác đạo, hình dung xấu xí, da thịt thô rít, chẳng ai muốn nhìn. Hoặc có chúng sanh do phiền não sân khởi ra nghiệp phá giới. Do nhân duyên này sanh nơi ác đạo, hình sắc xấu xí, da thịt thô rít, chẳng ai muốn nhìn.

Lại có nghiệp hay khiến cho chúng sanh sanh nơi ác đạo, thân miệng hôi thúi, các căn khuyết tật, hoặc có chúng sanh do phiền não si khởi ra nghiệp phá giới. Do nhân duyên này sanh nơi ác đạo, thân miệng hôi thúi, các căn khuyết tật.

Lại có mười nghiệp bị ác báo bên ngoài. Hoặc có chúng sanh đối với mười nghiệp bất thiện phần nhiều tu tập, cảm các ngoại vật đều không được đầy đủ:

1. Do nghiệp sát cho nên khiến cho các quả báo bên ngoài như đại địa muối mặn, cỏ thuốc không có.

2. Do nghiệp trộm cắp nên cảm ra bên ngoài như sương, mưa đá, trùng sâu... khiến cho đời sống bị đói khát.

3. Do nghiệp tà dâm cho nên cảm ra gió mưa dữ dội, và các trần ai.

4. Do nghiệp nói dối cho nên cảm sanh ngoại vật đều bị hôi thúi.

5. Do nghiệp nói hai lưỡi, cho nên cảm ra đại địa bên ngoài cao thấp không bằng, bờ ao hang hiểm gồ ghề, gai gốc.

6. Do nghiệp ác khẩu mà cảm sanh quả báo bên ngoài như ngói, đá, cát, sỏi, vật xấu thô rít không thể gần gũi.

7. Do nghiệp nói thêu dệt nên cảm sanh quả báo bên ngoài, khiến thành cỏ cây rừng rậm, cành nhánh chông gai.

8. Do nghiệp tham nên cảm sanh quả báo bên ngoài khiến cho mầm lúa, hạt giống vi tế.

9. Do nghiệp sân hận cảm sanh quả báo bên ngoài, khiến cho cây cối có trái đắng.

10. Do nghiệp tà kiến cho nên cảm sanh quả báo bên ngoài lúa mạ, hạt thu gặt ít ỏi.

Do mười nghiệp này bị ác báo bên ngoài vậy.

Lại có mười nghiệp được quả báo thù thắng ở bên ngoài. Nếu có chúng sanh tu mười thiện nghiệp mà không chống trái nên biết liền đạt được mười quả báo thù thắng ở bên ngoài. Hoặc có chúng sanh lạy tháp miếu của Phật, được mười món công đức:

1. Ðược sắc đẹp, tiếng hay.

2. Có nói ra điều gì ai cũng tin phục.

3. Không sợ sệt trước mọi người.

4. Trời người đều ái hộ.

5. Ðầy đủ oai thế.

6. Có oai thế chúng sanh đều đến thân cận nương nhờ.

7. Thường được thân cận chư Phật, Bồ tát.

8. Có đầy đủ đại phước đức.

9. Mạng chung được sanh lên trời.

10. Mau chứng Bồ đề.

Ðó gọi là lạy tháp miếu của Phật được mười món công đức.

Hoặc có chúng sanh cúng thí bảo cái được mười món công đức:

1. Sống ở thế gian như là cái dù che chở chúng sanh.

2. Thân tâm an ổn xa lìa các nhiệt não.

3. Mọi người đều kính trọng, không dám khinh mạn.

4. Có oai thế lớn.

5. Thường được thân cận chư Phật, Bồ tát, có oai đức lớn, lấy đó làm quyến thuộc.

6. Hằng được làm Chuyển Luân Thánh Vương.

7. Luôn luôn làm thượng thủ tu tập thiện nghiệp.

8. Có đầy đủ phước báo lớn.

9. Mạng chung được sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí bảo cái được mười món công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí tràng phan được mười món công đức:

1. Ở đời giống như cái tràng phan, từ quốc vương đại thần, thân hữu tri thức cung kính cúng dường.

2. Giàu có tự tại, đầy đủ tài sản lớn.

3. Tiếng tốt truyền khắp bao trùm các phương.

4. Tướng mạo đoan nghiêm, thọ mạng lâu dài.

5. Thường ở chỗ mình, thi hành kiên cố.

6. Có danh xưng lớn.

7. Có oai đức lớn.

8. Sanh nhà thượng tộc.

9. Thân hoại mạng chung được sanh lên trời.

10. Mau chứng Bồ đề.

Ðó gọi là cúng thí tràng phan được mười công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí chuông linh được mười công đức:

1. Ðược tiếng Phạm âm.

2. Ðược tiếng tăm lớn.

3. Tự biết kiếp trước.

4. Nói ra điều gì ai cũng kính thọ.

5. Thường có bảo cái để tự trang nghiêm.

6. Có ngọc anh lạc đẹp làm đồ trang sức.

7. Diện mạo đoan nghiêm, ai nhìn thấy cũng hoan hỷ.

8. Có đủ đại phước báo.

9. Mạng chung được sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí chuông linh được mười món công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí y phục được mười món công đức:

1. Mặt, mắt đoan nghiêm.

2. Da thịt tề nhuyễn.

3. Không dính bụi bặm.

4. Lúc sanh ra có đầy đủ y phục tốt đẹp.

5. Có ngọa cụ tốt đẹp, bảo cái che thân.

6. Có đầy đủ y phục hổ thẹn.

7. Ai thấy cũng kính yêu.

8. Có tài bảo lớn.

9. Mạng chung sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí y phục được mười món công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí đồ ẩm thực được mười món công đức:

1. Ðược thọ mạng.

2. Ðược sắc đẹp.

3. Ðược sức lực.

4. Ðược vô ngại biện tài an ổn.

5. Ðược vô sở úy.

6. Không có các sự biếng nhác, mọi người kính ngưỡng.

7. Mọi người đều yêu thích.

8. Có đủ phước báo lớn.

9. Mạng chung sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí đồ ẩm thực được mười điều công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí giày dép được mười món công đức:

1. Có đầy đủ xe đẹp.

2. Chân đi bình an.

3. Bàn chân mềm mại.

4. Ði xa khang kiện nhẹ nhàng.

5. Thân không mệt mỏi.

6. Dù đi đến đâu cũng không bị chông gai, ngói sạn làm chân bị tổn thương.

7. Ðược thần thông lực.

8. Ðầy đủ các sứ giả giúp đỡ.

9. Mạng chung được sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí giày dép được mười điều công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí hương hoa được mười món công đức:

1. Xử thế như bông hoa.

2. Thân thể không hôi thúi.

3. Hương phước hương giữ giới bay khắp các phương.

4. Tùy sanh ở đâu, tỷ căn không hư hoại.

5. Vượt trên thế gian được mọi người quy ngưỡng.

6. Thân thường sạch thơm.

7. Yêu thích chánh pháp, thọ trì đọc tụng.

8. Ðủ phước báo lớn.

9. Mạng chung sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí hương hoa được mười công đức.

Nếu có chúng sanh cúng thí đèn sáng được mười công đức:

1. Chiếu sáng thế gian như đèn.

2. Tùy sanh ở đâu mắt thịt không bị tổn hoại.

3. Ðược thiên nhãn.

4. Ðối với các pháp thiện ác, có trí tuệ biết rõ.

5. Trừ diệt sự si ám lớn.

6. Ðược trí tuệ sáng suốt.

7. Lưu chuyểnthế gian, thương không bị ở nơi tối tăm.

8. Có đủ phước báo lớn.

9. Mạng chung được sanh lên trời.

10. Mau chứng Niết bàn.

Ðó gọi là cúng thí đèn sáng được mười công đức.

Nếu có chúng sanh cung kính chắp tay được mười công đức:

1. Ðược phước báo thù thắng.

2. Sanh nhà giòng tộc cao.

3. Ðược sắc đẹp thù thắng.

4. Ðược âm thanh hay thù thắng.

5. Ðược bảo cái đẹp thù thắng.

6. Ðược biện tài vi diệu thù thắng.

7. Ðược đức tin vi diệu thù thắng.

8. Ðược giới vi diệu thù thắng.

9. Ðược đa văn vi diệu thù thắng.

10. Ðược diệu trí thù thắng.

Ðó gọi là cung kính chắp tay được mười công đức.

Bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp này xong, trưởng giả Thủ Ca được tín tâm thanh tịnh đối với Như Lai.

Bấy giờ Thủ Ca, đầu mặt lạy đức Phật nói như vầy:

–Nay con thỉnh đức Phật đến thành Xá bà Ðề, đến chỗ cha của con, nhà của trưởng giả Ðao Ðề. Mong Ngài làm cho cha của con và tất cả chúng sanh mãi mãi được an lạc.

Khi ấy đức Thế Tôn vì lợi ích cho mọi người nên im lặng nhận lời.

Bấy giờ Thủ Ca nghe Phật dạy xong, trong lòng hết sức hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra. 

 

PHẬT NÓI KINH NGHIỆP BÁO SAI BIỆT CHO TRƯỞNG GIẢ THỦ CA

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11945)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12551)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10762)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9942)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15336)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15357)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14835)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13105)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11628)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12761)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10297)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15303)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11463)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14146)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24604)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant