Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phân Biệt Bố Thí

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13220)
Kinh Phân Biệt Bố Thí


PHẬT NÓI KINH PHÂN BIỆT BỐ THÍ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0084 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Tam Tạng Ðại sư Thi Hộ phụng chiếu.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn cây Ni Câu Ðà, thành Ca Tỳ La Vệ, trụ xứ của dòng họ Thích, cùng chúng Bí sô đông đủ.

Bấy giờ có một vị Bí sô ni tên là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề mang y mới đi đến chỗ đức Phật. Ðến chỗ đức Phật rồi, cúi lạy dưới chân Phật rồi đứng qua một bên, bạch đức Phật:

–Thưa Thế Tôn, cái y mới này được dệt bằng sợi kim tuyến chính tay con may ra để dâng lên đức Thế Tôn. Cúi mong đức Thế Tôn thọ nhận để cho con mãi mãi được sự lợi lạc lớn.

Khi ấy, đức Phật bảo bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề:

–Ngươi có thể đem cái y này bố thí cho đại chúng sẽ được lợi lạc cũng giống như cúng dường cho ta không có khác gì cả.

Lúc đó, Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề lại bạch đức Phật:

–Con vốn phát tâm tạo ra y này là chỉ để cúng cho Thế Tôn mà thôi. Cúi mong đức Phật hãy thọ nhận để cho con mãi mãi được lợi lạc lớn.

Ba lần ân cần khuyến thỉnh như vậy, đức Phật cũng ba lần đáp lại như vầy:

–Hãy nên bình đẳngbố thí cho đại chúng sẽ đạt được sự lợi lạc không khác gì bố thí cho ta vậy.

Bấy giờ tôn giả A Nan đang đứng hầu một bên đức Phật thấy việc này rồi, đến trước bạch đức Phật rằng:

–Thưa Thế Tôn, Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề này là người thân hữu, có ân đức đối với Phật. Cúi mong đức Phật tự biết, bà đã dâng y mong Phật, nay đã đúng thời, thọ nhận để cho Ma Ha Ba Xà Ba Ðề mãi mãi được lợi lạc lớn.

Ðức Phật bảo ngài A Nan:

–Ðúng vậy, đúng vậy! Ma Ha Ba Xà Ba Ðề này là người thân quyến, có ân đức lớn đối với ta, ta cũng tự biết như vậy. Chính tự tay bà đã tạo ra y này để dâng cho ta, đây là việc hết sức khó khăn. Vì sao vậy? A Nan nên biết, nếu có Bổ Ðặc Già La nào có thể khởi lên tín tâm thanh tịnh, quy y Phật, Pháp và Tăng, điều đó rất khó.

Lại nữa, người ấy có thể giữ giới không giết, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu ... thân cận tôn thờ giới luật, như vậy Bổ Ðặc Già La ấy lại có thể làm việc khó làm. Huống chi đối với Phật Thế Tônchắp tay cung kính thực hành bố thí, đã bố thí rồi, tịnh tín nơi đức Phật không có nghi ngờ và đối với Pháp, Tăng già cũng không có nghi hoặc, cho đến đạo lý của Tứ Thánh Ðế là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo đã vĩnh viễn đoạn trừ nghi kiến.

Này A Nan, nay Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề này có thể khởi lên tín tâm, thanh tịnh, quy y Phật, Pháp và Tăng, thọ trì giới không giết, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu ... thọ giới pháp cận sự rồi còn có thể đối với Phật, Pháp, Tăng già cho đến đạo lý của Tứ Thánh Ðế là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo đã đoạn trừ nghi hoặc. Bí sô ni này, việc khó làm mà có thể làm được, Phật cũng tự biết như vậy.

Này A Nan, có mười bốn thứ để so lường sự bố thí. Những gì là mười bốn?

1. Thực hành bố thí đối với người bệnh khổ.

2. Thực hành bố thí đối với người phá giới.

3. Thực hành bố thí đối với người trì giới.

4. Thực hành bố thí đối với người lìa ô nhiễm.

5. Thực hành bố thí đối với người Tu đà hoàn hướng.

6. Thực hành bố thí đối với người Tu đà hoàn quả.

7. Thực hành bố thí đối với người Tư đà hàm hướng.

8. Thực hành bố thí đối với người Tư đà hàm quả.

9. Thực hành bố thí đối với người A na hàm hướng.

10. Thực hành bố thí đối với người A na hàm quả.

11. Thực hành bố thí đối với người A la hán hướng.

12. Thực hành bố thí đối với người A la hán quả.

13. Thực hành bố thí đối với các vị Duyên giác.

14. Thực hành bố thí đối với Như Lai Ứng cúng Chánh Ðẳng Giác.

Này A Nan, nay ngươi nên biết, bố thí cho người bệnh khổ được phước gấp đôi, bố thí cho người phá giới được phước gấp trăm, bố thí cho người trì giới được phước gấp ngàn, bố thí cho người ly nhiễm (dục) được phước gấp trăm ngàn. Bố thí cho vị Tu đà hoàn hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị Tư đà hàm quả. Bố thí cho vị A na hàm hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị A na hàm quả. Bố thí cho vị A la hán hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị A la hán quả. Bố thí cho vị Duyên giác được phước vô lượng, huống chi là bố thí đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy gọi là so lường mười bốn công đức bố thí.

Lại nữa, này A Nan, nên biết bố thí cho đại chúng có bảy loại:

1. Bố thí cho các Bí sô chúng khi Phật còn hiện tiền.

2. Bố thí cho các Bí sô chúng sau khi Phật diệt độ.

3. Bố thí cho chúng Bí sô ni sau khi Phật diệt độ.

4. Bố thí cho hai chúng Bí sô và Bí sô ni sau khi Phật diệt độ.

5. Bố thí cho các chúng Bí sô du phương hành hóa sau khi Phật diệt độ.

6. Bố thí cho chúng Bí sô ni du phương hành hóa sau khi Phật diệt độ.

7. Bố thí cho hai chúng Bí sô và Bí sô ni du phương hành hóa sau khi Phật diệt độ.

Như vậy gọi là bảy loại đại chúng cần nên bố thí.

Lại nữa, này A Nan, nên biết có bốn loại bố thí thanh tịnh. Những gì là bốn?

1. Người bố thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận.

2. Vật được thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận.

3. Người thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người bố thí.

4. Vật được thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người thí.

Này A Nan, sao gọi là người bố thí thanh tịnh thì không thấy có người thọ nhận?

–Ðó là do người bố thí không chấp thủ hình tướng, nên thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, chánh mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh. Ðầy đủ như vậy liền không có tướng thí, vì không có người thí cho nên cũng không có người nhận. Nếu người thí mà có thấy tướng thì ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng cũng không thanh tịnh, cái thấy cũng không thanh tịnh. Nếu xa lìa cái tướng này thì người thí và người nhận, cả hai đều thanh tịnh.

Lại nữa, tại sao gọi là vật được thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận?

–Nếu kẻ thọ nhận thân nghiệp không thanh tịnh, khẩu nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, mạng không thanh tịnh, cái thấy không thanh tịnh, thì liền có tướng nơi đối tượng bố thí. Nếu người thọ nhận mà ba nghiệp thanh tịnh, mạng thanh tịnh, cái thấy thanh tịnh, đầy đủ như vậy liền không có cái tướng của đối tượng bố thí. Do xa lìa tướng cho nên đối tượng bố thí được thanh tịnh.

Lại nữa, sao gọi là người thọ nhận thanh tịnh liền không có người thí?

–Nếu người thọ nhận mà ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng cũng không thanh tịnh, cái thấy cũng không thanh tịnh, thì liền có tướng của người thọ. Nếu lìa tướng ấy liền không có người thí.

Lại nữa, sao gọi là vật được thọ nhận thanh tịnh liền không có người thí?

–Ðó là do người thí, ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh liền không có vật được thí. Do lìa người thí, liền không có người được thọ nhận. Cho nên đối tượng thọ nhận thanh tịnh.

Này A Nan, nếu hay biết rõ như vậy, liền được bốn loại bố thí thanh tịnh.

Bấy giờ Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nghe Phật tuyên thuyết những pháp bố thí rồi, liền cầm cái y ấy cúng cho đại chúng.

Khi ấy chúng Bí sô liền thọ nhận. Ðức Phật bảo ngài A Nan:

–Ở trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử ... tín tâm có thể đối với đại chúng khởi tâm tịnh tín làm việc bố thí, nên biết kẻ ấy được phước vô lượng, huống chi ngay nơi hiện tạithực hành bố thí.

Bấy giờ tôn giả A Nan và Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nghe Phật nói xong, hoan hỷ, phấn khởi, tín thọ phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH PHÂN BIỆT BỐ THÍ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22292)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16019)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15026)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18951)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14445)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18628)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14427)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13584)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13548)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11817)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13253)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13650)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13935)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13247)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15024)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16160)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16450)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11904)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17594)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12873)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13703)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12858)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14854)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16382)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13125)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12082)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12772)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12906)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14173)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14109)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16472)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12377)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14380)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11307)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11025)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13190)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13890)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13156)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12998)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13501)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10220)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11644)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12669)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10794)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10933)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11066)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12613)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11321)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant