Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Nhân Duyên Chấm Dứt Đấu Tranh

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12876)
Kinh Nhân Duyên Chấm Dứt Đấu Tranh


PHẬT NÓI KINH NHÂN DUYÊN CHẤM DỨT ÐẤU TRANH


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0085 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Tam Tạng Ðại sư Thi Hộ phụng chiếu.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Thế Tôn ở trong xóm làng của Xá Ma Ca Tử, vào hạ an cư. Các chúng Bí Sô ở cách Phật không xa cũng đều an cư.

Bấy giờ có Sa Môn tên là Tôn Na, cũng an cư vào hạ ở trong rừng Nhạ Lô Ca. Ở đó có ngoại đạo Ni tên là Ðàn Nhạ Ðề Tử, là người cực ác, bỗng nhiên mạng chung. Ni Càn Ðà ấy có một người con muốn khởi đấu tranh với Sa Môn. Nói như vầy:

–Pháp luật của ta chỉ có ta tự biết, chẳng phải là chỗ ngươi biết được. Pháp luật của ngươi chỉ có ngươi tự biết, cũng chẳng phải là chỗ ta biết. Những pháp của ta tất cả đều như lý. Những pháp của ngươi đều phi lý. Pháp của ta là hòa hợp, pháp của ngươi là không hòa hợp. Những điều ngươi nói, lời trước dẫn trúng, lời sau liền sai. Lời sau có thể trúng thì lời trước liền sai. Những lời ngươi nói đều chẳng có ý nghĩalợi ích. Không nắm bắt được. Tuy ngươi có nói rộng mấy cũng không thể giải thoát, cũng không thể biết thật nghĩa tối thượng được, nghĩa là những điều Sa Môn nói không giống với pháp của ta. Làm sao có thể khiến cho tâm ta giải thoát cho được?

Ni Càn Ðà Tử cố nói lời này nhằm mục đích khởi sự phá hoại, muốn đấu tranh làm tổn giảm lực lượng, dùng duyên khổ não để phá hoại pháp an lạc. Do nhân duyên ấy, đối với trong pháp thanh bạch của Sa Môn khởi lên nghiệp bất thiện, nhằm hưng khởi sự đấu tranh, phá hoại đủ thứ, sanh tâm ngã mạn, gọi đó là thắng người khác, mới nói:

–Những điều Sa Môn nói điều phi pháp luật, bất chơn chánh hiểu rõ, không thể xuất ly, đối với đạo Bồ Ðề không thể đạt được. Thầy của ngươi chẳng phải là Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ Sa Môn Tôn Na vào hạ đã mãn, may y đã xong, liền rời khỏi xứ đó, mang y cầm bát thứ lớp mà đi, vào làng xóm của Xá Ma Ca Tử, đến rồi cất y bát, rửa chân, đi đến chỗ của Tôn Giả A Nan, đầu mặt dưới chân Tôn giả rồi đứng qua một bên. Khi ấy Tôn giả A Nan hỏi Sa Môn Tôn Na rằng :

–Này Tôn Na, ông an cư mùa hạ ở nơi nào? Lại do duyên gì mà lại đến đây?

 Tôn Na thưa rằng :

–Thưa Tôn giả, con ở trong rừng Nhạ Lô Ca, nơi ác xứ để an cư vào hạ. Ở đó ngoại đạo Ni Càn Ðà Nhạ Ðề Tử là người cực ác, bỗng nhiên mạng chung. Ni Càn Ðà có một người con muốn khởi lên sự tranh đấu đối với Sa Môn... cho đến nó nói:

–Thầy của ngươi chẳng phải là Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh giác. Do nhơn duyên ấy con đến đây.

Ngài A Nan nói rằng :

–Này Tôn Na, ta biết việc này, vì đức Phật Thế Tôn không ở trong chúng, cho nên mới có ngoại đạo hưng khởi sự đấu tranh. Bây giờ ông không được tranh đấu cùng họ, nếu khởi sự đấu tranh liền không có lợi ích cho nhiều người, lại khiến cho nhiều người sanh ra các phiền não, cho đến các chúng thiên nhân đều chẳng có lợi ích, đều sanh khổ não. Như những điều Tô Nan đã nói, chỉ có đức pháp Thế Tôn mới thấy biết tất cả. Nay ta cùng người đều đi đến chỗ đức Phật trình bày hết việc này.

Tôn Na thưa rằng:

–Lành thay, thưa Tôn giả. Nếu được gặp Phật, con sẽ được nhiều lợi ích. Lại ở chỗ Phật có thể nghe được chánh pháp sâu xa.

Bấy giờ Tôn giả A Nan cùng sa môn Tôn Na đồng đi đến chỗ của Phật, khi đến lạy dưới chân đức Phật rồi đứng qua một bên. Khi ấy Tôn giả A Nan đến phía trước bạch đức Phật rằng:

–Thưa Thế Tôn, sa môn Tôn Na này an cư mùa hạ trong rừng Nhạ Lô Ca. Ở đó có ngoại đạo Ni Càn Ðà Nhạ Ðề Tử, là người cực ác, bỗng nhiên mạng chung. Ni Càn có một người con muốn khởi lên sự đấu tranh đối với sa môn... cho đến nó nói rằng: “Thầy của ngươi chẳng phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng Chánh giác”. Do nhơn duyên đó cho nên sa môn này mới đến nói với con. Thưa Thế Tôn, bấy giờ con bảo Tôn Na rằng: “Vì đức Phật Thế Tôn không ở trong chúng cho nên mới có ngoại đạo muốn hưng khởi đấu tranh. Vậy bây giờ ông không được tranh cải cùng họ. Nếu khởi sự đấu tranh liền không có lợi ích cho nhiều người, lại khiến cho nhiều người sanh ra khổ não, cho đến các chúng trời, người đều không có lợi ích, đều sanh khổ não”.

Ðức Phật bảo Ngài A Nan:

-Ngươi thấy duyên gì mà nói “Ðức Phật không ở trong chúng cho nên có bọn ngoại đạo khởi lên sự đấu tranh”?

Tôn giả A Nan thưa với Phật:

–Thưa Thế Tôn, vào một thời con thấy có hai Bí sô được đức Phật khen ngợi là hai Bí sô khéo trì luật pháp, thực hành oai nghi theo thứ lớp ở một chỗ. Lúc ấy con thấy như vậy rồi, gọi họ lại nói rằng: “Này hai Bí sô, không nên hiện tướng oai nghi như vậy. Ðức Phật không ở trong chúng, hoặc có ngoại đạo thấy tướng này rồi khởi lên sự đấu tranh. Nếu khởi lên sự đấu tranh liền khiến cho nhiều người...cho đến các chúng trời người đều không có lợi ích, đều sanh ra khổ não”. Con nhớ lại duyên này nên mới nói với Sa môn Tôn Na như vậy.

Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan:

–Ý ngươi thế nào?

Tôn giả A Nan bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, đối với việc này con không thể biết rõ.

Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan:

–Ta dùng tự trí biến thành chánh giác, ở trong khoảng giữa có rộng thuyết của pháp. Ðó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh đoạn, Tứ thần túc, Ngũ căn Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo. Những pháp như vậy ta đã tuyên thuyết, ta biết tất cả, ta thấy tất cả. Này A Nan, đa số các ngoại đạo đối với chúng Bí sô khởi lên sự đấu tranh này, ngươi có thể biết chăng?

Tôn giả A Nan bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con không thể biết được.

Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan:

–Ðó là có Bí sô đối với giới có khi tăng, hoặc có khi giảm. Ðối với oai nghi có khi tăng hoặc có khi giảm. Này A Nan, nếu giới và oai nghi mà có khi tăng giảm liền làm mất thường pháp, tùy theo chỗ sở hành mà có ngoại đạo thấy việc đó rồi liền khởi ra sự đấu tranh. Nếu sự đấu tranh khởi ra liền khiến cho nhiều người...cho đến các chúng trời, người chẳng có lợi ích, đều sanh khổ não. Vì sao vậy? Này A Nan, các bọn ngoại đạo Ni Càn Ðà chẳng phải là Nhất Thiết Trí, cũng chẳng phải là chơn thật đối với tất cả xứ, tất cả sở kiến đều chẳng thanh tịnh, cho nên họ thường ưa khởi ra sự đấu tranh. Này A Nan, nên biết các chúng bí sô khi khởi lên sự đấu tranh, do có các thứ căn bản đấu tranh.

Tôn giả A Nan bạch đức Phật:

–Lành thay, thưa Thế Tôn! Lành thay, thưa thiện thệ. Nay đã đúng lúc, cúi mong đức Phật tuyên thuyết về căn bản của sự đấu tranh, khiến cho các bí sô nghe rồi ghi nhớ, thọ trì, thường xa lìa sự lỗi lầm.

Ðức Phật bảo Tôn giả A Nan:

Các ngươi hãy lắng nghe, như lý tác ý, hãy khéo nhớ nghĩ. Nay ta sẽ nói cho. Này A Nan, nếu có bí sô khởi tâm phẫn nộ, do tâm phẫn nộ cho nên đối với sư Trưởng không sanh tâm cung kính, tôn trọng, cũng không thể tôn thờ, cúng dường. Do không cung kính Sư trưởng cho nên liền không thấy pháp. Vì không thấy pháp cho nên đối với trong chúng bí sô không quán sát chơn chánh. Do không quán sát chơn chánh cho nên khởi ra sự đấu tranh. Do đấu tranh khởi ra liền khiến cho nhiều người...cho đến chúng trời, người đều không có lợi ích, đều sanh ra khổ não. Lại có Bí sô đối với trong và ngoài đều chấp cho là có, cho là thật, quán sát, chú ý, tích tập, vui mừng với các tác ý, tà ý cực ác, bộc phát ra tà động, buông ra tà vọng ngữ, dẫn khởi sự đấu tranh. Như vậy vọng niệm bất chánh tri, khởi ra sự không tương ứng...cho đến đối với duyên của sự đấu tranh không thể đoạn diệt được. Này A Nan, những việc như vậy là căn bản của sự đấu tranh, cho nên sanh ra các khổ não. Nhân của khổ não là do trước tiên khởi ra tâm phẩn nộ. Như vậy lại khởi ra sự che lấp, dối láo, dèm pha, ganh ghét, xan tham, không hổ, không thẹn, bất chánh tri và kiến thủ...và các ức niệm chấp trước tà vọng, do các ác nhân duyên như vậy, đối với Sư trưởng không khởi các tâm cung kính tôn trọng, cũng lại không thể tôn thờ sự cúng dường. Do không tôn kính Sư trưởng của mình cho nên liền không thấy pháp. Vì không thấy pháp cho nên liền đối với chúng Bí sô không quan sát chơn chánh. Do không quan sát chơn chánh cho nên mới khởi ra sự tranh đấu.

Này A Nan, như điều ta nói, các duyên như vậy đều là căn bản của sự đấu tranh. Do nhân duyên này, nếu lúc đấu tranh khởi ra, có bảy pháp để diệt sự đấu tranh, như ta đã nói, này A Nan, Có các việc tranh đấu đã khởi sanh hay chưa khởi sanh đều có thể chấm dứt tiêu diệt. Những gì là bảy? Ðó là: Hiện tiền tỳ ni, Ức niệm tỳ ni, Bất si tỳ ni, Tự ngôn trị, Ða nhân ngữ, Tri sở tác, Như thảo phú địa. Ðó là bảy.

Thế nào gọi là Hiện tiền tỳ ni diệt tránh pháp? Này A Nan, cái gọi là một người vì một người thuyết pháp tỳ ni, một người vì hai người thuyết, một người vì nhiều người thuyết, một người vì đại chúng thuyết. Hiện tiền thành bốn. Hai người vì một người thuyết pháp tỳ ni, hai người vì một người thuyết, hai người vì nhiều người thuyết, hai người vì đại chúng thuyết. Hiện tiền thành bốn. Nhiều người vì một người thuyết pháp tỳ ni, nhiều người vì hai người thuyết, nhiều người vì đại chúng thuyết. Hiện tiền thành bốn. Ðại chúng vì một người thuyết pháp tỳ ni, đại chúng vì hai người thuyết, đại chúng vì nhiều người thuyết, đại chúngđại chúng thuyết. Hiện tiền thành bốn. Như vậy gọi là Hiện tiền tỳ ni diệt tránh pháp. Do pháp này nên khiến cho sự đấu tranh được chấm dứt, tiêu diệt.

Sao gọi là Ức niệm tỳ ni diệt tránh pháp? Này A Nan, đó là có Bí sô tùy theo sự phạm tội rồi nhưng không tự nhớ được. Các Bí sô khác nói rằng: “Ngươi phạm tội này phải nên nhớ lại, đối với đại chúng cầu xin đại chúng làm pháp Ức niệm tỳ ni”. Vị Bí sô ấy liền vào trong chúng cầu xin đại chúng làm pháp Ức niệm tỳ ni. Bấy giờ đại chúng như Ðại sư dạy ban cho pháp Ức niệm tỳ ni. Vị Bí sô ấy đã xuất tội rồi, diệt trừ sự đấu tranh. Như vậy gọi là Ức niệm tỳ ni diệt tránh pháp. Nhờ pháp này nên khiến cho việc đấu tranh được tiêu diệt.

Sao gọi là Bất si tỳ ni diệt tránh pháp? Này A Nan, đó là nếu có Bí sô si cuồng tâm loạn do đau não gây ra. Tuy được nghe nhiều nhưng không thể thuận hành với pháp đã nghe, trái lại nói tạp loạn, nói như vậy rồi bỏ chúng mà đi. Bí sô ấy về sau tâm lý được bình thường trở lại, các Bí sô khác nói rằng: “Người phạm tội này nên vào trong chúng cầu xin đại chúng làm pháp Bất si tỳ ni”. Bí sô ấy liền vào trong chúng cầu xin đại chúng làm pháp Bất si tỳ ni. Bấy giờ đại chúng như lời Ðại sư dạy, ban cho vị ấy pháp Bất si tỳ ni. Vị Bí sô ấy được xuất tội rồi, diệt trừ sự đấu tranh. Như vậy gọi là Bất Si tỳ ni diệt tránh pháp. Nhờ pháp này nên có thể khiến cho sự đấu tranh được chấm dứt.

Sao gọi là Tự ngôn trụ diệt tránh pháp? Này A Nan, đó là nếu có Bí sô không biết tội tướng, nói rằng: “Biết nhiều, hiểu nhiều, lại ở trong chúng phát ngôn như vầy: Tôn giả, tôi đối với mọi sự lợi dưỡng khó mà đạt được”. Các Bí sô khác bảo rằng: “Ngươi đối với tội tướng, không biết, không hiểu mà nói biết nhiều, hiểu rộng. Ngươi phạm tội này, nên đối chúng cầu xin đại chúng sám hối, tạ tội”. Vị Bí sô ấy liền vào trong chúng cầu xin đại chúng thương xót rồi tự hối trách. Bấy giờ đại chúng như lời Ðại sư dạy, ban cho pháp Tự ngôn trị. Vị Bí sô được xuất tội rồi, sự tranh đấu liền chấm dứt. Do nhờ pháp này có thể khiến cho sự đấu tranh được chấm dứt.

Sao gọi là Ða nhân ngữ diệt tránh pháp ? Này A Nan, đó là nếu hai Bí sô cùng ở một chỗ, sự đấu tranh bỗng nhiên khởi ra, buông ra nhiều lời đưa đến sự tranh luận dữ dội. Ai cũng chấp vào lời nói của mình: có lời nói đúng pháp, có lời nói phi pháp, có lời nói đúng luật, có lời nói sai luật, có lời nói có tội, có lời nói không có tội. Khi có sự đấu tranh của hai Bí sô ấy chấm dứt thì tốt, nếu không chấm dứt thì hai vị Bí sô ấy phải lìa trụ xứ của mình, đến chỗ khác rồi còn khởi sự đấu tranh, lìa chỗ này rồi, nếu có thể nữa đường mà chấm dứt sự đấu tranh là tốt, nếu không chấm dứt được, nhiều chúng Bí sô hợp lại để diệt sự đấu tranh. Có vị dùng kinh để phân biệt nói, có vị dùng luật để phân biệt nói, có vị dùng Ma Ðát Lý Ca (Luận tạng) để phân biệt thuyết. Nhờ có nhiều người phân biệt thuyết, cho nên sự đấu tranh của hai bí sô được chấm dứt. Như vậy gọi là đa nhân ngữ diệt tránh pháp. Nhờ pháp này cho nên khiến sự tranh chấp được chấm dứt.

Sao gọi tri sở tác diệt tránh pháp? Này A Nan, đó là nếu Bí sô tùy theo sự phạm tội rồi tự biết đã phạm, hoặc nói cho người khác biết, hoặc không nói cho người khác biết, như người tự nhớ nghĩ rồi đi đến chỗ Tỳ kheo khác, cởi giày da ra, đứng trước Bí sô ấy, trạch vai áo, gối bên phải quỳ dưới đất, ba lần xưng tên họ rồi thưa rằng: “Tôi phạm tội ấy, không dám che dấu, đi đến tôn giả cầu xin sám hối. Cúi mong tôn giả hoan hỷ bố thí”. Bấy giờ vị tôn giả kia liền nhận sự sám hối đó. Vị Bí sô ấy được thanh tịnh rồi, tôn giả kia nói rằng : “ Ngươi thấy tội tướng này chăng?” .Bí sô đáp: “Tôi đã thấy tội tướng này”. Tôn giả lại nói “Ngươi nên như pháp mà phụng trì luật nghi”. Nói lên ba lần vậy. Ðó gọi là Tri Sở tác diệt tránh tội. Nhờ pháp này cho nên khiến cho sự tranh chấp được chấm dứt.

 Sao gọi là Như Thảo phú địa diệt tránh pháp? Này A Nan, đó là các chúng Bí sô cùng ở tại một chỗ, cùng khởi lên sự đấu tranh, chia làm hai nhóm. Bấy giờ trong một nhóm. Những người lớn tuổi ở một chỗ với người lớn tuổi, người biết pháp ở một chỗ với người biết pháp, thượng thủ ở một chỗ với thượng thủ. Ở trong nhóm đó có Bí sô vì lợi dưỡng cho nên khởi ra sự đấu tranh. Khởi lên sự đấu tranh rồi, đối với trong chúng mình nói như vậy: “Nhà bạch y ở xứ kia dễ được lợi dưỡng. Tôi ở trong đó như pháp luật mà thuyết”. Có Bí sô khác vì do duyên này nên đối với tôi mới khởi ra tranh chấp. Này chư đại đức, nếu tôi vì việc này mà phạm tội tranh chấp, mong các đại đức bỏ tội này cho tôi, cho đến tôi cố ý vào nhà bạch y, cũng đều xin sám hối trừ bỏ. Vì phạm tội Ðột Kiết Ta, tôi từ nay về sau không làm việc này nữa, nếu có làm tôi sẽ đến các đại đức cầu xin sám hối. Nếu tôi có làm thì không dám che dấu”. Khi Bí sô này làm pháp sám hối này, mà nếu khi tự trong nhóm chỉ có một Bí sô không chấp nhận cho sám hối, vị Bí sô ấy liền vào nhóm khác, cởi bỏ dép da, trạch vai áo, theo thượng tọa kỳ hiên (lớn tuổi), thứ lớp hỏi thăm rồi trở lại đứng trước vị thượng tọa, quỳ gối bên phải, đứng chấp tay bèn bạch chúng rằng: “ Thưa chư đại đức, nhà bạch y ở chỗ kia để được lợi dưỡng, con ở trong đó như pháp luật mà thuyết. Có Bí sô khác vì nhân duyên này nên khởi ra tranh tụng với con, con liền ở trong chúng như pháp mà xin sám hối. Bấy giờ ở trong chúng có một vị Bí sô không chấp nhận cho con sám hối, cho nên con đến dây cầu xin sám hối. Thưa đại đức, nếu con do việc này mà phạm tội tranh chấp, xin các đại đức xuất bỏ việc này cho con...cho đến con từ nhà bạch y đi ra, cũng đều xin sám hối, tiêu trừ tội phạm Ðột Kiết La. Cho nên hôm nay đối trước các đại đức cầu xin sám hối. Những điều con làm không dám che dấu. Cúi xin chư đại đức hoan hỷ bố thí cho sự sám hối của con.

Bấy giờ đại chúng kia liền chấp nhận sự sám hối vị Bí sô kia được thanh tịnh rồi. Vị thượng tọa ấy nói rằng: “Ngươi thấy tội tướng này chăng?”. Bí sô đáp: “Con đã thấy tội tướng này.” Vị thượng tọa nói: “Ngươi nên như pháp phụng trì luật nghi”. Nói ba lần như vậy. Bấy giờ trong nhóm bên kia cũng như nhóm bên này: vị lớn tuổi ở một chỗ với vị lớn tuổi, vị biết pháp ở một chỗ với vị biết pháp, thượng thủ ở một chỗ với thượng thủ. Khi ấy ở trong nhóm có Bí sô vì lợi dưỡng cho nên khởi ra sự tranh chấp. Ðã khởi ra sự tranh chấp rồi, ở trong chúng mình tự nói như vầy: “Ở nhà bạch y kia nể được lợi dưỡng. Con ở trong đó như pháp luật mà thuyết. Có Bí sô khác vì nhân duyên này nên khởi ra sự tranh đấu. Như vậy cho đến lần thứ hai, thứ ba, hỏi-đáp những việc nhiều như đã nói ở trước.

Này A Nan, tất cả Bí sô biết tự mình có phạm, qua lại trình bày sám hối rồi, cùng nhau thăm hỏi, cung kính hỏi han, liền diệt trừ nhân duyên đấu tranh, đình chỉ các lời tranh luận, không còn một chút pháp nào khởi lên phân biệt nữa, như vậy gọi là Như thảo phú địa diệt tránh pháp. Nhờ pháp này cho nên có thể khiến cho sự tranh chấp được chấp dứt.

Này A Nan, bảy pháp diệt tránh như vậy, các Bí sô, các ngươi phải nên ghi nhớ.

Lại nữa, này A Nan, có sáu thứ Hoà Kỉnh pháp các ngươi hãy lắng nghe, như lý tác ý, hãy khéo ghi nhớ, nay ta sẽ nói cho các ngươi. Những gì là sáu?

–Ðó là thân nghiệp làm việc từ hòa, thường ở chỗ Phật tịnh tu phạm hạnh, đối với các pháp tôn trọng kính lễ, như lý tu hành. Ðối với các chúng Bí sô cùng ở hòa hiệp. Ðó gọi là pháp hòa kính của thân nghiệp.

–Lại nữa, đối với ngữ nghiệp nói lời từ hòa không nói lời đấu tranh chống trái. Ðó gọi là pháp hòa kính của ngữ nghiệp.

–Lại nữa, đối với ý nghiệp khởi ra ý nghĩ từ hòa, không có chống trái. Ðó gọi là pháp hòa kính của ý nghiệp.

–Lại nữa, nếu được sự lợi ích của pháp và sự lợi dưỡng của thế gian đều thọ lãnh như nhau. Hoặc có lúc ôm bát thứ lớp khất thực, tùy theo sự được đồ ăn uống các vật, phải thưa cho chúng biết, cùng chúng đồng thọ, chớ dấu dùng riêng. Nếu chúng đồng biết, tức đồng phạm hạnh. Ðó gọi là pháp lợi hòa kính.

–Lại nữa, đối với giới không phá, không đoạn, giới lực kiên cố, lìa cấu uế, được thanh tịnh rồi biết thời, biết xứ, bình đẳng phổ biến, thọ nhận đồ ăn uống của tín thí cúng dường. Như vậy tịnh giới cùng nhau tu, cùng nhau hiểu biết, đồng tu phạm hạnh. Ðó gọi là pháp giới hòa kính.

-Lại nữa, nếu thấy đạo thánh trí đưa đến chứng ngộ xuất ly, cho đến tận cùng biên giới của sự khổ, đối với tướng như vậy, thấy như thật rồi cùng nhau làm việc, cùng nhau hiểu biết, cùng tu phạm hạnh. Ðó gọi là pháp kiến hòa kính.

Những pháp như vậy gọi là pháp Lục hòa kính.

Này A Nan, như trước ta đã nói về căn bản của sự đấu tranh. Hỡi các Bí sô, hãy nên đoạn trừ. Ðối với bảy pháp diệt tránh cần phải biết rõ. Các việc tranh chấp hoặc đã khởi ra, đều khiến cho nó chấm dứt. Hãy cùng nhau tu pháp Lục hòa kính. Này các Bí sô, nếu thực hành như vậy thì dù ở Ðông, Tây, Nam, Bắc, tùy đi đến đâu, hoặc đi, hoặc ở, đều khiến cho các Bí sô được an lạc, xa lìa các sự tranh chấp. Cho đến sau khi ta nhập Niết Bàn cũng khiến cho các chúng Bí sô, dù ở nơi đâu cũng thường được an lạc như ta hiện tại ở đời thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, chẳng khác gì cả.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15187)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12090)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant