Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Trì Trai

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14675)
Kinh Trì Trai


PHẬT NÓI KINH TRÌ TRAI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0087 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Ngô, nước Nguyệt Thị cư sĩ Chi Khiêm

Việt dịch: Thích Tâm Châu

---o0o--- 

 

 

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong điện quan Thừa Tướng, thuộc phía Đông thành Xá-Vệ.

 

Một hôm mẹ quan Thừa Tướng ấy tên là Duy-Da; sáng sớm dậy, bà tắm gội, mặc áo mầu, rồi cùng những người con dâu đi đến chốn Phật. Đến nơi, cùng nhau cúi đầu lễ sát chân Phật. Lễ xong, tất cả đều ngồi về một bên.

 

Đức Phật hỏi bà Duy-Da: Bà tắm gội làm gì sớm thế? - Bà thưa: Lạy đức Thế-Tôn, con muốn cùng những con dâu con cùng thụ trai-giới!

 

Đức Phật dạy: Trai có ba hạng, bà muốn trì hạng trai nào! - Bà Duy-Da liền quỳ xuống và thưa rằng: Lạy đức Thế-Tôn, chúng con chưa biết gì, nay chúng con muốn được Thế-Tôn chỉ giáo cho chúng con nghe biết những gì là ba hạng trì trai? - Đức Phật dạy: Một là trì trai như những người chăn trâu. Hai là trì trai như những người tu đạo Ni-Kiền (Nirgrantha: khỏa thân). Ba là, trì trai của Phật-pháp.

 

- Trì trai như những người chăn trâu: Nghĩa là, những người chăn trâu cầu sao được nước lành, cỏ ngon, trâu ăn uống no. Chiều về suy nghĩ xem cánh đồng nào được phong-nhiêu, để sớm mai lại lùa trâu đến chỗ ấy cho nó ăn. Cũng như những họ hàng, trai, gái, đã thụ trai giới, ý còn để vào lợi-dục sản nghiệp ở nhà và còn nghĩ đến những thức ăn uống ngon, để dưỡng dục thân thể. Thế là, sự trì trai ấy cũng như ý người chăn trâu kia, không được phúc lớn và không phải là sáng suốt lắm.

 

- Trì trai như những người tu đạo Ni-Kiền: Nghĩa là, đến thời trai giới, ngày rằm (15) trong tháng, những người tu đạo Ni-Kiền họ nằm ép mình xuống đất để thụ trai-giới, họ lại làm lễ, lạy các vị Thần trong khu vực mười do-tuần và tâu rằng: "Ngày nay tôi trì trai, không dám làm ác; không dám gọi rằng có nhà người kia, nhà của tôi và tôi không thân quen gì; vợ, con, tôi-tớ không phải là của tôi có, tôi cũng không phải là chủ của họ". Song, cái học của họ chỉ là cái học văn sang mà chất hèn, không có gì là chính tâm cả. Đến sáng mai, khi mặt trời mọc rồi thời tất cả lại có những việc như việc cũ không khác chút nào. Thế là, trì trai như nhưng người tu đạo Ni-Kiền kia không được phúc lớn và không phải là sáng suốt lắm.

 

- Trì trai của Phật-Pháp: Nghĩa là, những đệ-tử trong đạo, theo lời đức Phật dạy, mỗi tháng sáu ngày trai, nên thụ-trì tám giới, Tám giới là những gì?

 

- Giới thứ nhất: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân (2), không có ý giết, nghĩ thương chúng-sinh. Và, không được cướp hại những loài côn trùng nhung-nhúc; không dùng dao, gậy đánh, giết chúng-sinh. Nghĩ muốn được an lành, lợi-lạc, đừng nên làm việc sát sinh. Như Giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ hai: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ý tham lấy của ai, tự-niệm bố-thí và nên cho bằng cách hoan hỷ cùng tự tay mình cầm cho, cho bằng cách trong sạch và cung-kính; không có ý mong-cầu cùng lại tham-lam, keo-lận. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ Ba: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có dâm ý, không nghĩ phòng-thất; tu-trì Phạm-hạnh, không làm tà-dục và tâm không tham-sắc. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ tư: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không ý vọng-ngữ, tư-niệm chí-thành, an-định từ-ngôn, không nói dối-trá, tâm, miệng hợp nhau. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ năm: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không uống rượu, không say, không mê-loạn, không thất ý và bỏ ý buông lung. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ sáu: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ý cầu an, không ham hoa, hương, không soa phấn sáp, không làm việc ca-vũ, xướng-nhạc. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ bảy: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ý cầu an, không nằm giường tốt. Nên nằm giường xấu, chiếu cỏ, bỏ sự nằm ngủ, tư-niệm kinh-đạo. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

- Giới thứ tám: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, vâng theo như pháp ăn đúng thời; ăn ít và tiết-độ thân-thể, quá giữa ngày, sau không ăn. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

 

Đức Phật lại bảo bà Duy-Da: Ngày thụ-trì trai, nên tập niệm năm niệm. Năm niệm là những gì?

 

- Một là, nên niệm Phật: Phật có hiệu là Như-Lai, là Chí-chân, là Đẳng-chính-giác, là Minh-Hạnh-Túc, là Thiện-Thệ thế-gian-phụ, Vô-thượng-Sĩ, Kinh-pháp-ngự, Thiên-nhân-sư... gọi là Phật (3), Thế là niệm Phật. Niệm Phật: ngu si, ác-ý, nộ-tập đều trừ, thiện-tâm tự-sinh, nghĩ vui Phật-nghiệp. Ví như, người ta đem thứ ma du, tảo-đậu gội đầu, trừ được cáu bẩn. Người trì trai niệm Phật, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

 

- Hai là, nên niệm Pháp: Phật thuyết diệu-pháp ba mươi bảy phẩm, (4) đầy đủ không thiếu, tư niệm đừng quên. Và, nên biết Pháp ấy là ánh sáng của thế gian. Thế là niệm Pháp. Niệm Pháp: ngu-si, ác ý, nộ-tập đều trừ, thiện-tâm tự sinh, vui dùng Pháp-nghiệp. Ví như, người ta dùng thứ ma du, tảo-đậu tắm rửa thân thể, trừ được cáu bẩn. Người trì trai niệm Pháp, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

 

- Ba là, nên niệm Chúng (Tăng): Là, những đệ-tử Phật, cung kính, thân cận Phật, nương theo và lĩnh-thụ những lời giáo hóa của Phật để ngộ-nhập Phật tuệ. Những đệ tử Phật có người đắc vị Tu Đà Hoàn, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả-vị Tu Đà Hoàn; có người đắc vị Tư Đà Hàm, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị Tư Đà Hàm; có người đắc vị A Na Hàm, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị A Na Hàm; có người đắc vị A La Hán, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị A La Hán. Ấy là tám hạng (Bát bối: tứ quả, tứ hướng) Trượng phu. Trong bốn đôi (tứ song) trên đây, đều là những vị thành Giới, thành Định, thành Tuệ, thành Giải (giải thoát), thành Độ-tri-kiến (giải thoát tri kiến); là những vị có Thánh-đức, là những vị đủ mọi hạnh, nên chắp tay cung-kính các bậc Tôn-giả phúc-điền trong thiên thượng, thiên hạ ấy. Thế là niệm Chúng. Niệm Chúng: ngu si, ác ý, nộ-tập đều trừ, hỷ-tâm tự sinh, ưa vui Chúng-nghiệp. Ví như, người ta lấy tro chính giặt áo, trừ được nhơ, cáu. Người trì trai niệm chúng, đức họ như thế, mọi người thấy họ ai chẳng tin, ưa.

 

- Bốn là, nên niệm Giới: Thân thụ giới của Phật, nên nhất tâm vâng giữ không thiếu, không phạm, không động không quên, khéo kiến lập, giữ cẩn thận, làm gì là đều làm trong đường trí-tuệ, sau không hối hận; không có hy-vọng và thường đem lòng bình đẳng dạy người. Thế là niệm Giới. Niệm Giới: ngu si, ác ý, nộ-tập đều trừ, hỷ tâm tự sinh, vui giới-thống-nghiệp (5). Ví như, mài gương, cáu sạch, sáng tỏ. Người trì trai niệm Giới, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

 

- Năm là nên niệm Thiên: Thiên là cõi trời, có: thứ nhất là Tứ-thiên-vương, thứ hai là Đao-lỵ-thiên, Diêm-thiên, Đâu-thuật-thiên, Bất-kiêu-lạc-thiên, Hóa-ứng-thanh-thiên (6)... Nên tự niệm rằng: "Ta vì có đức tin, có giới-pháp, có nghe biết, có bố thí, có trí tuệ... đến khi thân ta chết đi, tinh thần ta sẽ sinh lên cõi Thiên. Ta nguyện không mất được đức tin, giới-pháp, nghe biết, bố thí, trí tuệ". Thế là niệm Thiên. Niệm Thiên: ngu si, ác ý, nộ-tập đều trừ, hỷ-tâm tự-sinh, vui Thiên-thống-nghiệp (7). Ví như bảo-châu, thường sửa chữa tối tăm, đem lại trong sáng. Người trì trai niệm Thiên, đức thanh-tịnh của họ như thế.

 

Vâng giữ tám giới, tập năm điều tư-niệm là trì trai của Phật-Pháp. Và, cùng với cõi Thiên, tham đức, diệt ác, hưng thiện, sau sinh lên cõi Thiên, tới khi mệnh chung được lên cõi Niết-bàn. Thế nên bậc Trí-giả, tự lực thực-hành, ra tâm tác phúc.

 

Như thế, bà Duy-Da! Phúc lành của việc trì trai, thực rõ ràng, đáng khen và xa rộng như mười sáu đại quốc trong thiên-hạ này vậy. Mười sáu đại quốc trong thiên-hạ, dù trong ấy đầy đủ các của báu đến nổi không thể sao tính kể được, cũng không bằng một ngày thụ trì trai-pháp của Phật-Pháp. Xét thấy phúc ấy như thế, thời mười sáu đại quốc (8) kia cũng chỉ như là một hạt đậu.

 

Thọ số trên cõi Thiên thực là xa rộng không nói xiết được, như đương kim nhân-gian năm mươi năm, thời là một ngày một đêm cửa cõi Trời thứ nhất; cõi Tứ-thiên thứ nhất thọ năm trăm tuổi, thời cõi nhân-gian này chín trăm vạn năm, người trì trai của Phật-Pháp, được sinh lên cõi Trời ấy. Cõi nhân-gian một trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi trời Đao-Lỵ. Cõi trời Đao-Lỵ thọ một nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là ba nghìn sáu trăm vạn năm. Cõi nhân-gian hai trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Diêm-Thiên. Cõi Diêm-Thiên thọ hai nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là một ức năm nghìn hai trăm vạn năm. Cõi nhân-gian bốn trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Đâu-thuật-thiên. Cõi Đâu-thuật-thiên thọ bốn nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là sáu ức tám trăm vạn năm. Cõi nhân-gian tám trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Bất-Kiêu-Lạc thiên. Cõi Bất- Kiêu-Lạc thiên thọ tám nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian này là hai mươi ba ức bốn nghìn vạn năm. Cõi nhân-gian một nghìn sáu trăm năm, thời là một ngày một đêm của cõi Hóa-Ứng-Thanh-Thiên. Cõi Hóa-Ứng-Thanh-Thiên thọ một vạn sáu nghìn tuổi, thời cõi nhân-gian là chín mươi hai ức một nghìn sáu trăm vạn năm. Nếu người nào có đức tin, có giới-pháp, có nghe biết, có bố thí, có trí-tuệ, phụng-trì trai-pháp của Phật-Pháp, khi mệnh mất đi, tinh thần người ấy, đều sinh lên sáu cõi Trời ấy, hưởng sự an-ổn khoái lạc. Ôi việc thiện rất nhiều, đây ta chỉ nói ít vậy thôi! Phàm người làm việc thiện, hồn-thần sẽ sinh lên cõi Trời, thụ phúc vô-lượng.

 

Bà Duy-Da nghe đức Phật dạy như thế, hoan hỷ bạch: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Lạy đức Thế-Tôn, phúc đức của việc trì trai khoái lạc vô-lượng, chúng con xin vâng thụ Phật giới và từ nay về sau mỗi tháng sáu ngày trai, chúng con xin hết sức làm việc phúc cho đến khi chết.

 

Đức Phật nói kinh này rồi, tất cả đều hoan-hỷ thụ-giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15508)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14959)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14782)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13237)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14406)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20141)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18375)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30707)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12378)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15484)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13716)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13904)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13495)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14409)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13676)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16687)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15333)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31172)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18756)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14953)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14541)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14550)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13752)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19659)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14406)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14481)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14682)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14707)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17874)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13508)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13648)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14905)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14113)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16379)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15280)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13455)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13109)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13242)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12957)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14045)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14177)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14577)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12966)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13767)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13229)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13707)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14639)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14709)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13237)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12795)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13705)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13656)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13286)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13845)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13652)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12542)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14786)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12843)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14972)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant