Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bệ Ma Túc

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13242)
Kinh Bệ Ma Túc


PHẬT NÓI KINH BỆ MA TÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0090 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Tống, Thiên Trúc, Tam tạng Cầu Na Bạt Ðà La.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 


 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, thành Xá vệ. Bấy giờ Bệ Ma Túc người theo học thuyết khác, sau giờ ngọ thong thả đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong bạch đức Thế Tôn rằng:

-Thưa Cù Ðàm, hình sắc thật vi diệu vô thượng.

-Này Ca Chiên Diên, thế nào là sắc vi diệu?

-Này Cù Ðàm, đó là sắc vi diệu, cực diệu, không có sự vi diệu nào tối thắng hơn. Nó là tối diệu, rất đẹp, sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thượng, rất đẹp.

-Này Ca Chiên Diên, giống như có người nói như vầy: “Người ấy thật đẹp, tôi muốn dâm dục cùng nàng”. Hoặc có người hỏi: “Ngươi bảo người ấy tuyệt đẹp đối với mọi người, vậy người ấy tên gì, họ gì, hình dạng ra sao, cao hay thấp, hay trung bình, đoan chánh hay không đoan chánh, trắng hay đen, kẻ ấy là con gái của Sát đế lợi, Bà la môn, cư sĩ hay con gái của thợ thuyền? Kẻ ấy từ phương Ðông, phương Nam, phương Tây hay phương Bắc đến? Hỏi như vậy rồi nhưng không thể trả lời được. Ngươi không biết, không thấy mà bảo rằng người ấy đẹp nhất trong mọi người ấy, đến phương Bắc, rồi nói là “muốn dâm dục”.

-Này Ca Chiên Diên, ngươi đã nói “sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thượng, sắc ấy không có gì hơn được”, nhưng lại hỏi sắc ấy thì lại không thể biết.

-Này Cù Ðàm, giống như vàng Diêm Phù Ðàn được người thợ thiện xảo ra sức mài dũa, làm cho sạch sẽ rồi gắn ngọc trắng vào bên trong, hình sắc cực đẹp, màu sắc chiếu sáng. Cho nên, này Cù Ðàm, tôi mới nói: sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thắng; sắc ấy là tối thắng, sắc ấy là vô thương, sắc ấy là tối thượng.

Cho nên này Ca Chiên Diên, ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý nghĩtrả lời ta. Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Vàng Diêm Phù Ðàn này được người thợ thiện xảo ra sức mài dũa, làm cho nó được sạch rồi gắn ngọc trắng bên trong, hình sắc chiếu sáng. Vậy ánh sáng của con đom đóm lúc trời tối cùng sắc của vàng Diêm Phù Ðàn chiếu sáng, thì ánh sáng nào tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn?

-Này Cù Ðàm, ánh sáng của con đom đóm so với ánh sáng của vàng Diêm Phù Ðàn thì nó quang minh, tối thượng, tối hảo, tối diệu hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của con đom đóm lúc đêm tối cùng với ánh sáng của đèn dầu trong đêm tối, vậy ánh sáng nào tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của đèn dầu so với ánh sáng của con đom đóm thì ánh sáng ấy là tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của đèn dầu chiếu sáng trong đêm tối, so với ngọn đuốc lớn chiếu sáng trong đêm tối thì ánh sáng nào tối thắng, diệu hảo, tối thượng?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của ngọn đuốc lớn so với ánh sáng của đèn dầu thì nó tối thắng, tối thượng, diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của ngọn đuốc lớn chiếu sáng trong đêm tối so với ánh sáng của ngôi sao chói sáng trên bầu trời trong sáng không có mây che vào lúc quá nửa đêm, thì ánh sáng nào tối thắng hết sức diệu hảo?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của ngôi sao so với ánh sáng của bó đuốc thì nó quang minh, tối thắng, hết sức diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của ngôi sao vào lúc quá nửa đêm trên bầu trời lúc không có mây che so với ánh sáng của mặt trăng trên bầu trời không có mây che vào lúc quá nửa đêm. Vậy ánh sáng nào tối thắng, hết sức diệu hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của mặt trăng so với ánh sáng của ngôi sao thì ánh sáng của mặt trăngtối thắng, hết sức diệu hảo.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của mặt trăng lúc nửa đêm khi trời trong vắt, không có mây che, so với ánh sáng của mặt trời lúc giữa trưa vào mùa hè thì ánh sáng nào tối thắng, vô cùng diệu hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của mặt trời so với ánh sáng của mặt trăng thì nó tối thắng, vô cùng diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, có rất nhiều cõi trờioai thần như vậy, có ánh sáng vô cùng mà không có gì sánh kịp. Ta vốn ngồi ở trong ấy, vốn ở trong đó mà nói. Ta không nói: “Ánh sáng tối thắng, ánh sáng tối thượng, ánh sáng tối diệu”. Này Ca Chiên Diên, cái ánh sáng của con đom đóm là rất nhỏ, không sánh bằng. Ngươi lại nói: “Tối thượng, tối thắng, tối diệu” sao khi hỏi về ánh sáng thì ngươi không thể biết?

Khi ấy Bệ Ma Túc bị đức Thế Tôn mắng thẳng vào mặt, im lặng mà đứng, chẳng có lời biện bạch, thân, mặt xấu hổ, chẳng nói gì, im lặng mà đứng.

Bấy giờ đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Bệ Ma Túc rồi, Ngài lại bảo Bệ Ma Túc:

-Lại nữa, này Ca Chiên Diên, có năm thứ sắc dục ái, niệm ái, gần với dâm, nhiễm trước. Ðó là: mắt thấy sắc, tai biết tiếng, mũi biết hương, lưỡi biết vị, thân biết xúc êm dịu.

Này Ca Chiên Diên, hoặc có yêu sắc, hoặc không yêu sắc, đó là hoặc có người đối với sắc rất hoan hỷ, ý niệm hoan hỷ cũng đầy đủ; đối với sắc này hay đối với sắc kia, không muốn, không nghĩ, không mong được, không cầu, đó là sắc tối diệu, tối thượng.

Này Ca Chiên Diên, hoặc có người yêu thinh, hương, vị, mịn láng; hoặc có người không yêu mịn láng; hoặc có người đối với vật mịn láng thì rất hoan hỷ, ý sở niệm hoan hỷ cũng đầy đủ; đối với vật mịn láng kia hoặc vật mịn láng khác không muốn, không nghĩ, không muốn được, không cầu mong, vật mịn láng đó là tối thượng, tối diệu.

Bấy giờ Bệ Ma Túc chắp tay hướng về Thế Tôn, thưa đức Thế Tôn:

-Thật là kỳ diệu, thưa Cù Ðàm, sa môn Cù Ðàm đã dùng vô lượng phương tiện nói cho con nghe về dâm lạc, cầu dâm lạc. Giống như, thưa Cù Ðàm, cây cỏ nhờ lửa mà cháy, lửa nhơn cây cỏ mà bốc cháy. Cũng như vậy, sa môn Cù Ðàm của con dùng vô lượng phương tiện nói về dâm, nói về sự đình chỉ dâm lạc, cầu dâm lạc.

-Này Ca Chiên Diên, ngươi làm bất thiện cho nên đối với việc ấy mới mãi mãi có kiến khác, có nhẫn khác, có dục khác, có cầu khác. Ðiều ta đã nói bình đẳng ban bố, bình đẳng mà biết nghĩa ấy.

Này Ca Chiên Diên, các Tỳ kheo đệ tử của ta, sáng sớm thức dậy và chiều đến thường không nằm ngủ, thường hay giảng luận để thành tôn đạo, đầy đủ phân biệt, “sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, đã biết như chơn về danh, sắc”. Ðiều ta đã nói bình đẳng ban bố, bình đẳng mà biết nghĩa ấy.

Bấy giờ Bệ Ma Túc hết sức sân hận đối với Thế Tôn, trong lòng bực tức, không hoan hỷ, nói với Thế Tôn, bài xích Thế Tôn, mắng chửi Thế Tôn.

-Như vậy, thưa sa môn Cù Ðàm, đó chẳng phải là mắng chửi.

Nói như vậy xong, thưa với Thế Tôn:

-Này Cù Ðàm, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ, không biết đời đương lai, vô lượng đời sốngthế gian, nhưng vẫn cứ nói: “Ðời sống của Thánh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, đã biết như chơn về danh, sắc”.

Bấy giờ đức Thế Tôn nghĩ như vầy: rằng Bệ Ma Túc hết sức sân hận đối với ta, trong lòng vô cùng bực tức, không hoan hỷ, bài báng ta, mạ lị ta: “Này sa môn Cù Ðàm, tôi đã mắng chửi”, rồi thưa với ta: “Này Cù Ðàm, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ ... cho đến biết như chơn”. Ðức Thế Tôn biết như vậy rồi bảo Bệ Ma Túc rằng:

-Này Ca Chiên Diên, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ ... cho đến biết như chơn. Khi ấy nên nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại, hãy để đời đương lai lại, không nên nghĩ một đời”.

Lại nữa, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại, hãy để đời đương lai lại, không nên nghĩ một đời”. Các Tỳ kheo đệ tử của ta không dua nịnh, cũng không như huyễn, hành động ngay thẳng. Ta dạy dỗ họ, ta thuyết pháp cho họ, như đã trình bày đều có thể học tập, gần với pháp, biết đó là thiện. Giống như, này Ca Chiên Diên, có đồng nam trẻ tuổi, bị cha mẹ cột tay chân lại. Khi đó nếu có trí tuệ, cha mẹ nó sẽ mở trói tay chân cho. Nó chỉ nhớ đến việc mở trói, không nghĩ đến việc cột. Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có điều thiện”. Này Ca Chiên Diên, giống như nhân dầu và tim bấc mà đèn được cháy. Hoặc có người không đổ dầu, cũng không thay tim bấc, tim dầu có trước đã hết, sau chẳng thêm vào, không lâu đèn ấy sẽ tắt liền. Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có thiện”.

Này Ca Chiên Diên, giống như có mười cây gỗ dụm lại, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi cây gỗ dụm lại, dùng lửa đốt cháy nên biết có một đám lửa lớn. Hoặc có người không dùng củi, không dùng cỏ, không dùng phân trâu, không dùng trấu, không dùng rơm bỏ vào đống lửa, thì không bao lâu nó sẽ tắt ngúm, không còn dùng được, tiêu diệt nhanh chóng.

Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta đã nói: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có thiện”.

Ðức Phật nói như vậy, bấy giờ Bệ Ma Túc xa lìa trần cấu, sanh các pháp nhãn. Bấy giờ Bệ Ma Túc thấy pháp, đắc pháp, liễu ngộ pháp, thanh tịnh đối với pháp, xa lìa tà, hết nghi, lại không còn tôn kính trời, không còn tin ở người khác nữa, lìa các do dự, được an lập quả chứng, được pháp vô úy đối với cảnh giới của đức Thế Tôn, từ tòa đứng dậy, đầu mặt lạy dưới chân đức Thế Tôn, thưa đức Thế Tôn:

-Con có thể được học đạo với đức Thế Tôn, thọ cụ túc, làm Tỳ kheo, theo Thế Tôn để tu hành phạm hạnh?

-Này Tỳ kheo, hãy hành phạm hạnh.

Bệ Ma Túc học đạo với Thế Tôn, thọ cụ túc, làm Tỳ kheo.

Tôn giả Bệ Ma Túc học đạo (với đức Thế Tôn), thọ cụ túc, trì pháp, . . . cho đến thành A la hán.

Ðức Phật nói như vậy, Bệ Ma Túc nghe lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ vui mừng.

PHẬT NÓI KINH BỆ MA TÚC 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12517)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11196)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12005)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13149)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13641)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33672)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13062)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11633)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17900)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11448)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11864)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11509)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18979)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12545)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11336)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15769)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11824)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11700)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13971)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13000)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12952)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13301)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12776)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11752)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12329)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12388)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19826)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11962)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11991)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16888)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12675)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15063)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16121)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12884)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11929)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13153)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16509)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11821)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19863)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11158)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11099)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10971)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10038)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11756)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant