Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Thuyết Kinh Hương Giới Đức

18 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14646)
Phật Thuyết Kinh Hương Giới Đức

HƯƠNG GIỚI ĐỨC KINH

 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0116 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Đông Tấn – Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Lang

Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết - Chùa Vạn Thạnh

Chứng nghĩa: HT Thích Đổng Minh, Thích Tâm Hạnh

 


Tôi nghe như vầy; một hôm Đức Phật du hóa tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ.

Lúc ấy, Hiền giả A Nan một mình ở nơi yên tĩnh suy nghĩ; ở đời có ba loại hương: Một là hương của rễ, hai là hương của cây, ba là hương của hoa. Ba loại hương này bay theo chiều gió, không thể bay ngược lại. Có loại hương nào vừa bay theo gió, vừa bay ngược gió hay không ?

Hiền giả A Nan một mình ở nơi yên tĩnh trầm tư suy nghĩ không sao hiểu được ý nghĩa, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân hồ quỳ chắp tay bạch Phật rằng : “ Con ngồi một mình suy nghĩ, ở đời có ba loại hương: Một là hương của rễ; hai là hương của cây; ba là hương của hoa. Ba loại hương này bay theo chiều gió, không thể bay ngược gió, con không hiểu có loại hương nào vừa bay theo gió, vừa bay ngược gió hay không ?”

Đức Phật bảo Ngài A Nan : Lành thay, lành thay ! Thật đúng như lời ông hỏi, có loại hương vừa bay thuận gió cũng vừa bay ngược gió.

Ngài A Nan bạch Phật, con muốn nghe về mùi hương đó.

Đức Phật dạy : “ Nếu ở nơi quốc độ, thành ấp thôn lạc, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, tu hành mười điều thiện : Thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng không nói vọng, nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói lời thêu dệt. Ý không tật đố, sân hận, si mê, biết hiếu thuận với cha mẹ, phụng sự Tam Bảo, nhân từ đạo đức, oai nghi tiết hạnh. Ở phương Đông có vô số vị sa môn, phạm chí ca ngợi đức ấy. Ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng phương trên, phương dưới cũng có vô số vị sa môn, phạm chí ca ngợi đức ấy như vầy. Hoặc ở nơi quốc độ thành ấp thôn lạc nào đó, cũng có thiện nam, thiện nữ nhơn thực hành mười điều thiện, biết tôn kính phụng trì Tam Bảo, nhân từ hiếu thuận, ân nghĩa đạo đức, không mất lễ tiết. Đây là loại hương vừa bay thuận gió vừa ngược gió bay khắp cả, tỏa chiếu mười phưong hết thảy đều được nương nhờ.”

Đức Phật Liền nói kệ :

Hoa tuy thơm và đẹp

Không thể bay ngược gió

Dẫu là hoa chiên đàn

Mùi hương hơn tất cả.

Đức tánh người hòa nhã

Gọi là hương ngược gió.

Bồ Tát gọi trượng phu

Bay khắp cả mười phương

Gỗ thơmchiên đàn

Mùi thơm hoa sen xanh

Hết thảy các mùi hương

Giới hương là hơn hết.

Ấy là giới thanh tịnh

Hành trì không phóng dật

Không theo đường của ma

Không thấy chổ hướng về

Con đường đến Niết Bàn

Đường này là hơn hết.

Đoạn trừ gốc uế trược

Phá tan hết lưới ma

Tiến đến thành Phật đạo

Đạt trí tuệ vô cùng

Vì vậy nghĩa hương này

Dứt trừ mọi xấu ác.

Lúa ấy Đức Phật bảo Ngài A Nan: “Loại hương này không bị núi Tu Di hay trời đất ngăn cản, cũng không bị bốn đại là đất, nước, gió, lửa cản trở thông suốt cả tám hướng, trên dưới khắp mọi cảnh giới đều ca ngợi đức ấy đó là: Người không sát sanh, sẽ đời đời được trường thọ, không bị chết yểu. Người không trộm cắp, đời đời giàu có, không bị hao tài tốn của, lấy việc bố thí làm chính. Người không tà dâm, không xâm phạm vợ người, được sanh ra từ hoa sen. Người không vọng ngữ, thường nói lời tốt đẹp, hơi miệng thường thoảng ra mùi thơm, được người tin dùng; không nói hai lưỡi, trong gia đình được hòa thuận, không ly tán; không nói lời hung ác thưòng nói lời hòa nhã lưu loát; không nói lời thêu dệt, khiến mọi người nghe lời nói ấy đều thọ nhận dùng làm trân báu. Người không tật đố đời đời sanh ra được mọi ngườI tôn kính. Người không sân nhuế đời đời được thân hình xinh đẹp, được người thấy sinh tâm vui vẻ. Người trừ bỏ ngu si, đời đời sinh ra có đầy đủ trí huệ được mọi người học hỏi, xả bỏ tà kiến thường sống trong chánh đạo, từ chổ tu hành chứng đắc tự nhiên phát sanh, dứt bỏ tà đạo, tu theo giáo pháp chơn thánh vi diệu”.

Lúc ấy các vị tỳ kheo nghe Đức Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.

Kinh Đức Phật Nói Về Hương Giới Đức

 

Mùa AN CƯ năm ĐINH SỬU

Tỳ kheo ni NHƯ TUYẾT

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Bảy 201402:43
Khách
muốn được tải Kinh Ương-quật-ma-la, Hán dịch dời lưu-tấn, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-na Bạt-đà-la
19 Tháng Bảy 201402:41
Khách
Mô Phật.
Xin dược tải và xem Kinh Ương-quật-ma-la, Hán dịch dời lưu-tấn, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-na Bạt-đà-la
để tham khảo thêm.
Xin trân trọng cám ơn!!!
A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11618)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11925)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12056)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10750)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9936)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12339)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14316)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12085)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15324)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12546)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13149)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14780)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12650)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16530)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19627)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12239)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11823)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13478)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11933)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11832)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12751)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13598)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12878)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9853)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9059)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12158)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15286)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12193)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11455)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19664)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24573)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10670)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant