Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Nói Kinh A Hàm Chính Hạnh

18 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14353)
Phật Nói Kinh A Hàm Chính Hạnh

PHẬT NÓI KINH A-HÀM CHÍNH-HẠNH (1)


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0151 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hậu-Hán, An-Thế-Cao dịch chữ Phạn ra chữ Hán.

Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán, ra chữ Việt.

---o0o---


Chính tôi được nghe: một thời kia đức Phật ở trong vườn cây của ông Kỳ-Đà và ông Cấp-Cô-Độc, thuộc nước Xá-Vệ.

Bấy giờ, đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Nay ta sẽ vì các ông nói về kinh. Trong kinh, lời nói cao-thượng cũng quý, lời nói trung-bình cũng quý, lời nói rất thấp cũng quý. Mà, nói về đạo độ thế, cần lấy “chính tâm làm gốc”. Các ông hãy nghe ta nói và để cho đời sau được truyền-bá, thực-hành theo lời kinh ấy.

Khi ấy, các vị Tỳ-Khưu đều chắp tay thụ-giáo.

Đức Phật dạy: Trong thân người ta có năm thứ giặc, thường lôi kéo người ta vào đường ác. Năm thứ giặc ấy là những gì?

Một là, sắc (hình-sắc).

Hai là, đau-đớn (thụ: chịu đựng).

Ba là, tư-tưởng.

Bốn là, sinh-tử (hành-động).

Năm là, thức (nhận-thức). (2)

Đó là năm thứ mà người ta thường niệm đến.

Đức Phật dạy: Người ta thường bị mắt lừa-dối, tai lừa-dối, mũi lừa-dối, miệng lừa-dối và bị thân lừa-dối. Song, mắt chỉ trông được, không thể nghe được; tai chỉ nghe được, không thể trông thấy được, mũi chỉ biết ngửi hương-vị không thể nghe được; miệng lưỡi chỉ biết nếm mùi, không thể biết được hương-vị; thân-thể chỉ biết lạnh, ấm, không thể biết được mùi. Năm căn ấy đều thuộc về “tâm” và lấy “tâm” làm gốc. (3)

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu! Các ông muốn cầu đạo, các ông nên đoan-chính tâm các ông. Nếu từ nơi si-mê phát-khởi, hẳn sẽ sa rơi vào mười hai nhân-duyên và liền có ra sự sinh-tử luân-hồi. Những gì là mười hai nhân-duyên? - Một là, căn-bản là si-mê (vô-minh). Hai là, hành (hành-động). Ba là, thức (nhận-thức). Bốn là, tự (danh-tự hay danh-sắc) (4). Năm là, lục-nhập (5). Sáu là, tài (tài-bồi, có chỗ gọi là xúc) (6). Bảy là thống (đau-khổ, có chỗ gọi là thủ). Tám là, ái (yêu). Chín là, thụ (cảm-thụ). Mười là, hữu (7). Mười một là, sinh. Mười hai là tử (8). Người làm việc thiện, sẽ được làm người. Người làm việc ác, chết phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh.

Đức Phật ngồi suy-nghĩ và nói: “Người ta do si-mê, nên có ra sự sinh-tử”. Si là gì? - Trước đây do từ trong si-mê, nên nay sinh làm người. Làm người, tâm si-mê không cởi-mở, mắt không khai tỏ, không biết chết đi sẽ xu-hướng về nơi nào; thấy Phật không hỏi, thấy kinh không đọc, thấy bậc Sa-Môn (9) không biết thừa-sự, không tin đạo-đức; thấy cha mẹ không kính; không nghĩ đến nỗi khổ của thế gian, không biết sự tra-khảo, trừng-trị kịch-liệt trong địa-ngục, thế gọi là si-mê, nên có ra sự sinh-tử. Và, sự sinh-tử không ngừng, nhanh như thời-gian hô-hấp, nguy-hiểm ngay đến thân-mệnh người ta. Trong thân người ta có ba sự, sau khi thân chết đi thời Thức đi, Tâm đi và Ý đi. Trong ba sự ấy, thường theo-đuổi nhau. Người làm việc ác, chết phải sa vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc sinh và quỷ-thần. Người làm việc thiện cũng có ba sự ấy thường theo-đuổi nhau, hoặc sinh lên cõi Trời, hoặc sinh trong cõi người. Những người bị sa-đọa vào trong năm đường (10), đều vì tâm không được đoan-chính.”

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Các ông đều phải nên đoan-chính tâm các ông, đoan-chính mắt các ông, đoan-chính tai các ông, đoan-chính mũi các ông, đoan-chính miệng các ông, đoan-chính thân các ông và đoan-chính ý các ông. Thân-thể sẽ tan-hòa với đất, nhưng khối thần-thức sẽ không phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, quỷ-thần.

Thấy nhà người ta có người con ác, bị quan nã-bắt, cũng đều vì tâm không được đoan-chính. Trong thân người ta có đến trăm tên gọi, như xe cũng có trăm tên gọi. Người hay tham, hay giận, không suy-nghĩ gì đến những sự trong thân, chết vào trong địa-ngục, hối không kịp được.

Đức Phật dạy: Thân ta xa-lìa đất nước, bỏ ngôi Chuyển-Luân-Vương lo cắt đứt sinh-tử, muốn độ những người thế-gian, khiến họ được đạo-quả Niết-Bàn. Người tinh-tiến thứ nhất sẽ được đạo-quả A-La-Hán; người tinh-tiến thứ hai tự đến được đạo-quả A-Na-Hàm. Người tinh-tiến thứ ba được đạo-quả Tư-Đà-Hàm. Người tinh-tiến thứ tư được đạo-quả Tu-Đà-Hoàn (11). Tuy thế, người không tinh-tiến lắm được, cũng cần nên giữ năm điều răn: Một là, không sát sinh. Hai là, không trộm-cắp. Ba là, không hai lưỡi. Bốn là, không dâm-dật. Năm là, không uống rượu (12).

Đức Phật dạy: Người ta dù khi ngồi, khi dậy, thường nên suy-nghĩ bốn việc này. Bốn việc ấy là những gì?

- Một là, tự quán thân mình và quán thân người.

- Hai là, tự quán sự đau-đớn nơi mình và quán sự đau-đớn nơi người.

- Ba là, tự quán tâm-ý nơi mình và quán tâm-ý nơi người.

- Bốn là, quán pháp nơi mình và quán pháp nơi người (13).

Người mà trong tâm khi sắp loạn-động, nên thu tâm lại, tự đoan-chính nhìn thẳng vào thân-thể, quán-tưởng rằng: “Thân này, no cũng cực, đói cũng cực, ở cũng cực, ngồi cũng cực, đi cũng cực, rét cũng cực, nóng cũng cực, nằm cũng cực. Khi sắp muốn nằm, nên tự sợ hãi ngồi dậy! Người ngồi không được đoan-chính, nên đứng dậy. Người đứng không được đoan-chính, nên kinh-hành. Người mà thảng hoặc tâm không được đoan-chính, nên tự chính. Ví như Quốc-Vương đem binh ra trận chiến-đấu, phải dàn những quân mạnh-mẽ ở đằng trước; tuy đã chống giặc ở khu trước, lại phải thích-hợp, có thể gìn-giữ được những người ở sau. Vị Sa-Môn đã bỏ nhà cửa, bỏ vợ con, cạo râu tóc làm Sa-Môn, tuy chịu khổ một đời, sau được giải-thoát mãi mãi. Người khi đắc đạo rồi, trong tâm mình vui vẻ, coi vợ như chị, em, coi con như bạn tri-thức, không còn có tâm tham-ái và thường rủ lòng lành thương; coi chư Thiên, nhân-dân, địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, cùng những loài sâu bay, bọ cựa trong mười phương, đều được giàu sang, an-lành, thoát khỏi sinh-tử, được đạo-quả Niết-Bàn. Thấy những loài sâu dưới đất, nên đem lòng từ thương xót nó. Biết lẽ sống, không vướng lại sự si-mê và thường có ý-niệm này: thường nghĩ ân-đức Thầy, phụng-sự Phật, như người nghĩ đến công ơn cha mẹ, như người tù bị tội tử-hình giam trong ngục, có bậc Hiền-giả đến xin cho khỏi bị tù; người bị tù có trí hiểu-biết, thường nghĩ đến ân đức bậc Hiền-giả. Vị Tỳ-Khưu được đạo-quả rồi, thường cũng phải nghĩ đến Phật như thế và nghĩ đến kinh-pháp cũng như người nghĩ đến việc ăn cơm vậy.

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu nên thừa sự nhau, như em thờ anh. Trong ấy, nếu có người si-mê, nên học-hỏi người trí-tuệ; đắp-đổi dạy lẫn nhau. Học hỏi người trí-tuệ như trong nơi tối có ánh đèn. Không được cãi-cọ, kiện-cáo nhau. Thấy vàng bạc nên coi như đất, đá. Không được làm chứng càn cho người ta, ghép người ta vào tội-pháp. Không được truyền lời nói xấu của người ta và chuyển lời nói đấu-tranh nhau. Không được làm thương-tổn trong ý nói của người ta. Không nghe thấy đừng nói là nghe thấy, không trông thấy đừng nói là trông thấy. Đi đường thường nên cúi đầu trông xuống đất. Sâu-bọ không nên dẫm chết. Không được tham-đắm phụ-nữ người ta và không được dùng hình-bóng phụ-nữ người ta. Ngồi tự suy-nghĩ: “Bỏ tâm tham-ái, mới được gọi là đạo”.

Đức Phật dạy: Người muốn cầu đạo, nên cầu ở chốn không-nhàn vẳng-lặng, tự hô-hấp hơi thở nơi mình, biết cách thở dài, ngắn; thở ra không hít vào, hình-thể đều mệt, ngậm hơi không thở, hình-thể cũng mệt (14). Phân-biệt tự suy nghĩ: “Hình-thể này ai là người tạo-tác ra? Tâm nên xét ngoài, cũng nên xét trong. Tự suy nghĩ, vui-vẻ, cùng người ta có tâm khác hơn, thời trong khi ấy thấy không cần dùng những thứ trân-bảo của thiên-hạ nữa. Người, tâm hơi muốn theo chánh-đạo, ý lại muốn chút xao-động, nên nén dẹp, ngăn ngừa giữ lại ngay, thời ý liền hoàn lại. Ví như người có tấm gương, gương không sáng không thể thấy hình được, lau-chùi bụi nhơ trên gương, tự thấy hình ngay. Người ta bỏ được tham-dâm, giận-dữ, ngu-si cũng ví như tấm gương đã lau-chùi rồi. Suy nghĩ kỹ: “Thiên-hạ này đều không có cái chi là vững-bền và cũng không có cái chi là thường mãi.”

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu giữ-gìn tâm mình, nên như tảng đá vuông bốn mặt. Tảng đá ở giữa sân, mưa rơi cũng không hoại được, ánh mặt trời thiêu đốt cũng không tan được, gió thổi cũng không chuyển được. Gìn giữ tâm thường như tảng đá ấy.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Lòng người trong thiên-hạ cũng như nước chảy; trong giòng nước chảy ấy, có cỏ cây gì, đều tự trôi đi, không đoái nhìn lại nhau, thứ trôi trước không đoái nhìn lại thứ sau và thứ sau cũng không nhìn về thứ trước. Cỏ cây trôi đi, đều tự như thế. Lòng người cũng như thế, một niệm lại, một niệm đi, như cỏ cây trước, sau không nhìn lại nhau. Trong khoảng thiên thượng, thiên hạ này, không có cái gì ở chỗ nào lại vui trở lại. Gửi thân trong trời đất, bỏ thân này không sinh lại được. Đạo thành nên biết ơn thầy, thấy thầy liền thừa-sự, không thấy thầy nên suy-nghĩ lời răn dạy của thầy, như người nhớ nghĩ đến cha mẹ. Ý định có sự nhất tâm, liền có lòng thương-sót những loài sâu bay, bọ cựa cùng nhân-dân thiên-hạ. Và, ta ngồi ta tự vui cười là ta đã thoát thân trong thiên-hạ cùng năm đạo: một là Thiên-đạo, hai là Nhân-đạo, ba là Ngã-quỷ-đạo, bốn là Súc-sinh-đạo, năm là Địa-ngục-đạo. Người được đạo-quả A-La-Hán muốn phi-hành, biến-hóa cũng được; trong thân biến ra nước, lửa cũng được, ra chỗ kín mịn không kẽ hở, vào chỗ dầy-đặc không lỗ hổng cũng được và xa-lìa nỗi khổ thế-gian, chứng-đạo Niết-Bàn cũng được.”

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: “Đạo không thể không làm, kinh không thể không đọc.”

Đức Phật nói kinh này rồi, năm trăm vị Sa-Môn đều được đạo-quả A-La-Hán. Các vị Sa-Môn ấy đều đứng dậy, tới trước đức Phật, đầu mặt cúi sát đất, làm lễ đức Phật mà lui.

 


(1) Kinh này là cuốn kinh số 151 trong Đại-Tạng-kinh. A-Hàm (Agama) gọi tóm-tắt kinh sách Tiểu-thừa. A-Hàm dịch là “Pháp-quy” là muôn pháp quay về nơi có nghĩa là vô-lậu; lại dịch là “vô-tỉ-pháp” có nghĩa là diệu-pháp không có gì sánh kịp, và dịch là “thú vô” có nghĩa là tôn-chỉ nói ra đạt tới chỗ rốt-ráo không còn có chỗ quy-thú nữa.

(2) Đây là nói về 5 uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và thức.

(3) Đây nói là sự phân-biệt giả-dối của năm căn và đều quy về tâm làm gốc.

(4) Danh-sắc: là nói báo thân trong thai tạng do tâm-thức (danh) và tứ đại (sắc) hòa-hợp, nương tựa nhau sinh trưởng.

(5) Lục-nhập: 6 căn xúc nhập với 6 trần.

(6) Vun trồng, tiếp xúc.

(7) Có sự tạo-tác kết thành nghiệp hữu-lậu.

(8) 12 nhân-duyên nơi đây so-sánh với nơi khác, phần danh-từ và thứ thự hơi có chút sai-biệt.

(9) Sa-Môn (Srmana): Xưa dịch là “Tức tâm, Tĩnh-chí, Bần-đạo v.v…” Nay dịch là “Công-lao, Cần-tức”, đều có nghĩa là vị tu-hành siêng-năng tu-tập, ngăn-dứt phiền-não nơi tâm, làm yên lặng, trong sạch thần-chí, có công cần-cù khó nhọc tiến tu về đạo giải-thoát (đạo Phật).

(10) 5 đường: Thiên, A-tu-la, Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc-sinh.

(11) Xem chú-thích nơi kinh Tội-Phúc Báo Ứng.

(12) Năm điều răn này so với chỗ khác có sự sai thứ-tự.

(13) Đây là nói về 4 chỗ quán-niệm (tứ niệm xứ): 1/ Quán thân không trong-sạch. 2/ Quán sự lĩnh-thụ là khổ. 3/ Quán tâmvô thường. 4/ Quán phápvô ngã.

(14) Đây là nói về Sổ-tức-quán (cách đếm hơi thở).

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14641)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12638)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10179)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11948)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15156)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10948)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10392)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12340)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16278)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14129)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11636)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14644)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11905)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12624)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11231)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11929)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51762)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15325)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13859)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11353)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12663)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13102)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54043)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14269)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9847)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57605)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14354)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19980)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17362)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13217)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11824)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14552)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12363)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12039)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11958)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13175)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13530)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13231)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25374)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12098)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11744)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41944)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28168)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38576)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14613)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12587)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16107)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant