Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Nói Kinh A Hàm Chính Hạnh

18 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14362)
Phật Nói Kinh A Hàm Chính Hạnh

PHẬT NÓI KINH A-HÀM CHÍNH-HẠNH (1)


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0151 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hậu-Hán, An-Thế-Cao dịch chữ Phạn ra chữ Hán.

Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán, ra chữ Việt.

---o0o---


Chính tôi được nghe: một thời kia đức Phật ở trong vườn cây của ông Kỳ-Đà và ông Cấp-Cô-Độc, thuộc nước Xá-Vệ.

Bấy giờ, đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Nay ta sẽ vì các ông nói về kinh. Trong kinh, lời nói cao-thượng cũng quý, lời nói trung-bình cũng quý, lời nói rất thấp cũng quý. Mà, nói về đạo độ thế, cần lấy “chính tâm làm gốc”. Các ông hãy nghe ta nói và để cho đời sau được truyền-bá, thực-hành theo lời kinh ấy.

Khi ấy, các vị Tỳ-Khưu đều chắp tay thụ-giáo.

Đức Phật dạy: Trong thân người ta có năm thứ giặc, thường lôi kéo người ta vào đường ác. Năm thứ giặc ấy là những gì?

Một là, sắc (hình-sắc).

Hai là, đau-đớn (thụ: chịu đựng).

Ba là, tư-tưởng.

Bốn là, sinh-tử (hành-động).

Năm là, thức (nhận-thức). (2)

Đó là năm thứ mà người ta thường niệm đến.

Đức Phật dạy: Người ta thường bị mắt lừa-dối, tai lừa-dối, mũi lừa-dối, miệng lừa-dối và bị thân lừa-dối. Song, mắt chỉ trông được, không thể nghe được; tai chỉ nghe được, không thể trông thấy được, mũi chỉ biết ngửi hương-vị không thể nghe được; miệng lưỡi chỉ biết nếm mùi, không thể biết được hương-vị; thân-thể chỉ biết lạnh, ấm, không thể biết được mùi. Năm căn ấy đều thuộc về “tâm” và lấy “tâm” làm gốc. (3)

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu! Các ông muốn cầu đạo, các ông nên đoan-chính tâm các ông. Nếu từ nơi si-mê phát-khởi, hẳn sẽ sa rơi vào mười hai nhân-duyên và liền có ra sự sinh-tử luân-hồi. Những gì là mười hai nhân-duyên? - Một là, căn-bản là si-mê (vô-minh). Hai là, hành (hành-động). Ba là, thức (nhận-thức). Bốn là, tự (danh-tự hay danh-sắc) (4). Năm là, lục-nhập (5). Sáu là, tài (tài-bồi, có chỗ gọi là xúc) (6). Bảy là thống (đau-khổ, có chỗ gọi là thủ). Tám là, ái (yêu). Chín là, thụ (cảm-thụ). Mười là, hữu (7). Mười một là, sinh. Mười hai là tử (8). Người làm việc thiện, sẽ được làm người. Người làm việc ác, chết phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh.

Đức Phật ngồi suy-nghĩ và nói: “Người ta do si-mê, nên có ra sự sinh-tử”. Si là gì? - Trước đây do từ trong si-mê, nên nay sinh làm người. Làm người, tâm si-mê không cởi-mở, mắt không khai tỏ, không biết chết đi sẽ xu-hướng về nơi nào; thấy Phật không hỏi, thấy kinh không đọc, thấy bậc Sa-Môn (9) không biết thừa-sự, không tin đạo-đức; thấy cha mẹ không kính; không nghĩ đến nỗi khổ của thế gian, không biết sự tra-khảo, trừng-trị kịch-liệt trong địa-ngục, thế gọi là si-mê, nên có ra sự sinh-tử. Và, sự sinh-tử không ngừng, nhanh như thời-gian hô-hấp, nguy-hiểm ngay đến thân-mệnh người ta. Trong thân người ta có ba sự, sau khi thân chết đi thời Thức đi, Tâm đi và Ý đi. Trong ba sự ấy, thường theo-đuổi nhau. Người làm việc ác, chết phải sa vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc sinh và quỷ-thần. Người làm việc thiện cũng có ba sự ấy thường theo-đuổi nhau, hoặc sinh lên cõi Trời, hoặc sinh trong cõi người. Những người bị sa-đọa vào trong năm đường (10), đều vì tâm không được đoan-chính.”

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Các ông đều phải nên đoan-chính tâm các ông, đoan-chính mắt các ông, đoan-chính tai các ông, đoan-chính mũi các ông, đoan-chính miệng các ông, đoan-chính thân các ông và đoan-chính ý các ông. Thân-thể sẽ tan-hòa với đất, nhưng khối thần-thức sẽ không phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, quỷ-thần.

Thấy nhà người ta có người con ác, bị quan nã-bắt, cũng đều vì tâm không được đoan-chính. Trong thân người ta có đến trăm tên gọi, như xe cũng có trăm tên gọi. Người hay tham, hay giận, không suy-nghĩ gì đến những sự trong thân, chết vào trong địa-ngục, hối không kịp được.

Đức Phật dạy: Thân ta xa-lìa đất nước, bỏ ngôi Chuyển-Luân-Vương lo cắt đứt sinh-tử, muốn độ những người thế-gian, khiến họ được đạo-quả Niết-Bàn. Người tinh-tiến thứ nhất sẽ được đạo-quả A-La-Hán; người tinh-tiến thứ hai tự đến được đạo-quả A-Na-Hàm. Người tinh-tiến thứ ba được đạo-quả Tư-Đà-Hàm. Người tinh-tiến thứ tư được đạo-quả Tu-Đà-Hoàn (11). Tuy thế, người không tinh-tiến lắm được, cũng cần nên giữ năm điều răn: Một là, không sát sinh. Hai là, không trộm-cắp. Ba là, không hai lưỡi. Bốn là, không dâm-dật. Năm là, không uống rượu (12).

Đức Phật dạy: Người ta dù khi ngồi, khi dậy, thường nên suy-nghĩ bốn việc này. Bốn việc ấy là những gì?

- Một là, tự quán thân mình và quán thân người.

- Hai là, tự quán sự đau-đớn nơi mình và quán sự đau-đớn nơi người.

- Ba là, tự quán tâm-ý nơi mình và quán tâm-ý nơi người.

- Bốn là, quán pháp nơi mình và quán pháp nơi người (13).

Người mà trong tâm khi sắp loạn-động, nên thu tâm lại, tự đoan-chính nhìn thẳng vào thân-thể, quán-tưởng rằng: “Thân này, no cũng cực, đói cũng cực, ở cũng cực, ngồi cũng cực, đi cũng cực, rét cũng cực, nóng cũng cực, nằm cũng cực. Khi sắp muốn nằm, nên tự sợ hãi ngồi dậy! Người ngồi không được đoan-chính, nên đứng dậy. Người đứng không được đoan-chính, nên kinh-hành. Người mà thảng hoặc tâm không được đoan-chính, nên tự chính. Ví như Quốc-Vương đem binh ra trận chiến-đấu, phải dàn những quân mạnh-mẽ ở đằng trước; tuy đã chống giặc ở khu trước, lại phải thích-hợp, có thể gìn-giữ được những người ở sau. Vị Sa-Môn đã bỏ nhà cửa, bỏ vợ con, cạo râu tóc làm Sa-Môn, tuy chịu khổ một đời, sau được giải-thoát mãi mãi. Người khi đắc đạo rồi, trong tâm mình vui vẻ, coi vợ như chị, em, coi con như bạn tri-thức, không còn có tâm tham-ái và thường rủ lòng lành thương; coi chư Thiên, nhân-dân, địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, cùng những loài sâu bay, bọ cựa trong mười phương, đều được giàu sang, an-lành, thoát khỏi sinh-tử, được đạo-quả Niết-Bàn. Thấy những loài sâu dưới đất, nên đem lòng từ thương xót nó. Biết lẽ sống, không vướng lại sự si-mê và thường có ý-niệm này: thường nghĩ ân-đức Thầy, phụng-sự Phật, như người nghĩ đến công ơn cha mẹ, như người tù bị tội tử-hình giam trong ngục, có bậc Hiền-giả đến xin cho khỏi bị tù; người bị tù có trí hiểu-biết, thường nghĩ đến ân đức bậc Hiền-giả. Vị Tỳ-Khưu được đạo-quả rồi, thường cũng phải nghĩ đến Phật như thế và nghĩ đến kinh-pháp cũng như người nghĩ đến việc ăn cơm vậy.

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu nên thừa sự nhau, như em thờ anh. Trong ấy, nếu có người si-mê, nên học-hỏi người trí-tuệ; đắp-đổi dạy lẫn nhau. Học hỏi người trí-tuệ như trong nơi tối có ánh đèn. Không được cãi-cọ, kiện-cáo nhau. Thấy vàng bạc nên coi như đất, đá. Không được làm chứng càn cho người ta, ghép người ta vào tội-pháp. Không được truyền lời nói xấu của người ta và chuyển lời nói đấu-tranh nhau. Không được làm thương-tổn trong ý nói của người ta. Không nghe thấy đừng nói là nghe thấy, không trông thấy đừng nói là trông thấy. Đi đường thường nên cúi đầu trông xuống đất. Sâu-bọ không nên dẫm chết. Không được tham-đắm phụ-nữ người ta và không được dùng hình-bóng phụ-nữ người ta. Ngồi tự suy-nghĩ: “Bỏ tâm tham-ái, mới được gọi là đạo”.

Đức Phật dạy: Người muốn cầu đạo, nên cầu ở chốn không-nhàn vẳng-lặng, tự hô-hấp hơi thở nơi mình, biết cách thở dài, ngắn; thở ra không hít vào, hình-thể đều mệt, ngậm hơi không thở, hình-thể cũng mệt (14). Phân-biệt tự suy nghĩ: “Hình-thể này ai là người tạo-tác ra? Tâm nên xét ngoài, cũng nên xét trong. Tự suy nghĩ, vui-vẻ, cùng người ta có tâm khác hơn, thời trong khi ấy thấy không cần dùng những thứ trân-bảo của thiên-hạ nữa. Người, tâm hơi muốn theo chánh-đạo, ý lại muốn chút xao-động, nên nén dẹp, ngăn ngừa giữ lại ngay, thời ý liền hoàn lại. Ví như người có tấm gương, gương không sáng không thể thấy hình được, lau-chùi bụi nhơ trên gương, tự thấy hình ngay. Người ta bỏ được tham-dâm, giận-dữ, ngu-si cũng ví như tấm gương đã lau-chùi rồi. Suy nghĩ kỹ: “Thiên-hạ này đều không có cái chi là vững-bền và cũng không có cái chi là thường mãi.”

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu giữ-gìn tâm mình, nên như tảng đá vuông bốn mặt. Tảng đá ở giữa sân, mưa rơi cũng không hoại được, ánh mặt trời thiêu đốt cũng không tan được, gió thổi cũng không chuyển được. Gìn giữ tâm thường như tảng đá ấy.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Lòng người trong thiên-hạ cũng như nước chảy; trong giòng nước chảy ấy, có cỏ cây gì, đều tự trôi đi, không đoái nhìn lại nhau, thứ trôi trước không đoái nhìn lại thứ sau và thứ sau cũng không nhìn về thứ trước. Cỏ cây trôi đi, đều tự như thế. Lòng người cũng như thế, một niệm lại, một niệm đi, như cỏ cây trước, sau không nhìn lại nhau. Trong khoảng thiên thượng, thiên hạ này, không có cái gì ở chỗ nào lại vui trở lại. Gửi thân trong trời đất, bỏ thân này không sinh lại được. Đạo thành nên biết ơn thầy, thấy thầy liền thừa-sự, không thấy thầy nên suy-nghĩ lời răn dạy của thầy, như người nhớ nghĩ đến cha mẹ. Ý định có sự nhất tâm, liền có lòng thương-sót những loài sâu bay, bọ cựa cùng nhân-dân thiên-hạ. Và, ta ngồi ta tự vui cười là ta đã thoát thân trong thiên-hạ cùng năm đạo: một là Thiên-đạo, hai là Nhân-đạo, ba là Ngã-quỷ-đạo, bốn là Súc-sinh-đạo, năm là Địa-ngục-đạo. Người được đạo-quả A-La-Hán muốn phi-hành, biến-hóa cũng được; trong thân biến ra nước, lửa cũng được, ra chỗ kín mịn không kẽ hở, vào chỗ dầy-đặc không lỗ hổng cũng được và xa-lìa nỗi khổ thế-gian, chứng-đạo Niết-Bàn cũng được.”

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: “Đạo không thể không làm, kinh không thể không đọc.”

Đức Phật nói kinh này rồi, năm trăm vị Sa-Môn đều được đạo-quả A-La-Hán. Các vị Sa-Môn ấy đều đứng dậy, tới trước đức Phật, đầu mặt cúi sát đất, làm lễ đức Phật mà lui.

 


(1) Kinh này là cuốn kinh số 151 trong Đại-Tạng-kinh. A-Hàm (Agama) gọi tóm-tắt kinh sách Tiểu-thừa. A-Hàm dịch là “Pháp-quy” là muôn pháp quay về nơi có nghĩa là vô-lậu; lại dịch là “vô-tỉ-pháp” có nghĩa là diệu-pháp không có gì sánh kịp, và dịch là “thú vô” có nghĩa là tôn-chỉ nói ra đạt tới chỗ rốt-ráo không còn có chỗ quy-thú nữa.

(2) Đây là nói về 5 uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và thức.

(3) Đây nói là sự phân-biệt giả-dối của năm căn và đều quy về tâm làm gốc.

(4) Danh-sắc: là nói báo thân trong thai tạng do tâm-thức (danh) và tứ đại (sắc) hòa-hợp, nương tựa nhau sinh trưởng.

(5) Lục-nhập: 6 căn xúc nhập với 6 trần.

(6) Vun trồng, tiếp xúc.

(7) Có sự tạo-tác kết thành nghiệp hữu-lậu.

(8) 12 nhân-duyên nơi đây so-sánh với nơi khác, phần danh-từ và thứ thự hơi có chút sai-biệt.

(9) Sa-Môn (Srmana): Xưa dịch là “Tức tâm, Tĩnh-chí, Bần-đạo v.v…” Nay dịch là “Công-lao, Cần-tức”, đều có nghĩa là vị tu-hành siêng-năng tu-tập, ngăn-dứt phiền-não nơi tâm, làm yên lặng, trong sạch thần-chí, có công cần-cù khó nhọc tiến tu về đạo giải-thoát (đạo Phật).

(10) 5 đường: Thiên, A-tu-la, Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc-sinh.

(11) Xem chú-thích nơi kinh Tội-Phúc Báo Ứng.

(12) Năm điều răn này so với chỗ khác có sự sai thứ-tự.

(13) Đây là nói về 4 chỗ quán-niệm (tứ niệm xứ): 1/ Quán thân không trong-sạch. 2/ Quán sự lĩnh-thụ là khổ. 3/ Quán tâmvô thường. 4/ Quán phápvô ngã.

(14) Đây là nói về Sổ-tức-quán (cách đếm hơi thở).

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15912)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18784)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14299)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11723)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13838)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13155)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14919)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10990)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17474)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13587)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16251)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12790)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14032)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14024)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14290)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13800)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13067)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13412)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10127)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13821)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant