Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Hiền Ngu

21 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 18658)
Kinh Hiền Ngu

Kinh Hiền Ngu
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bản Duyên, Kinh số 202

Nguyên tác Hán ngữ  [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]

Nguyên Ngụy Tuệ Giác Đẳng dịch Hán

HT Thích Trung Quán dịch Việt

kinhhienngu

Mục Lục

 

 

Phẩm thứ nhất : PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP

Phẩm thứ nhì : THÁI TỬ MA HA TÁT ĐÕA ĐEM THÂN CHO CỌP ĂN

Phẩm thứ ba : HAI NGƯỜI DÒNG PHẠM CHÍ THỤ PHÁP BÁT QUAN TRAI

Phẩm thứ tư : ĐI Ở LẤY CÔNG CÚNG DÀNG

Phẩm thứ năm : THẦN BỂ VỚI NGƯỜI ĐI BUÔN

Phẩm thứ sáu : CẦU TỰ

Phẩm thứ bảy :THÁI TỬ TU XÀ ĐỀ

Phẩm thứ tám : CÔ KIM CƯƠNG

Phẩm thứ chín : TỲ KHƯU KIM TÀI

Phẩm thứ mười:HOA THIÊN

Phẩm thứ mười một :TỶ KHƯU BẢO THIÊN

Phẩm thứ mười hai : SÀN ĐỀ BÀ LA

Phẩm thứ mười ba : VUA TỪ LỰC CHO HUYẾT

Phẩm thứ mười bốn : HÀNG PHỤC LỤC SƯ

Phẩm thứ mười lăm : CỨ ĐÀ THÍ THÂN

Phẩm thứ mười sáu : VUA ĐẠI QUANG MINH

Phẩm thứ mười bảy : ƯU BA TƯ NA

Phẩm thứ mười tám : XUẤT GIA CÔNG ĐỨC

Phẩm thứ mười chín : SA DI HỘ GIỚI

Phẩm thứ hai mươi : NGƯỜI KHÔNG TAI, MẮT, MŨI, LƯỠI

Phẩm thứ hai mươi mốt :HAI VỢ CHỒNG NGHÈO

Phẩm thứ hai mươi hai :BÀ LÃO BÁN NGHÈO

Phẩm thứ hai mươi ba : KIM THIÊN

Phẩm thứ hai mươi bốn : TRÙNG TÍN

Phẩm thứ hai mươi lăm : TÁN ĐÀN NINH

Phẩm thứ hai mươi sáu : BỐ THÍ ĐẦU

Phẩm thứ hai mười bảy : BỐ THÍ MẮT

Phẩm thứ hai mươi tám : NĂM TRĂM NGƯỜI MÙ

Phẩm thứ hai mươi chín : PHÚ NA KỲ

Phẩm thứ ba mươi : NI - ĐỀ

Phẩm thứ ba mươi mốt : ĐẠI KIẾP TÂN NINH

Phẩm thứ ba mươi hai : TỶ KHƯU NI VI DIỆU

Phẩm thứ ba mươi ba : LÊ KỲ DI

Phẩm thứ ba mươi tư :THIẾT ĐẦU LA KIỆN NINH

Phẩm thứ ba mươi lăm: A DU CA

Phẩm thứ ba mươi sáu : BẢY LỌ VÀNG

Phẩm thứ ba mươi bảy : SAI MA

Phẩm thứ ba mươi tám : CÁI SỰ

Phẩm thứ ba mươi chín :ĐẠI THÍ TÁT BIỂN

Phẩm thứ bốn mươi : A NAN TỔNG TRÌ

Phẩm thứ bốn mươi mốt : ƯU BÀ TƯ

Phẩm thứ bốn mươi hai : CON NGỘ SÁT CHA

Phẩm thứ bốn mươi ba : TU ĐẠT LÀM TINH XÁ

Phẩm thứ bốn mươi tư : LẶC NA SÀ GIA

Phẩm thứ bốn mươi lăm : CÁ TRĂM ĐẦU

Phẩm thứ bốn mươi sáu : TỊNH CƯ THIÊN

---o0o---

Phẩm thứ nhất : PHẠM THIÊN THỈNH PHÁP

 

CHÍNH tôi được nghe: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng. Cũng do lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu tập. Khi mới thành Phật, thấy vấn đề trên đối với tất cả chúng sinh khó, nên Ngài tự nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh mê tối thâm độc qúa, lòng dạ đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ mê theo những lối tà đạo, rất khó giáo hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng ta vào cõi Vô Dư Niết Bàn là hơn".

Khi đó ông vua cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay xuống tận nơi, tới trước làm lễ, rồi qùy gối chắp tay cung kính thưa với Ngài rằng:

- Kính lạy Đức Thế Tôn ! Vừa đây con được biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết Bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên thượng muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính cầu thỉnh của con.

Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi muốn vào Niết Bàn là một sự an vui hơn.

Ông lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả chúng sinh trong cõi trời, cõi người, đương bị màn vô minh che tối, tìm ra không biết lối, ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể độ được, con xem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp lợi sinh.

Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp nhặt, một bài kệ, cho đến một câu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy sinhPhật pháp, một cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, được những hạnh của Ngài đã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát, chúng sinh như những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sương mù phủ đậy đã lâu năm đương ngóc ngó ánh thái dương phản chiếu, để biến thành những bông hoa tươi đẹp. Kính lạy Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết Bàn.

Con lại nhớ kiếp qúa khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.

Đối với thời ấy, phúc đứcthế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!

Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh, chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".

Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".

Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!

Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau.

Ông biến hình làm một con qủi Dạ Xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảng cho.

Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng:

- Tâu bệ hạ ngoài thành có một người hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần được rõ ?

Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điệ⮠và nhường ngồi trên ngai vàng, thiết đãi một cách rất trọng hậu.

Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.

Pháp sư nói:

- Học pháp rất khó, ông muôn được nghe không phải dễ. 

Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ.

Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.

Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:

- Tôi xin nói để các người hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ ? 

Nghe xong hoàng hậu và thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.

Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.

Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua qúa ư mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làm được. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.

Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ như sau:

Nhất thiết hành vô thường.

Sinh giả giai thị khổ !

Ngũ ấm không vô tướng.

Vô hữu ngã, ngã sở.

Nghĩa là :

Hết thảy đều vô thường,

Sinh ra tất phải khổ !

Năm ấm không có tướng.

Ta và của đều không.

Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết ! Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụng đọc.

Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ Xoa) thấy vua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng : "Quí hóa nhà vua ! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ được thành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhânthái tử hãy còn toàn vẹn.

Kính thưa Ngài ! Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là ngài đẫy. Xưa kia Ngài đã hy sinhPháp như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết Bàn ?

Kính lạy Ngài ! Lại một kiếp nữa, thuộc thời quá khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Kiền Sá Ni Yết Lê, thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn Phu Nhân và thể nữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân hiền, yêu thương tất cả, nhân dân sung sướng, cây cỏ xanh tươi. Dân coi vua như một người cha lành.

Nhà Vua tự nghĩ như vầy : "Ta được địa vị cao sang, tôn trọng quý giá ! Là do trước kia ta đã tạo nhân lành. Hiện nay nhân dân được an vui sung sướng ! Tuy thế, chỉ an vui về vật chất, song vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự an vui lâu dài vĩnh viễn, muốn cho chính mình và tất cả chúng sanh, được an vui vĩnh viễn, ta phải tìm đạo giải thoát do Phật dạy mới có kết quả".

Nghĩ thế rồi vua sai các quan viết bảng cáo thị, và truyền lệnh cho khắp trong nước biết : "Nếu ai có Diệu Pháp, nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ". 

Sau có người Bà La Môn tên là Lao Độ Sai, đi tới nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông vào báo cho vua biết. 

Quan Môn Giám liền đem tin ấy vào tâu vua. Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo trang nghiêm, tự ra lễ bái, hỏi han ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong chánh điện, bày giải một tòa cao đẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay thưa rằng:

- Kính thưa Đại sư, được hạnh phúc cho chúng tôi nhiều lắm! Hôm nay Đại sư có lòng thương đến chúng tôi mà tới đây. Vậy kính xin thể lòng từ bi cao cả, thuyết Diệu Pháp cho chúng tôi được thừa thụ.

Lao Độ Sai đáp: - Ta có trí tuệ cũng phải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa, dầy công học tập, không phải là một việc dể dàng quá như vậy.

Nhà vua thưa: - Kính thưa Đại sư, ý Đại sư thế nào xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ ?

Lao Độ Sai nói: - Nhà vua muốn được nghe Pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt lửa cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe.

Nghe nói, nhà vua vui vẻ nhận lời xin khoét, và khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân chúng biết, lời báo cáo như sau:

"Tất cả quốc dân nên biết: Vua Kiền Sà Ni Yết Lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ khoét trên mình ra ngàn lỗ, đốt đèn cúng dàng Pháp Sư, ai muốn nghe, và xem sự hy sinh cúng dàng của nhà vua thì đến".

Bấy giờ các ông vua nước nhỏ và nhân dân các nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau đến yết kiến và tâu rằng:

- Kính thưa Đại Vương ! Tất cả muôn dân nhờ phúc đức của Đại Vương được an lạc thái bình, như kẻ mù được nhờ cây gậy, con dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vương khoét mình đốt đèn, tất nhiên tuyệt mạng, thì muôn dân trông cậy vào ai ? Xin không nên vì một người mà nỡ bỏ chúng sinh trong thiên hạ.

Sau đó hai muôn bà phu nhân, và năm trăm thái tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều can vua việc đó.

Nhà vua liền lớn tiếng nói:

- Các ông không nên cản trở tôi, tôi hy sinh thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ độ cho lũ các ông trước.

Họ thấy nhà vua khẳng khái như vậy, ai nấy đều tha thiết kêu van! Nhưng vua cũng quyết định không thay đổi ý kiến.

Hết hạn bảy ngày nhà vua tới trước Pháp sư làm lễ và thưa rằng:

- Kính thưa Đại sư, chúng tôi xin dốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư! Để bắt đầu khoét mình đốt đèn cúng dàng, xin Đại sư hoan hỷ !

Nói xong nhà vua sai khoét, nhưng không ai dám khoét. Sau đó có người Chiên Đà La đến khoét hộ cho vua, anh này khoét xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ dầu bỏ bấc xong mọi người coi thấy ai cũng rùng mình run sợ !

Nhà vua thưa rằng:

- Kính xin Đại sư thuyết pháp trước, sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe pháp.

Lao Độ Sai đọc bài thơ rằng:

Thường giả giai tận.

Cao giả tất trụy ?

Hợp hội hữu ly

Sinh giả hữu tử.

Nghĩa là :

Thường rồi có hết,

Cao thì phải rơi,

Hợp rồi có tan,

Sinh thì có tử.

Đọc xong vua sai đốt lửa, trong khi lửa cháy dữ dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên tươi tỉnh, không hề biến sắc. Ngài tự phát thệ rằng:

- Tôi chịu đau khổ để cầu nghe đạo giải thoát, nguyện đem công đức này hướng về Phật qủa, sau khi được thành, tôi sẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng sinh.

Nói dứt lời, thì trời đất tự nhiên chuyển động, tới cõi trời Tịnh Cư. Khi đó các người cõ Trời ngó xuống xem, thấy một vị Bồ Tát đốt mình làm đèn cúng dường Pháp Sư để nghe pháp, một cách rùng rợn ! Họ bay xuống đứng kín cả hư không, ví sự cảm động quá ! Nên nhiều người sa nước mắt roi xuống thành mưa, đồng thời họ lại tung hoa xuống để cúng dàng. Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trước khen và hỏi rằng:

- Nhà vua đau khổ như vậy thìhối hận gì không?

Nhà vua đáp: - Thưa không!

Đế Thích nói: - Tôi thấy nhà vua run rẩy không yên như vầy, tự nói không hối, lấy gì chúng cớ biết rõ được?

Đế Thích nói dứt lời, thì Ngài tự thề rằng:

- Nếu tâm tôi thủy chung như một, không hối hận gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại được bình phục như cũ.

Vì lòng chân thực cầu đạo pháp tha thiết, cảm động mười phương, nên những lỗ trên mình tự nhiên lại được bình phục như cũ, thân thể lại tốt lành hơn xưa.

Kính lạy Ngài! Ông vua khoét mình đốt đèn để cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài đã cực khổ cầu Pháp như vậy, tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết Pháp? Vào Niết Bàn làm chi, để chúng sanh mất con mắt quang minh trí tuệ ?

Kính lạy ngài ! Lại một đời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua, tên là Tỳ Lăng Yết Lê thống trị được nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn bà Phu Nhân và thể nữ, năm trăm Thái Tử, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua có đức nhân, coi dân như con đẻ, lại ham nghe chánh pháp, nên sai quan Đại Thần tuyên lệnh cho toàn quốc biết như sau:

- Thông cáo cho toàn quốc biết: Hoàng Thượng muốn được nghe Phật Pháp, ai biết đến nói cho ngài nghe, Ngài sẽ trọng thưởng tùy ý muốn.

Cách thời gian lâu, có một người dòng Bà La Môn, tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: - Tôi là người đã từng nghiên cứutu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin ông hãy vào tâu Hoàng Thượng cho.

Theo lời yêu cầu của Lao Độ Sai, quan Môn Giám vào tâu vua.

Nhà vua được tin rất vui vẻ, đội mũ mặc áo trang nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh trọng chào hỏi, rồi mời vào trong chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm ngày mai vua sai bày một tòa cao đẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa ngồi yên tĩnh.

Nhà vua và bá quan, nghiêm chỉnh thân tâm, tới trước Pháp Sư cúi đầu lễ lạy, rồi qùy xuống thưa rằng: - Kính thưa Đại Sư phát tâm từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi được thừa ân công đức!

Lao Độ Sai đáp: - Sự hiểu biết của ta đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn phương xa mới được; nhà vua coi sự học một cách dễ dàng quá !

Nhà vua toát mồ hôi, một lòng kính cẩn thưa rằng :

- Kính thưa Đại sư ! Việc nghe đạo phải đúng quy tắc thế nào ? Chúng tôi là 

kẻ trần tục phàm phu, không biết sự lễ Pháp bao giờ, xin Đại sư chỉ dạy cho?

Đáp : - Nhà vua có thể đóng lên mình một ngàn cái đinh sắt, được như vậy ta sẽ

thuyết pháp cho nghe.

Nhà vua thưa : - Dạ ! Xin tuân lời dạy bảo của Đại sư, và xin ngài cho lui lại

bảy ngày, để báo cáo cho dân biết.

Nói xong lễ tạ lui ra, lời báo cáo như sau :

- Tất cả toàn quốc nên biết, tôi là Nhân Chúa Tỳ Lăng Yết Lê, vì muốn được

đạo giải thoát cho chính tôi, và toàn thể, nên tôi đóng đinh trên mình một ngàn cái, cúng dàng Pháp sư, quốc dân ai muốn biết sự thực hành của tôi, sau bảy ngày nữa xin mời đến.

Dân chúng được tin nhà vua đóng đinh trên mình, để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo nhau đến kinh thành rất đông, sau đó một số đại biểu của dân chúng lên tâu vua rằng :

- Kính tâu Hoàng Thượng ! Lũ chúng tôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến

đây kính mừng Thánh thượng, thọ lạc thiên thu, hưởng phúc lâu dài chúng tôi tự biết, nhờ ơn đức Hoàng Thượng nên được thái bình an lạc, cúi xin thương đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự đóng đinh trên mình.

Sau đó, tiếp đến Phu nhân, thể nữ, thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu

vua xin miễn bỏ việc đó.

Nhà vua đáp : - Tôi nhận thấy đã bao kiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh

tử luân hồi, thân mạng đã mất đi vô số; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm lòng tham dục, giận tức, ngu si, nhìn lại số xương thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể chất cao hơn núi Tu Di, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn nước sông lớn; nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước bốn bể; những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi, chưa từng bao giờ vì đạo pháphiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sư để cầu thành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kết sử của lũ các người, và đưa dắt các người lên đường giác ngộ giải thoát thành Phật, một việc ích lợi chung cho toàn thể chúng sinh, can tôi làm chi ?

Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi người ai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì hết.

Tới giờ phút này nhà vua đến trước Pháp sư thưa rằng :

- Kính xin Đại Sư ra ân, thuyết pháp trước đóng đinh, nếu đóng trước, thì tôi

sẽ chết không được nghe.

Đại Sư đọc bài thơ rằng :

Nhất thiết giai vô thường

Sinh giả giai hữu khổ !

Chư pháp không vô chủ.

Thực phi ngã sở hữu

Nghĩa là :

Tất cả đều vô thường

Sinh ấy đều có khổ !

Các pháp không có chủ.

Thực chẳng phải ta có.

Pháp Sư đọc xong, nhà vua vui mừng, sai người viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân, bắt ai cũng phải tụng đọc.

Giờ phút bắt đầu, nhà vua sai người đóng đinh, thì tất cả các ông vua nước nhỏ, và quân thần, dân chúng trong đại hội, đều gieo mình xuống đất than thở. Trời đất chấn động sáu lần, các ông thiên tử trên trời bay xuống, thấy ngài hy sinh cầu đạo như vậy, ai nấy đều cảm động, rơi lệ chứa chan, một lòng tôn kính tung hoa xuống cúng dàng. Vua Đế Thích xuống tận nơi hỏi rằng:

- Nhà vua quyết liệt tâm chí, cầu đạo không tiếc mạng sống như vậy, để nguyện đời mai sau làm gì ? Làm Đế Thích ư, làm Chuyển Luân Vương ư, làm Ma Vương, Phạm Vương ư ?

Đáp: - Thưa Ngài! Tôi quên mình để cầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật, và tế độ cho chúng sinh cũng được giải thoát, chứ tôi không cầu phúc báoba cõi sinh tử, như Đế Thích, Chuyển Luân Vương, Ma Vương hoặc Phạm Vương.

Đế Thích hỏi: - Tôi coi nhà vua đau đớn như thế, thì tâm có hối hận gì không?

Đáp: - Không!

Đế Thích hỏi: - Ngài nói không thì lấy gì chứng tỏ

Nhà vua liền lập thệ thư sau:

- Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Bồ Tát Hiền Thánh Tăng tác đại chứng minh, con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không hối hận, thì thân thể lại được bình phục như củ.

Phát thệ dứt lời, thì những cái đinh bật hết ra ngoài, thân thể quả nhiên lại được bình phục như cũ.

Khi đó tất cả trời, người và quan quân, dân chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm ứng như vậy, ai nấy đều vỗ tay vui mừng không tả xiết !

- Kính lạy Ngài! Ông vua đóng đinh trên mình thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài lớn như biển cả, rộng như hư không, đã phá tan những tập kiến chúng sinh, chúng đương ngoai ngáp trong chốn bùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối. Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau khổ mà vào Niết bàn.

- Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa, thuộc thời qúa khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Phạm Thiên, sinh được một thái tử tên là Đàm Ma La Kiềm.

Thái tửtrí tuệ khôn sáng, ưa ở nơi thanh vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm tòi chân lý, ham nghe chánh pháp, nên thường sai người đi khắp đông tây, kiếm thầy học đạo, đã nhiều lần, nhưng không gặp được một ai là người có chánh pháp giải thoát. Trong thời gian tìm thầy chưa được, Thái tử thấy luôn luôn khổ não, làm cho không lúc ngớt ý nghĩ nói trên.

Bấy giờ vua Đế Thích biết Thái tử lòng thành như vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà La Môn, đi đến kinh thành, tới chỗ đông người nói rằng:

- Các bạn nên biết, tôi là người hiểu biết Phật Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ giảng giải cho.

Họ liền đến mách bảo Thái tử, ngoài thành có người tự xưng hiểu giáo lý đạo Phật.

Thái tử được tin thấy lòng vui sướng vô cùng, vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một số người theo hầu, ra tiếp đón Pháp sư, lễ bái, hỏi han rồi mời vào trong cung nơi biệt thự, thết đãi trịnh trọng.

Sớm ngày mai trà nước xong xuôi, vầng thái dương mới nhôn khỏi núi ánh bình minh vừa tỏa khắp cõi không gian, bầu trời yên lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử sai người bày tòa giảng thuyết, Pháp Sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử tới trước lễ bái, quỳ gối chắp tay thưa rằng:

- Kính thưa Đại Sư, chúng tôi bị những bức thành mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp, là do không được gặp chánh pháp của Như Lai, chúng tôi thành kính trước ngài, ngửa mong từ bi giảng thuyết, để cho hết thảy được ân triêm đức hóa?

Đại sư nghiêm nét mặt đáp:

- Học đạo không phải một việc dễ, ta đã biết bao công trình tìm thấy tu học, mới được hiểu biết. Người chưa chút khó nhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là coi sự học đạo dễ dàng quá.

Thái tử thưa rằng: - "Kính thưa Đại Sư ! Từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu báu, Đại Sư dạy bảo thế nào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý".

- Đại sư đáp: "Muốn nghe pháp, Thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở dưới đốt than cho thật đỏ hồng, rồi Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết pháp.

Thái tử nói: - Dạ xin tuân lời dạy của Đại Sư.

Sau khi Thái tử sai người đào hố thì nhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người trong Hoàng cung ai ai cũng lo phiền, và khuyên can, nhưng Thái Tử quên mình vì sự cầu đạo giải thoát, nên không nghe theo những lời khuyên can ấy. 

Sau nhà vua và các quan đều thưa với Đại Sư rằng:

- Kính thưa Đại Sư ! Thương đến lũ tôi, để miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài ra Đại Sư muốn dùng gì chúng tôi xin dâng.

Đại Sư đáp: - Việc đó tùy ý Thái tử, ta không bó buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng không thì thôi!

Nhà vua thấy tâm địa của Đại Sư khẳng khái quá, nên ngài cũng vái chào rồi trở ra về, không nói năng gì nữa.

Trở về nhà vua sai người đi thông báo cho quốc dân biết rằng:

Lời thông báo như sau: - Tất cả quốc dân nên biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe đạo, nên xả thân, nhảy xuống hố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây.

Nhân dân được tin Thái tử nhảy xuống hố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông như hội, sau đó một số Đại biểu của nhân dân, tới thưa với Thái tử rằng:

- Kính thưa Thái tử : Lũ chúng tôi hay tin Ngài vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi ích chưa thấy đã thấy sự tang thương cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài miễn bỏ việc đó, để cho quốc gia được an lạc.

Thái tử đáp: - Các ông lẳng lặng để nghe tôi nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con người sống thác từ đời vô thủy cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi này sinh cõi kia luân chuyển như bánh xe quay không mối. Trong loài người vì lòng tham dục, nên giết hại lẫn nhau; trên cõi trời khi hết tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; nơi địa ngục lửa đốt suốt ngày đêm, nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm, hành phạt con người vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết bao lần, sự hình ngục không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiên dùi vào mình loài ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày chở nặng loài súc sinh, sau lại dâng thân cho người ăn thịt, những nỗi khổ như thế, khó nói hết trong những kiếp đã chịu đoạ đày, xét lại những thân mạng ấy chỉ uống mà thôi, có làm được một việc gì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh trong pháp giới, ai đã biết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân này, cúng dàng để nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm phận pháp thân, can chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm.

Mọi người nghe Thái tử nói xong, ai nấy đều nín thinh, không dám trả lời sao hết.

Khi sắp nhảy xuống hố lửa Thái tử nói:

- Kính thưa Đại Sư ! Xin thuyết pháp trước khi tôi nhảy xuống hố.

Đại Sư đọc bài thơ như sau:

Thường hành ư từ tâm,

Trừ khứ khuế, hại tưởng.

Đại bi mẫn chúng sinh !

Căng thương vị vũ lệ !

Tu hành đại hỷ tâm,

Đồng kỷ sở đắc pháp.

Cứu hộđạo ý

Nãi ưng Bồ Tát hạnh.

Nghĩa là :

Thường làm theo tâm từ 

Trừ bỏ tưởng, giận hại.

Đại bi thương chúng sinh !

Quặn lòng rơi nước mắt !

Tu làm tâm đại hỉ,

Với mình cùng đắc pháp,

Cứu giúp bằng đạo lý,

AṠlà hạnh Bồ Tát.

Khi sắp gieo đầu xuống hố lửa thì vua Đế Thích và vua Phạm Vương chạy lại cầm tay hỏi gạn rằng:

- Thái tử hãy khoan, để tôi nói chuyện đã : Một ông vua có đức nhân, thì muôn dân được an lạc ! Chúng tôi nhận thấy Thái tử là người đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng yên lòng có người nối trị nuôi dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả chúng sinh trong thiên hạ, theo ý chúng tôi thì không nên quá ư thiên chấp như vậy.

Thái tử đáp lời rằng:

- Thưa quý Ngài! Tôi nhận thấy phần nhiều người, chỉ biết lúc an vui, chớ không lo một ngày gặp tai nạn! Chỉ biết cái sống hôm nay mà không sợ cái chết của ngày mai. Sở dĩ tôi làm một việc có thể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và tất cả chúng sinh, chứ không phải tôi không biết thương chúng sinh! Quý Ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôi làm gì.

Nói xong Thái tử nhảy xuống hố lửa! Tự nhiên trời đất chuyển biến làm cảm động cả thiên cung. Khi đó mọi người đều sa nước mắt, cũng có người lên tiếng khóc thương! Giờ phút đương làm cho mọi người khủng hoảng, thì hố lửa ấy tự nhiên biến thành một ao sen, mùi hương thơm ngào ngạt, những làn gió thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi người, họ nhìn vào thấy Thái tử ngồi trên đài sen, ai nấy đều vui mừng không tả xiết. Lúc đó hoa trên trời bay xuống như mưa. Vua Đế Thích, vua Phạm Thiên cũng phải cất tiếng khen rằng:

- Quý hóa! Cầu đạo như vậy, sau này quyết định thành Phật.

Kính lạy Ngài! Nhà vua thuở đó nay là thân phụ Ngài (Tịnh Phạn Vương), bà Hoàng hậu thuở đó nay là thân mẫu Ngài (Ma Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính nay là Ngài, cũng vì thương chúnh sinh, cầu pháp như ngài đó, nay đã thành công, cúi xin Ngài từ bi thuyết pháp, tế độ quần sinh qua nơi biển khổ !

Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứ nữa, tới nay vô lượng kiếp, cũng Châu Diêm Phù này có một nước tên là Ba La Nại, nước ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong núi, ông Uất Đà La làm thầy các vị Tiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo, nhưng ông hằng mong được gặp chánh pháp của Như Lai (Phật), ông đã từng đi khắp bốn phương trời, và thông báo cho thiên hạ biết rằng:

- Tôi Đại Tiên sĩ rất muốn được nghe chánh pháp của đức Như Lai, ai biết nói cho tôi nghe, nếu muốn dùng gì tôi xin dâng biếu.

Khi đó có một người dòng Bà La Môn tới chỗ ông nói rằng:

- Nghe biết Tiên sĩ muốn tìm hiểu chánh pháp của Như Lai, chính tôi là người hiểu biết giáo pháp của Như Lai, nếu Ngài muốn hocỏi, tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhưng nghe là một việc rất khó.

Đại Tiên thưa: - Kính thưa Đại sư việc nghe pháp phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho?

Đáp: - Ngài có thể lột da của Ngài để làm giấy; chẻ xương của Ngài dùng làm bút; lấy máu của Ngài để làm mực viết lấy giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ thuyết cho Ngài nghe.

- Dạ, rất đa tạ Đại Sư, chúng tôi xin tuân lời của Đại Sư dạy.

Nói dứt lời ông sai người lấy dao lột da, chẻ xương, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa mặt thưa rằng:

- Dạ, kính xin Đại Sư đọc để chúng tôi tiện viết ạ !

Đại sư đọc bài thơ rằng:

Thường đương nhiếp tâm hành

Nhi bất sát, đạo, dâm;

Bất lưỡng thiệt ác, khẩu,

Vọng ngôn, cập ỷ ngữ.

Tâm bất tham chư dục;

Vô sân, khuể, độc tưởng;

Xả ly chư tà kiến.

Thị vi Bồ tát hạnh.

Nghĩa là :

Thường phải nhiếp tâm hành.

Mà không sát, trộm, dâm,

Không hai lưỡi, nói ác;

Nói dối, nói đơm đặt,

Tâm không tham mọi dục;

Không sân giận, độc tưởng;

Xa lìa mọi tà kiến:

AṠlà hạnh Bồ tát.

Đại Sư thuyết xong thì Ngài viết cũng vừa xong. Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp nhân gian để dạy bảo cho mọi người biết lối tu hành. Những người được hàm ơn Ngài giáo hóa, khi mạng chung được thoát khỏi ba đường ác sinh lên cõi Trời, cõi Người, hương phúc vô cùng vô tận.

- Kính lạy Ngài! Ông Tiên ngày đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo một cách khổ cực đến như vậy, tại sao lại bỏ để vào Niết Bàn mà không thuyết pháp?

- Kính lạy Ngài! Lại một thời quá khứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Thi Tỳ, ở thành ĐếBạt Đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai muôn bà phu nhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua có hạnh từ bi, thương dân như con đỏ.

Trên Trời lúc ấy, Vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí sắc ông lúc nào cũng âu sầu, ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng:

- Tâu Bệ hạ ! Hồi này Hạ thần coi khí sắc của Bệ hạ kém xưa nhiều lắm, chẳng hay có chuyện chi, xin nói cho Hạ thần được rõ.

Đế Thích đáp: - Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất hiện, mạng sống chẳng còn được là bao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Như Lai, ta không biết qui hướng về đâu nên ta buồn!

Ông Tỳ Thủ Yết Ma thưa rằng: - Tâu Bệ hạ hiện nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có một ông vua tu theo hạnh Bồ tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vữngtinh tiến lắm, sau này quyết định thành Phật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, đầy vẻ tôn vinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất thế gian".

Vua Đế Thích nói: - Nếu như qủa như lời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải thử xem hư thực thế nào. Vậy khanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm chim Cắt, khanh bay trước ta bay sau, khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, và yêu cầu vua cứu, còn ta đến sau ta sẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào.

Tỳ Thủ Yết Ma nói: - Tâu Bệ hạ ! Bồ tát là người từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng dàng, và ủng hộ là phải, chứ không nên làm những sự đau khổ đến Bồ Tát.

Vua Đế Thích liền đọc bài thơ đáp rằng:

Ngã diệc phi ác tâm,

Như trân bảo ưng thí.

Dí thử thí Bồ tát,

Tri vi chí thành phủ ?

Nghĩa là :

Ta cũng chẳng ác tâm.

Nếu thực vàng nên thử.

Để thử Bồ tát xem,

Có thực chí thành không?

Vua Đế Thích đọc xong, bắt đầu Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm chim Bồ Câu bay trước, Vua Đế Thích hóa làm chim Cắt bay sau. Khi tới cung thành, chim Bồ Câu bay thẳng vào lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi, rồi kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói:

- Tâu Bệ hạ ! Xin Ngài trả lại cho tôi con chim Bồ Câu ấy?

Đáp: - Trả cho ngươi để làm chi?

  •  
    • Tâu Bệ hạ ! Nó là món ăn của tôi, tôi đương đói trả để tôi ăn.

Đáp: - Ta có nguyện cứu tế cho muôn loài, nó đã lại đây với ta thì ta không trả đâu.

- Tâu Bệ hạ ! Ngài tự nói cứu tế cho muôn loài, mà cướp món ăn của tôi, thì tôi phải chết đói, đối với tôi không phải là một trong muôn loài hay sao!

Đáp: - Ngươi đói thì có thể dùng thứ thịt khác được không?

- Tâu Bệ hạ ! Vâng! Cũng được nhưng phải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng, thì tôi dùng.

Nhà Vua thầm nghĩa: - Nếu thế thì phải giết một con vật khác; nhưng nếu giết một con, cứu một con cũng vô ích, chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn.

Nghĩ xong lấy dao cắt một miếng thịt đùi ra trao cho chim Cắt và nói rằng:

- Đây! Ngươi dùng miếng thịt của ta để thay chết cho Bồ Câu

Chim Cắt ra cách không hài lòng nói:

- Tâu Bệ hạ ! Ngài đã mang danh là vị Đại Thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả, tôi đây tuy là một con chim nhỏ thực, nhưng nếu theo sự công bình, thì Ngài phải bắt cân để chim một bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.

Theo lời chim nói có lý phải, nên nhà vua sai người bắt cân, để chim một bên để thịt nhà vua một bên, bắt đầu để một miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn nhẹ, dĩ chí nhà vua cắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ như thường, sau cắt hết hai vế đùi, cho đến hai cánh tay, hai bạng mỡ, song vẫn còn nhẹ sau róc hết các thớ thịt ra để lên cũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàn cân, thì đau quá, khí lực đã hết nên Ngài ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt không biết gì, giờ lâu tỉnh lại, thầm nghĩ rằng:

- Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm trong ba cõi, trôi dạt trong sáu thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân sống, nuôi nó bảo thủ nó, gìn giữ nó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác, nhưng trái lại rồi một ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất, nước, cây cỏ, chưa bao giờ vất nó đi, để hy sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến lên để đập tan những bức thành ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt.

Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứng lên bàn cân nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi!

Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều người ở các cõi trời bay xuống xem, họ nhận thấy một ông vua, quên mình để cứu một con vật, tất cả nhân gian thiên thượng, chưa từng ai làm nổi, họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, và tung các thứ hoa xuống cúng dàng.

Đối với lòng đại bi cứu sinh một cách dũng mãnh như vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm phục và hiện lại nguyên hình rồi nói rằng:

- Kính thưa Ngài! Tôi thấy Ngài làm hạnh Bồ tát, nên tôi tới đây để thử Ngài đấy thôi, chính tôi đây là Đế Thích Vương là chúa cõi trời Đao Lợi. Nhưng xin hỏi Ngài: Ngài làm những việc mà người đời không làm nổi như vậy, để cầu làm gì ? Làm Đế Thích hay làm Chuyển Luân Thánh Vương?

Nhà vua đáp: - Thưa Ngài tôi nguyện đem lòng từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật, chứ không có ý cầu làm Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vương mong hưởng những thú vui trong ba cõi.

Vua Đế Thích nói: - Nhà vua cắt thịt đau đớn như vậy, thì tâm có phàn nàn gì không?

Đáp: - Thưa không!

Vua Đế Thích nói: - Nhà vua nói không, việc đó thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua run rẩy như vậy, khí sắc đã gần tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng?

Đáp: - Trước mặt Ngài tôi xin có một cụ thể để chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong Ngài lập thệ rằng:

- Kính lạy thập phương Đại Giác tam thế Hùng Sư ! Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho con lại được bình phục như cũ.

Thệ dứt lời, nhà vua lại được lành mạnh như cũ, những vết thương tiêu tan, da dẻ lại tươi sáng hơn xưa.

Bấy giờ tất cả trời người phàm thánh ai nấy đều tắc lưỡi bái phục tâm chí thành của nhà vua, và coi như một việc chưa từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng!

- Kính lạy Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đó chính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu cực khổ như vậy! Giờ phút này chúng sinh đương bị chìm đắm trong bể sinh tử luân hồi; phơi thây trong rừng tà kiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ đường. Kính xin Ngài từ bi cứu tế thuyết pháp độ sinh, khiến cho khắp nhân thiên, phàm thánh được mong ân đức hóa.

Vua Phạm Vương đứng trước đức Phật tán dương công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài thuyết pháp độ sinh một cách thành thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh.

Đầu tiên Ngài đến nước Ba La Nại thuyết phápvườn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Ngôi Tam Bảo từ đấy mới xuất hiệnthế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11882)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10507)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13021)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8992)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19530)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant