Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 1

25 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 9981)
Quyển 1


KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0309

Nguyên tác Hán ngữ: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Lương Châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Tâm Khanh

--- o0o ---


QUYỂN I


Phẩm 1: ĐẠO DẪN

 

Nghe như vầy:

Một thuở nọ Đức Phật ngự tại khu Lâm viên Nại Thị thuộc thành Tỳ-xá-ly, cùng với tám vạn bốn ngàn vị đđại Tỳ-kheo, mười vạn bốn ngàn vị Bồ-tát. Tất cả các vị này đều là bậc đã thông đạt tạng pháp sâu kín, đắc pháp tổng trì, biện tài vô ngại, luôn trụ trong chánh định, có trí tuệ vô úy, giải thoát hoàn toàn các trói buộc căn gốc của mười hai hành, đã đạt Bất khởi pháp nhẫn thâm yếu, dạo trong năm đường quán sát chỉ dạy, dùng trí rộng lớn của Phật trùm khắp chúng sanh, theo căn tánh của mỗi người mà cứu tế họ, giữ gìn oai nghi, không mất lễ tiết. Tên của các vị ấy là Bồ-tát Thường Tịnh, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Sĩ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Thủ Ý, Bồ-tát Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Trừ Ấm Cái, Bồ-tát Thí Liên Hoa Hạnh, Bồ-tát Sư Tử, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Kiến Chánh Phản Tà, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Vô Tổn Chí, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Trì Ma, Bồ-tát Tạo Hóa, Bồ-tát Thủy Quang, Bồ-tát Thí Tướng, Bồ-tát Ứng Thanh, Bồ-tát Kim Anh, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Nhu Thủ…, gồm có mười vạn bốn ngàn vị.

Khi ấy bốn vị đại Thiên vương chủ cõi địa giới, Thích Đề Hoàn Nhân cùng chư Thiên các cõi Đao Lợi thiên, Diễm thiên, Đâu Thuật thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên, đệ nhất Phạm Thiên vươngchư Thiên cõi Phạm cùng nhau đi đến chỗ Phật. Chư Thiên, Long, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chơn-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và Phi nhân đều đi đến đạo tràng.

Bấy giờ Đức Như Lai nói pháp cho vô ương vô số ức ngàn vị đệ tử đang vây quanh trong hội. Tệ ma Ba Tuần ngồi trên tòa không an, bèn truyền thuộc hạ vây quanh sau trước, đi đến nơi Đức Phật ngự, cúi đầu lạy sát đất rồi đứng sang một bên. Tất cả các bậc Đại thánh trong Hiền kiếp, các Bồ tát đều tụ hội đến.

Lúc ấy Đức Như Lai hiện tướng lưỡi, ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên cõi nước. Những người thấy ánh sáng ấy đều nói với nhau: “Hôm nay Đức Thích Ca Văn Phật ở cõi Nhẫn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương. Các bậc Bồ tát cao hạnh ở trong ánh sáng ấy diễn nói, phát ra thanh âm này: “Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giácquốc độ Sa-ha phóng ánh sáng vi diệu, vì đại chúng giảng nói mười ngàn loại tam muội chánh định, chẳng phải là pháp tu tập của hàng Thanh văn, Duyên giác. Chúng ta hãy cùng nhau chuẩn bị phẩm vật cúng dường, đến cõi Nhẫn kia kính lễ, vâng lãnh giáo pháp thực hành”.

Lúc đó, cách chín vạn hai ngàn cõi Phật về phương Đông có cõi nước tên là Thạnh Diệu, Đức Phật hiệu là Thù Thắng Như Lai. Theo hầu gần gũi Đức Phật là vị Bồ tát tên Chấp Chí, là bậc Đại sĩ thông tuệ, đã trụ bất thoái chuyển. Được ánh sáng chiếu đến thân khuyến tấn, vị ấy liền tự đi đến chỗ Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác ở cõi nước Thạnh Diệu, cúi đầu, quỳ thẳng bạch Đức Phật:

- Kính bạch Bậc Đại Thánh, con muốn đến cõi Nhẫn để chiêm bái Đức Thích Ca Văn Phật Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, cúi đầu tham vấn, học hỏi những điều chưa biết.

Đức Phật bảo:

- Ông nên biết thời để đi, chớ có nghi ngờ.

Đức Phật lại dạy Bồ tát Chấp Chí:

- Khi ông đến cõi Nhẫn thì phải vâng giữ thực hành năm mươi lăm pháp, luôn ghi nhớ trong tâm, chớ để thiếu sót. Năm mươi lăm pháp đó là gì? Phải biết bố thí và không bố thíbình đẳng, giữ giớiphạm giớibình đẳng, nhẫn nhụckhông nhẫnbình đẳng, tinh tấngiải đãibình đẳng, loạn tâmthiền địnhbình đẳng, trí tuệ thông suốtngu si mê mờ là bình đẳng, oan gia và thân gia là bình đẳng, gặp lời mắng chửi tâm bình đẳng như hư không, với ba thừa không phân biệt cao thấp cũng không có vô số tưởng, không thấy thiện cũng không thấy bất thiện, không thấy cõi Phật tịnh cũng không thấy cõi Phật bất tịnh. Nếu thấy chúng sanh sinh ác thú không sanh tâm sợ hãi, thấy các bậc Thượng sĩ phải quán như thấy bậc Chúng hựu, không có tâm phân biệt, luôn giữ nhất tâm. Nếu thấy sát, đạo, dâm, vọng ngôn, ỷ ngữ, uống rượu; tâm mê loạn, tật đố, ganh ghét, giận dữ, đấu tranh, kiện tụng; hoặc gặp kẻ có tâm chấp tà kiến: vô thường cho là thường,… thì đều phải sanh tâm bình đẳng không tăng giảm. Chớ cho rằng giữ giới đầy đủ được phước lớn, bố thí thì được phước lớn, cũng không nên nghĩ rằng ta nay giữ giới sát sẽ được quả báo thọ mạng vô lượng, cũng chớ khen mình chê người rằng ta nay đem giới pháp thù thắng tốt đẹp dạy cho kẻ phàm phu thấp hèn, ti tiện. Trừ hết bảy tâm mạn, mười hai tâm vô ký. Đó là năm mươi lăm pháp, cần phải nhớ tu hành.

Đức Phật bảo ngài Chấp Chí:

- Nếu có vị thiện nam, thiện nữ tâm ý chánh trực, trụ tâm ý chánh định thì có thể đến cõi đó. Giả sử có người trong trăm ngàn kiếp ở cõi của Ta thành tựu phạm hạnh thì không bằng người ở cõi Nhẫn giữ tâm ý không phân biệt cao thấp trong khoảnh khắc khảy móng tay. Người này thù thắng hơn người kia gấp bội ngàn vạn lần.

Lúc ấy có năm vạn vị Bồ tátcõi Phật đó, mỗi vị đều phát thệ nguyện: “Con sẽ đem hết tâm ý thanh tịnh hầu hạ, bảo hộ Bồ tát Chấp Chí đến chỗ Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác”. Bồ tát Chấp Chí liền cùng năm vạn vị Bồ tát trong khoảnh khắc ví như khoảng thời gian lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi thế giới của Đức Phật kia, đến thế giới Nhẫn chiêm ngưỡng Đức Năng Nhân, cúi đầu lễ bái xong lui đứng sang một bên.

Bấy giờ Thế Tôn thấy chúng hội đã an tọa xong liền bảo bốn bộ chúng:

- Các vị có thấy vị Bồ tát Chấp Chí kia không?

Bốn bộ chúng thưa:

- Vâng, đã thấy.

Đức Phật dạy:

- Này các tộc tánh tử, vị Đại sĩ ấy đã vượt qua tam hữu, phân biệt được nghĩa lý ẩn tàng sâu kín, biện tài thông đạt, có tâm Từ thương xót muôn loài, sức thần túc biến hóa dẫn đạo khuyến tấn chúng sanh. Nơi nào có vị đó cư ngụ, nơi đó đạt được nhiều lợi ích.

Lúc ấy, ở trên tòa có một vị Bồ tát tên Tối Thắng nương sức oai thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lạy sát chân Đức Phật, bạch:

- Bạch Đức Thế Tôn, trí tánh con ngu muội không rõ ràng, nay có điều muốn thưa hỏi. Nếu Thế Tôn chấp thuận, con mới dám thưa trình.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Cho phép ông hỏi, Như Lai sẽ vì ông giải thích.

Lúc đó Bồ tát Tối Thắng nghe Đức Phật dạy như thế liền bạch Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn, Đức Như Lai Chí Chơn vào trong tam muội gì mà phóng ánh sáng lớn chói rực hơn cả mặt trời, mặt trăng? Nếu có chúng sanh thấy được ánh sáng của Như Lai thì chắc chắn đạt được điều mong cầu, không mất căn tánh con người. Đó là pháp biến hóa gì mà có sức thần diệu như thế?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Hay thay! Câu ông hỏi là muốn thỉnh Như Lai nói về oai lực của ánh Phật quang, để tiếp độ nhiều chúng sanh nghe xong được khai hóa. Như Lai tùy nghi nhập ức, trăm, ngàn các tam muội chánh định, đến vô lượng hằng sa cõi Phậtvô số cai hướng tánh hạnh của chúng sanh. Người có tánh dâm, nộ, si, cang cường, ngã mạn, cống cao, phóng dật, Như Lai quán sát đều phân biệt rõ.

Bấy giờ ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Thế nào là Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, từ địa thứ nhất, địa thứ hai cho đến địa thứ mười? Đoạn trừ bao nhiêu kết, tiêu trừ bao nhiêu cấu? Thế nào là Bồ tát ngộ rõ pháp trong, ngoài của tự thân đều vô sanh? Thế nào là Bồ tát tự xưng bố thí rộng rãi không bao giờ dứt? Thế nào là Bồ tát tu tập giới đầy đủ, trọn đời không phạm cũng không hủy giới, lui thoái Bồ tát vị? Thế nào là Bồ tát nhẫn nhục mà không khởi thoái chuyển tâm nhẫn, trở lại hạnh phàm phu? Thế nào là Bồ tát tinh cần không giải đãi, lại có tâm ngã mạn, biếng lười do nghiệp thuở xưa kết tụ? Thế nào là Bồ tátthể nhập pháp định ý, trời nổi sấm chấn động tâm vẫn không tán loạn? Vì sao Bồ tát sơ phát tâm tu tập vẫn không thể đoạn được (tâm tán loạn)? Vì sao ý thức của Bồ tát đã an ổn vẫn không thể lìa bỏ (tâm tán loạn)? Vì sao nói tâm đó của Bồ tátđộc tôn, khác xa hẳn các tâm khác? Vì sao Bồ tát đã tu tập các pháp của tâm mà không biết tâm ý?

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Chỉ ông mới hỏi được nghĩa này, đem lại nhiều lợi íchthành tựu cho chúng sanh. Nay Ta sẽ vì ông mà tuyên giảng nghĩa ấy. Đó là những hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát mà dù có trí tuệ vô biên, vô hạn lượng cũng không thể so lường được. Chính ông mới có thể khởi tâm ở trước Đức Như Lai mà rống tiếng sư tử. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy tư ghi nhớ pháp này.

Ngài Tối Thắng thưa:

- Con xin lắng nghe.

Đức Phật dạy:

- Bồ tát phát tâm cầu đạo Vô thượng trước tiên đoạn trừ vọng kiến về thân, tà giới, trộm cắp, trí phân biệt khổ, lập chí nguyện giữ đầy đủ cấm giới, mỗi ngày tự suy nghĩ về việc làm của mình, ưa muốn xa lìa pháp phàm tục. Do tánh năm ấm bất khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Huống gì ở trong pháp ngoại đạo mà nương vào sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức cầu mong độ chúng sanh.

Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát cũng không quán hành của năm ấm, cũng không quán hành của chúng sanh, cũng không thấy có người có thể độ. Giáo pháp vô ngôn chẳng phải là pháp hàng La hán, Bích chi Phật có thể lãnh hội được.

Lúc ấy Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, không từ vô quán hành của năm ấmđắc đạo, không từ vô quán hành của chúng sanhđắc đạo, vậy có thể từ bốn pháp cấm mà đắc đạo được chăng?

Đức Phật dạy:

- Chẳng được.

Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:

- Nếu không từ bốn pháp đó mà đắc đạo thì có thể từ Khôngđắc đạo chăng?

Đức Phật đáp:

- Chẳng được.

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:

- Chẳng từ Không, chẳng từ bốn pháp mà đắc đạo thì phải chăng hôm nay Đức Như Laichúng hội không thành tựu đạo Vô thượng, cũng không được quả báo?

Đức Phật dạy:

- Ta đã thành tựu đạo Vô thượng nhưng chỉ không trụ nơi tánh hữu, không trụ nơi tánh vô mà thành tựu Đẳng Chánh Giác.

Ngài Tối Thắng bạch Phật:

- Thế nào là sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức và pháp nội ngoại, pháp thiện ác, pháp hữu lậu, vô lậu; pháp hữu vi, vô vi: pháp danh hiệu mà Như Lai đã thuyết? Thế nào là dùng thể tánh của tên gọi, tư tưởng, văn tự truyền dạy cho tất cả chúng sanh?

Đức Phật dạy:

- Hành cũng vô danh lại không có niệm tưởng, không thấy vào ra hai chiều qua lại tuần hoàn cho nên có hiệu là Nhất thiết trí. Bồ tát thường phải dùng mười pháp để liễu tri Thập địa sự. Thế nào là pháp liễu tri Thập địa sự? Đó là dùng nghĩa của Khổ, Tập và nghĩa của Tập, Đạo, diệt tận không sanh tất cả biến nghĩa; tự biết nghĩa của thân mình và thân người; đối với sáu gốc tà và sáu mươi hai kiến đều biết là không, là vô nghĩa. Khi thực hành, Bồ tát phải trừ bỏ hữu tích và vô tích. Thế nào là trừ bỏ hữu tích và vô tích? Đạo là hữu tích, phi đạo là vô tích. Qua lại là hữu tích, không qua lại là vô tích. Bồ tát phải nhớ nghĩ tu tập các pháp trụ địa, phải tu tập nghĩa khổ, đoạn trừ lửa dâm dục, thuốc độc sân hận và gai ngu si; tâm từ bi trải rộng khắp bốn phương. Tuy có ý hướng thương xót nhưng không có tưởng cho rằng đã nhân từ bố thí. Hoàn toàn không vì bản thân mình mà bố thí cho tất cả chúng sanh, cũng không có tâm hối tiếc. Bố thí mà không thấy bố thí, không thấy có người nhận thí và vật thí. Bồ tát luôn khởi niệm lành tiếp độ tất cả chúng sanh, thường phải giữ tâm khiêm hạ, không sanh tâm cống cao. Khi nói pháp, Bồ tát không thấy có pháp mà khởi sanh trụ pháp, không có niệm tưởng pháp. Ngày xuất gia lìa xa ái dục, Bồ tát dùng pháp Không vô để đoạn trừ tâm luyến ái. Cầu mong thành tựu Phật đạokhông chấp vào tướng tốt, cũng không nghĩ rằng ta thành đạo trước, người kia ở sau ta. Nếu muốn giảng dạy giáo pháp thì hoàn toàn không làm sai lệch giáo pháp, không hủy phá giáo pháp, tinh tấn hướng đến quả chứng, không bị trần dục lôi kéo, tâm luôn nhớ nghĩ diệt trừ ý cống cao. Bồ tát tự thân không cầu quả báo pháp và tài vật quý giá, truyền pháp giảng dạy nhưng không nghĩ rằng có ngôn giáo, quán thân là Không như hư không, không có niệm tưởng. Đó là Bồ tát dùng Khổ trí để thành tựu địa tích thanh tịnh thứ nhất.

Lại nữa, Bồ tát lại theo nghĩa của Khổ, nghĩa của Tập mà tu tập trăm ngàn loại định. Nếu muốn đạt được Phật tâm định ý tam muội thì không dùng sắc tưởng, cũng không dùng các tướng tốt, cũng không dùng túc hạnh của mình để đạt trụ địa thứ nhất, cũng không mong cầu làm điều này để đạt điều kia, không trụ cũng không đắc cho là thường trụ. Trí đó không nhớ nghĩ quá khứ, không chấp trước tương lai, cũng không niệm tưởng đường sanh tử của thế gian hiện tại, không từ năm ấm, sáu suy mà chế phục các pháp đó, cũng không lìa năm ấm, sáu suy mà phải tư duy sáu pháp Không căn bổn. Sáu pháp Không căn bổn là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Từ đó khởi sanh, từ đó khởi diệt. Lại phải phân biệt sự hưng khởi của sáu suy, quán sát liễu tri pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc trơn láng; cũng không dùng kiến văn để suy tư biết pháp tâm, ý, thức thì đạt Nhất trụ địa thanh tịnh. Không theo pháp sanh diệt hư dối mà có tưởng hữu thường thì địa thứ nhất thanh tịnh. Không chánh, không tà, không tạo tác; tâm ý bình đẳng không có mong cầu, không phải là đúng cũng không phải là chẳng sai mà thanh tịnh trụ địa. Không theo một, hai, ba, bốn cho đến trăm ngàn loại định, cũng không lìa trăm ngàn loại định ý mà trụ địa thanh tịnh. Không do tâm ý mà thấy rõ các niệm trong ngoài, vọng tưởng về các việc phải trái, cũng không nương sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức mà trụ địa thanh tịnh; cũng không dùng giới, văn, định ý, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, pháp Thập phương vô sở hộ, Từ vô sở úy, mười tám pháp bổn trân quý của chư Phật; không thể dùng ý tưởng, tri kiến ngã tưởng hay vô ngã tưởng; không dùng pháp năm ấm, sáu suy, nơi chốn sanh diệt. Vô sở trụ cũng không phải không trụ. Đó gọi là Bồ tát trụ địa thanh tịnh thứ nhất. Bồ tát cũng không trụ trong ngôi nhà sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; lại cũng chẳng trụ ở pháp phát sanh do mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm vật trơn láng sanh ra. Vì sao? Vì không thể dùng mắt thấy để thấy các tướng, ngộ rõ pháp không khởi, không diệt, không có đầu mối, không có kết thúc. Đó gọi là Bồ tát sơ địa thanh tịnh địa trụ của mình. Bồ tát đều đã thành tựu đầy đủ đạo tuệ, viên mãn các pháp mà Như Lai đã ban bố không có khác biệt. Có bao nhiêu pháp ghi nhớ được đều có thể diễn giải, cũng có thể truyền trao, tụng đọc cho người khác; có thể gồm thâu tất cả tạng pháp thâm sâu của chư Phật.

Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát lại phải đầy đủ sáu pháp Ba la mật. Tâm xả ly hình sắc, không mong cầu, không sanh niệm chấp nhiễm ba pháp thì gọi là Thí ba la mật. Muốn biết nguyên nhân vì sao không niệm Phật thân mà đạt đến Bổn vô thì phải biết tu tập Giới ba la mật. Không tự nghĩ rằng ta được thành tựu ba mươi hai tướng, so sánh câu chữ giả hiệu của các pháp, tướng mạo không cùng tận, trụ bất khởi pháp nên gọi pháp đó là Nhẫn ba la mật. Tất cả các pháp thảy đều không quán hạnh, cũng không thấy, nghe, thực hành pháp của đạo sĩ. Thấy thiện không vui, gặp ác không buồn, ý không ràng buộc bởi bất cứ điều gì nên gọi là Tấn ba la mật. Tâm không khởi niệm, khởi lên thì loạn tưởng, tự giữ ý thức trong tịch tĩnh, vĩnh viễn ở trong định nên gọi là Thiền ba la mật. Hiểu rõ sắc tướng vốn Không; cũng không tự cao, tự ti hay tự đại, thông đạt tướng của các pháp vốn là một, cũng chẳng có một nên gọi là Trí ba la mật. Bồ tát lại dùng pháp phương tiện thích hợp với chúng sanh, tùy duyên dẹp trừ kiết sử phiền não. Do vậy, này Tối Thắng, Bồ tát phát tâm dùng Khổ thánh trí trụ hạnh sơ địa thì có thể đầy đủ các môn tam muội, các môn đà la ni, trí tuệ tự tại.

Lại nữa, Bồ tát còn đạt được mười ngàn tam muội trụ ở Dục giới, phải dùng quả Khổ trí, Đẳng trí phân biệt mười pháp: dục, hại, mạn, si, nghi ngờ, thân kiến, tà kiến, nội kiến, giới kiến, dâm kiến. Đã biết rõ rồi, Bồ tát không trừ, không tận, cũng không để cho chúng khởi sanh. Bồ tát lại dùng Khổ trí, Đẳng trí ở cõi hữu hình, vô hình quán chiếu rõ mười tám loại gốc kiết sử. Tuy phân biệt kiết sử nhưng không tận trừ.

Này Tối Thắng, ông nên biết bậc Bồ tát sơ học phát tâm lại dùng Tập nghĩa, Đẳng nghĩa, ở trong chánh định trụ ở Dục giới, cõi hữu hình hay vô hình, tư duy về tai họa, bệnh tật đau đớn của mười chín pháp oán đối, và các ý nghĩa của phiền não, lậu hoặc cần đoạn dứt. Bồ tát lại ở trong ba cõi quán sát mười chín pháp mê mờ sai lạc, đọa ở tam xứ có hai mươi hai pháp, cũng phải tư duy ba mươi bốn pháp vô lậu, Phật tâm cùng các công đức đều được thành tựu. Quán vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) đều biết rõ là bất nhị. Đó chính là Bồ tát trụ ở Nhất địa thanh tịnh hạnh của mình.

 

 

 

Phẩm 2: LƯU HÓA

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật, thưa:

- Bồ tát ở nhị địa phải như thế nào mới đầy đủ công hạnh, quả đạt được đều đúng như nguyện không sai lạc?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bồ tát ở nhị địa luôn phải tư duy, nhớ giữ giới thanh tịnh của mình, suy tư về ân nặng đó, siêng năng tu tập nhẫn nhục, khiêm cung với kẻ dưới, luôn giữ tâm hoan hỷ, cười trước nói sau, thực hành tâm đại từ bi, hiếu thuận với sư trưởng, trọn lòng tin Tam bảo, tôn sùng trau dồi diệu tuệ, không sanh nhiễm trước chấp có thường còn. Kẻ chấp thường thì cho rầng nghiệp sanh tử vốn là lẽ thường của đạo. Thường đạo thì chẳng phải là tôn quý. Nếu tôn quý thì phải hiện ra những việc phi thường, đó mới gọi là tôn quý. Tôn quý đã chẳng phải là tôn quý thì làm sao gọi là đạo tôn quý? Do vậy, này Tối Thắng, Bồ tát hiểu rõ đạo thì không thấy có tôn quý hay thấp hèn, cũng không thấy có hình tướng. Hư không do thường còn nên nói là có hình chất. Danh hiệu chơn đạo không thể nhìn thấy được. Tâm ấy thản nhiên không gì trói buộc, công đức nghiệp đã tu tập không xa lìa chư Phật, không hề ở trong đạo mà bị đoạn tuyệt. Tất cả các ác đều trừ sạch. Tâm Bồ tát luôn ở trong chánh định, không hề chuyển động, chí như kim cương, không có bạn lữ. Bồ tát biết căn bổn của tất cả pháp, đã trừ các cấu nhiễm, tiêu diệt ám chướng, không pháp giải thoát nào mà không thấu tỏ. Tâm ý luôn chất trực, không hề siểm nịnh, tánh hạnh bình đẳng không có ý tranh hơn thua. Đã phát tâm rồi thì luôn nhớ mãi, do vốn thanh tịnh nên được rời xa các cấu uế, tắm gội trong nước mát chốn vực sâu, gột trừ các uế trược. Đức tin kiên cố, không gì có thể làm xao động. Tâm thí rộng lớn vô hạn lượng, tâm như hư không không có chỗ tận cùng, thâu nhận đến hàng hạ liệt, nuôi dưỡng, độ thoát cho họ. Cho nên bậc có tâm như vậy thì trí tuệ thuần thục, không gì có thể làm chướng ngại. Chỗ quy về của tâm, không chỗ nào là không rõ. Đức đại bi vô cùng là kho chứa vô tận. Bồ tát có thức biện tài nhưng luôn giữ tâm xấu hổ, kiên trì tu tập, tâm không xao động. Có năng lực giác ngộ đạo pháp, không pháp nào không thể thâm nhập. Biện tài vượt chúng, không ai không kính ngưỡng, được các pháp Tổng trì mà không quên mất. Lúc đầu không vội thuyết pháptrụ tâm trong trăm, ngàn loại định, xuất định không còn nghi ngờ, nghe pháp thiện ác không nghĩ đến buồn vui, không cống cao tự kiêu mà cũng không tự ti. Đi đứng nghiêm trang không mất oai nghi. Hiểu rõ mười hai hành và năm ấm bị sự tác động của sáu suy. Dùng Khổ, Tập, Tận, Đạo phân biệt mười hai duyên khởi, biết rõ vô minh (si), hành… đều là không thật, quán sát năm căn suy lường quán triệt, không còn qua lại chốn sanh tử dơ uế. Do vậy Bồ tát dùng tám mươi bổn môn trí tuệ tiêu diệt các lậu, phát thệ nguyện lưu hóa thân một kiếp để giáo hóa. Như thân của Ta hiện nay sắp nhập Niết bàn Vô dư nhưng không phải vĩnh viễn diệt độ mà lưu lại hóa thân, có vô số bậc Hiền trí vây quanh để nghe pháp vi diệu.

Tối Thắng nên biết, trong Hiền kiếp, cách đây mười ba ức hằng hà sa Phật độ về phương Bắc, có thế giới tên là Bất Động Chuyển, Đức Phật hiệu là Chiếu Ý Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện nay đang nói pháp Bất động chuyển giới. Thế giới đó không có tên Thanh văn, Duyên giác, chỉ thuần là các bậc lên đến địa vị hành giả Đại thừa bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, dùng trí tuệ thần thông để tự vui, trí tuệ vô vực thông đạt toàn thân, tùy thời phân biệt chương cú diệu pháp; tâm từ, bi, hỷ, nộ (xả) bình đẳng như hư không, quán chúng sanh biết trước chí tánh của họ, tuôn mưa cam lộvô lượng pháp vị, người nào uống rồi không còn giận hờn. Thực hành ba môn tam muội: không, vô tướng, vô nguyện, đứng trên bờ giải thoát dẹp trừ sanh tử, quét sạch bụi ma oán độc trong tâm. Thần lực của Đức Phật ấy cảm ứng hóa hiện khắp vô lượng cõi Phật. Người nghe lời dạy không biết là hóa thân Phật đều cho là chơn thân của Phật.

Trong quá khứ, hằng hà sa các Đức Phật Thế Tôn đều lưu lại hóa thân tiếp độ chúng sanh để họ được giải thoát. Do vậy, hình tướng biến hóa ẩn hiện của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Các Đức Phật trong tương lai như Đức Từ Thị, mỗi vị cũng có hóa thân Phật để khai đạo chúng sanh. Ta tuy diệt độ nhưng hóa thân Phật của Ta không hề diệt độ. Cho nên, này Tối Thắng, hóa cũng là không hóa, Phật cũng là không Phật, hiểu rõ như vậy là giác ngộ không tịch. Lại nữa, cũng không có hai, ba hay vô số tướng. Hàng nhị địa Bồ tát phải luôn tu tập pháp ảo hóa, quán chiếu thật rõ thang bậc trí tuệ, thang bậc tín tâm, thấy địa vị liền dẹp trừ địa vị thì thành tựu địa vị rốt ráo. Địa vị của hàng Thanh văn, Duyên giác tuy trị được bệnh nhưng không chấp thủ địa vị ấy.

Này Tối Thắng, giả sử hàng nhị trụ Bồ tát muốn đạt được quả vị chứng đắc của Thanh văn, Duyên giác thì thật không khó. Ví như có người tay cầm vòng hoahạt ngọc minh nguyệt ném lên hư không thì khi chúng chưa rơi xuống đất, trong khoảng thời gian đó, Bồ tát đoạn kết trừ cấu, diệt hoàn toàn các lậu, không còn nỗi khổ sanh, già, chết, sầu lo. Tuy Bồ tát biết đã đoạn trừ mọi trói buộc nhưng vẫn không chấp thủ quả chứng đắc. Cho nên những bậc như thế chưa quán sát tâm bậc thượng, trung, hạ của chúng sanh thì giữ tâm kiên cố luôn trụ nơi cứu cánh mà là hưng khởi mây giải thoát, giáo trí tuệ; nổi lên sấm sét, tuôn mưa thuốc cam lộ, tuyên nói Pháp bảo chơn đế, không đoạn ba nghiệp, ý niệm vắng lặng như nước trong sạch, luôn dùng cấm giới để tự trang nghiêm, lại dùng các đức hạnh để trang điểm cho tân, tôn thờ đạo giác ngộ vi diệu của chư Hiền Thánh đến tận lúc tối hậu thân nhất sanh bổ xứ. Bồ tát hiểu rõ bổn nghiệp đã tạo của chư Phật hiện tại, hiểu rõ các pháp Tổng trì đều không chỗ nương thì trước khởi ý niệm làm nghiêm tịnh đạo tràng, lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm An ban. Ở trong chúng khó điều phục thì điều phục không sợ hãi, tâm dũng mãnh nên được tự tại, phát tâm chí thành thật đáng kính. Vì các chúng sanh mà nói pháp hỷ lạc, tâm ấy đáng tôn kính, siêu việt mọi loài. Nếu có thể ngộ rõ tướng của Không vô thì kỹ thuật của ngoại đạo nào có thể vượt qua. Đó là điều hàng Thanh văn, Duyên giác luôn tôn kính.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Hàng nhị địa Bồ tát biết được bổn vô thì xa lìa được thân hành, bỏ lỗi lầm của miệng, trừ loạn niệm của ý, tiêu diệt tam uế, ngăn chặn tam tai, phủ che năm ấm lạnh lẽo, tìm kiếm gốc si hành của mười hai (nhân duyên) và năm kiết sử thượng phần và hạ phần phân ra khắp ba cõi. Do dần trừ bỏ nên khiến chúng không còn tăng thêm. Tư duy về mười một loại bệnh khổ não, trừ bỏ các bệnh chấp trước nặng nề của bốn đại, phân biệt vật chất là pháp ác, phải tránh xa gia nghiệp, rời bỏ tập quán thế gian, đoạn trừ ái dục, sân hận, tham cấu. Các căn của Bồ tát thanh tịnh không bị kiết sử lôi cuốn, thường nhớ nghĩ tư duy vô ngã tưởng, giữ tứ tín kiên cố, trụ bốn ý chỉ, thành tựu bốn ý đoạn, tuyên bố năm căn, bày rõ năm lực, chí không khuyết giảm; hiểu rõ bảy giác chi, kho tàng của các báu; tu hành tám chánh đạo của Hiền thánh, không hề buông bỏ tám điều của bậc đại nhân. Như thế, này Tối Thắng, hàng nhị địa Bồ tát giữ gìn tâm, điều phục ý, không biết bao nhiêu niệm đều giác ngộ là Không, không phải chơn thật cho đến đạt được địa vị ở trên, nhận thọ ký Bồ tát vị vẫn tinh tấn tu tập bất động, cũng không lìa bỏ việc tu hành. Học đạt đến bậc thượng trí, tuy tôn quý nhưng ý không hề sanh cống cao, quán sát biết rõ các pháp, thấy một pháp không sanh tưởng chấp có hai, ba pháp; cũng không khởi tưởng vô ích, không có tưởng hữu biên, tưởng vô biên, tưởng hữu biên vô biên, hiểu rõ tưởng vô biên mà không trụ vô, tư duy chánh giác thanh tịnh thì chư Phật cũng thanh tịnh, khéo điều tâm chánh trụ không tà. Đối với thiện ác đều bình đẳng, biết rõ đều là Không. Không đó không nghi ngại, cũng không thấy có tranh hay không tranh, có quán hay không quán. Bổn vô là một, cũng không thấy một, biết một trừ một, không trụ ở một, lại không theo một mà khởi các tưởng. Bình đẳng với Tập và vô Tập, ý vượt hữu hạn, cũng không thấy có pháp hữu hạn, có vượt qua, có nương tựa; không thấy tâm tán loạn vượt ra khỏi nội ngoại pháp. Khéo phòng giữ thức trong định không động. Tuy ở trong tam hữukhông chấp trước tam hữu. Quán sát thật kỹ các tánh, hiểu rõ chúng không có nguồn gốc. Bồ tát biết được vô căn nên được gọi là Bồ tát trụ nhị địa thanh tịnh. Bồ tát tự kiểm tâm, quán nguồn cội các pháp đều là vô thường. Khi vô thường đến thì không thấy xuất sanh, không có thiện hay bất thiện và các danh từ tốt hay xấu như lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Điều phục tâm không còn ưu não, ở ngay tâm ấy khai mở đại pháp tạng, đi vào đại pháp hải, nghĩ cầu thật tuệ, ngâm nấu tam ái, khéo chế phục tứ lưu, tu lục trọng pháp, thành tựu quả chứng.

Này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ đầy đủ các pháp như vậy rồi, biết không hình mạo nên không thể thấy. Đó gọi là bậc nhị địa tu học thanh tịnh.

 

 

 

Phẩm 3: QUÁN KHÔNG

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Bồ tát ở bậc tam địa phải thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

Đức Thế Tôn dạy:

- Bậc Bồ tát tinh tấn học tập mà không có xuất nhập niệm. Tuy học nhiều nhưng việc tham vấn không bao giờ cho là đủ, không ham muốn học hỏi thể văn câu cú, từ ngữ hoa mỹ; truyền bá giáo pháp nhưng với mọi người luôn luôn khiêm hạ, quản lý chăm lo việc nước nhưng không bị niệm tưởng về việc nước buộc ràng, làm các nghiệp thiện mà không cống cao, giữ gìn niệm tâm phát khởi đầu tiên khiến cho không để dứt mất, thành tựu đức nguyện, chí như núi An minh, quán sát chúng sanh, nói pháp hỷ lạc. Bồ tát từ lúc mới phát tâm đã vì gốc đạo, do vậy nên đạt được đạo quả mãi mãi vắng lặng, tâm niệm bố thí rộng rãi trải khắp nơi, phát nguyện lập chí giữ giới trọn vẹn, phát tâm tinh cần tu tập không lười biếng, không lấy gì làm hỷ lạc, chỉ lấy đạo là nhiệm vụ phải tu tập. Với người không có chỗ nương tựa thì chỉ đường cho họ. Do phân biệt pháp đại trí nên từ khi mới phát tâm vĩnh viễn không chỗ trụ. Do dùng tâm đại bi nên không thể thấy. Mong nhổ tận gốc (phiền não), lập chí hạnh Đại thừa nên khởi tâm thương xót người chưa được độ. Khi thấy người đã được độ thì phải vui mừng, giữ tâm bình đẳng đối với chúng sanh. Dù gặp khổ hay vui cũng không dao động, tương trợ tất cả dẫn họ vào cửa đạo. Được các Đức Như Lai hiện thân phò trì, nhớ nghĩ thuận theo lời dạy của mười phương chư Phật, phải độ tất cả nạn của năm đường, làm phát triển đạo, không làm tổn hại Tam bảo, không trái nghịch thì thành tựu đạo quả. Thuận theo cấm giới làm bậc mô phạm cho chúng sanh, tuyên dương trí tuệ Pháp bảo vô tận. Giống như hư không không có chỗ tận cùng, Nhất thiết trí kia cũng không tận cùng. Tâm thức của Như Lai cũng như vậy, không có sanh diệt, sự ràng buộc của sanh và diệt đều đã đoạn trừ, định tâm tam muội trí tuệ giải thoát, vượt qua tri kiến về thân vô hữu, gần xa đều không thể thấy.

Tối Thắng nên biết, tất cả pháp yếu thậm thâm của chư Phật cũng không thể tận, không có đầu mối, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai hợp tan không gì có thể thấy có sự tập hợp, có sự tác thành rồi lại tan mất, biến đổi khác hẳn, đều chẳng phải do bốn đại tạo ra. Đất, nước, gió, lửa cũng không có đối tượng và cũng không thể thấy. Dùng trí tuệ phân biệttâm hành của chúng sanh, chẳng đoạn bốn nguyện bất khả tư nghị, tất cả đều không có chỗ sanh cũng không phải lờ mờ không rõ. Tất cả các pháp tìm hiểu đều không thể biết. Do đó mà nói không có chỗ sanh, lại cũng chẳng có pháp nào có thể có sanh. Sanh đã vô sanh thì pháp nào gọi là sanh. Do vậy, này Tối Thắng, phát Bồ đề tâm không có chỗ tận cùng, không khởi tâm tưởng hình tướng các pháp, cũng không dối trá vọng tưởng các pháp. Tâm Bồ tát chánh trực, là đặc thù trong các tâm. Pháp tu tư duy tâm chính là pháp tự quán thân mình, quán thân người khác đều là không tịch, không sanh niệm tưởng. Quán thân vô nhiễm nên bất khả đắc, cũng không trao nhận, phân biệt là một. Đi, đứng luôn quán sát các loại hình thể đã thọ của ba cõi đều do si nên mới nhận lãnh các khổ não. Liễu tri pháp bất nhị nên bất khả đắc, tâm niệm khổ não, thực hành pháp thấy bên trong, bên ngoài đều là không tịch, không có sanh diệt.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc tinh tấn học đạo Bồ tát quán niệm hơi thở ra vào dài ngắn, nhanh chậm. Các lỗ chân lông trên thân khi hơi thở thổi qua mà không hiểu rõ như thế nào. Hơi thở ra ấm mà hít vào lạnh thì biết sự tịch tĩnh đó đều là không chơn thật. Bồ tát quán thân, phân biệt thức cũng không có xứ sở vì tâm thanh tịnh, chánh định không tà niệm. Tâm ấy nhu nhuyến, không gợn niệm trần, trọn tin pháp yếu giải thoát chưa từng thay đổi, chí luôn kiên cố không động chuyển thì không thể do yêu ghét mà sanh tâm nhiễu hại. Vì sao? Theo hạnh đó thì không thể có tâm thành tựu. Nếu đã thành tựu thì không phỉ báng, lấy gì để nói là không nguồn gốc, không tội lỗi. Tâm cấu đã hết, nguyện cho pháp luân thường chuyển ở thế gian, khiến mọi người đều được trí tuệ vi diệu, soi sáng chốn tối tăm như mặt trời hiện mây tan. Lập đạo vốn phải tự quán vô ngã, không có chỗ sanh. Các pháp trong ngoài đều như vậy, cũng không thấy pháp khởi diệt của các đường sanh tử, cho đến La hán, Duyên giácPhật vị đều không thấy nghe. Người có hữu tưởng kiến là phi kiến (nhận thức sai lầm), không có đối tượng sở kiến thì tất cả (cái thấy) đều thanh tịnh, không dừng trụ tâm ở niệm tưởng tịnh thì chính là phi tưởng. Đó là không kiến, là vô sở kiến.

Lại nữa, này Tối Thắng, tâm không ở trong cũng không ở ngoài, không ở trong đạo pháp cũng không trụ ở thế gian, không trụ ở hữu cũng không trụ ở vô, không thấy chỗ dao động sanh diệt. Tâm không bờ vách, khoảng khoát không đáy, cũng không có mảy may âm hưởng. Như vậy, này Tối Thắng, cần phải quán niệm về pháp quán niệm mà không có đối tượng quán như thế, cần phải thấy về cái thấy mà không có đối tượng của sự thấy như thế thì tu tập hạnh Bồ tát là Không, là diệt, là vô sở hữu. Bậc Bồ tát trụ tam địa dùng các pháp định khiến tâm ý chuyên cần, kiểm soát niệm thành thanh tịnh. Tu tập kiểm soát tâm như vậy là hợp với Niết bàn, tương ưng với vô sở sanh. Pháp đó chẳng phải là pháp vô, cũng chẳng phải là pháp chẳng phải vô. Do danh tự mà tạm gọi là Pháp tánh. Giác ngộ pháp tánh thì không thì không còn theo nhân duyên quá khứ, ý thông tỏ rõ ràng, tu tập dứt trừ pháp bi thương của thế gian. Pháp ác chưa sanh thì tinh tấn điều phục, chế ngự khiến chúng không khởi lên. Pháp ác đã sanh thì điều phục ý khiến đoạn dứt. Pháp thiện chưa sanh thì tinh tấn làm cho phát sanh. Pháp thiện đã sanh thì làm cho tăng trưởng, không để mất.

Bậc Bồ tát tam trụ tu tập định thần túc được sự hỷ lạc từ quá trình tu tập định chỉ. Thần túc ấy luôn giữ gìn cho thân và tâm ý. Bồ tát dùng tinh tấn định trừ bỏ các việc ác đã làm. Thần túc lại cũng thường giữ gìn thân tâm. Bồ tát dùng định ý trừ diệt các nghiệp đã làm, thâu nhiếp thần túc giữ gìn thân tâm. Bồ tát dùng trí tuệ trừ bỏ các nghiệp đã làm, thâu nhiếp thần túc đó cũng để giữ gìn thân tâm. Bồ tát dần dần tu tập tín căn, tinh tấn căn, ý căn, niệm căn, định căn, tuệ căn liền được thể nhập pháp yếu. Phật pháp không tận cùng, không người, không ta, không có nhân duyên cũng không triền phược. Người yêu thích sự hiện hữu thường chấp cho rằng phải đoạn trừ nỗi khổ sanh tử. Tất cả đều không dấu tích mà nhiều người lại nương tựa, đặt ra tên gọi ở vô số đời. Hành lại tích tập, ưu não theo đó phát sinh như bóng theo hình không khi nào dứt. Như vết bánh xe phụ thuộc theo bánh xe, chẳng biết khi nào cong, khi nào thẳng, tu tập định cũng không nương tựa, chánh quán về pháp vô chấp. Tham đã tận, tưởng đã diệt, kết đã mở thì được thanh tịnh. Với hành không cảm, ý không ưu loạn, đoạn trừ già bệnh không còn qua lại. Mắt tuệ sáng tỏ chiếu khắp thế nhân, phá bỏ mười hai nhân duyên, không điểm nào trí tuệ còn mê mờ.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Bồ tát lại phải tu tập công đức thần lực. Người có thần lực là bậc chẳng thể nào sức oai thần của thiên ma, ngoại đạo phá hoại, xâm hại. Tín lực, tinh tấn lực, ý lực, định lựctuệ lực là mẹ của bậc tu hành Bồ tát hạnh. Sau đó phải dần dần tinh cần, tu tập Thất giác ý hoa. Dùng Giác ý hoa tu tập mười lăm tâm, đoạn trừ tâm bỏn sẻn, xan lận che lấp dấu tích Bồ tát đạo, thành tựu trí tuệ thâm diệu không thối chuyển. Pháp Giác ý hoa vô vi, vô tác trừ bỏ hạnh ác, bất thiện cùng Tinh tấn giác hoa hợp thành giới ngăn chặn giải đãi; khi có phóng dật thì ngăn chặn để nó không khởi lên. Hoan duyệt giác hoa ứng với bậc tam thiền, nhiếp các loạn tưởng, tịch tĩnh vô vi. Do Tín giác hoa nên không bị tham trước, quán rõ các pháp không sở tập. Do Tín giác hoa nên tâm chí vị ấy kiên cố, lời nói nhã nhặn, rõ ràng thông suốt, không có hối hận, e dè. Bồ tát cũng phải tư duy về Vô trước giác hoa, dứt trừ một trăm lẻ tám tâm nhiễm trước lầm lỗi. Bồ tát lại phải tu tập Bát Hiền thánh đạo là đẳng niệm, đẳng định, đẳng ngữ, đẳng hành, đẳng nghiệp tập, đẳng ý, đẳng định; vượt qua tám nạn và sáu suy. Bồ tát lại phân biệt pháp Tam tam muội. Tu tập đầy đủ các hạnh đó thì được gọi là Tam ma địa thanh tịnh.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ tu tập Tuệ môn, tư duy về Không, chẳng có gì không thể thấy được, không có tưởng về hình tướng thì có tướng cũng như không tướng. Khi nói pháp cho người thì luôn dùng lời chơn chánh, trung thực, chí thành; tuyệt đối không nói lời sai lạc khiến người sanh nghi ngờ, thất vọng. Bồ tát không mong cầu danh xưng nên được mọi người khen ngợi, cùng nhau đến tôn phụng cúng dường. Nếu Bồ tát có làm việc gì thì đều không vì mình, trước tiên mong cầu người khác bình an, sau đó mới lo cho mình. Do vậy nên tự thân đạt đến chỗ an ổn. Công đức tu thí đã làm không bao giờ nghĩ nhàm chán. Khi bố thí cho người khốn khổ, không bao giờ cho là đủ, vì để cải hóa tất cả chúng sanh vậy. Bồ tát dùng tâm đại từ trừ sạch già chết, làm cho kẻ biếng lười khởi tâm tinh tấn. Bồ tát muốn nuôi dưỡng các loại chúng sanh thì luôn phải tự nghĩ: “Ta nhờ chúng sanh nên mới đạt được đạo quả, các công đức nghiệp cũng được đầy đủ. Ta phải dốc hết sức lực vì chúng sanh mà không mong cầu quả báo”. Những bậc như vậy do tâm thanh tịnh đã thấm nhuần mưa pháp nên không mong cầu gì ở người đời. Nếu có mong cầu thì cũng không vì lợi dưỡng. Dùng tuệ lực đó, Bồ tát đạt được tất cả pháp, nguyện khiến cho chúng sanh, mỗi người nơi chỗ mình ở đều được an ổn; làm cho ba cõi thượng, trung, hạ đều không còn oán hận. Việc làm của các vị ấy đều để làm cho chúng sanh an ổn, thấu tỏ chơn lý. Cho nên Bồ tát là bậc không ai có thể chế ngự, là bậc không ai có thể làm ngưng đoạn.

Như vậy, này Tối Thắng, thệ nguyện rộng lớn thuở xưa của Bồ tát thật khó lường. Trí tuệ vô biên của các vị ấy không cùng tận. Như vàng cõi trời không có tạp chất; cũng vậy, dụng hạnh của các Bồ tát không có chỗ cấu uế, dứt trừ phiền não trần lao, vĩnh viễn không tham dục, không thể nào có ác tâm trỗi dậy làm loạn. Lại nữa, tâm ý Bồ tát dõng mãnh không bị niệm ác bao phủ khiến ôm ấp niệm tà, cũng không phát sinh tâm sân hại, ngu si và tâm tham chấp sở hữu, vượt qua năm dục cống cao tự đại, những gì không nên làm đều đã tận trừ. Bậc Bồ tát tam trụ thường đạt được tâm ấy, quán chiếu nội pháp nhưng không thấy có đối tượng để thấy, cũng không có hình tướng. Nếu có tướng thì tức là hủy hoại pháp tánh. Bồ tát buông bỏ gánh nặng các cấu trược, phải kiên trì giữ tâm đó không được giải đãi, suy tầm tâm ấy, tất cả đều không nương trụ nơi nào mà cũng không thấy có vô số niệm tưởng. Với kẻ có tâm rối loạn thì khiến tâm họ định tĩnh. Với người không trí tuệ thì bồi dưỡng để họ có trí tuệ. Tóm lại, với chúng hữu tình phải thọ nhận thân này hoặc có công đức, hoặc không có công đức, Bồ tát đều muốn độ họ được giải thoát đến với đạo Đại thừa, suy tư theo Đại thừa cũng không chấp trước suy tư đó. Bồ tát giáo huấn chúng sanh thực hành pháp đó khiến tất cả họ có chí kiên cố, rồi trụ tam địa thanh tịnh, thành tựu đạo quả. Bồ tát ở chỗ nguy nan đều thành tựu công đức vô cực (Ba la mật). Dù đạt được trí tuệ biết được báo ứng vô sở hữu, tâm Bồ tát vẫn như vậy, vĩnh viễn không thể thấy. Cho nên những bậc áy có thể dùng trí tuệ quán biết không có quá khứ, vị lai, hiện tại.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát thường học tập tâm đại từ, nếu có khổ nạn tự mình gánh chịu để mong cứu độ, bảo toàn thân mạng cho chúng sanh, thà táng thân mất mạng cũng nguyện nhận lãnh khổ não, cấp thiết độ người không quên lời trọng nguyện. Bồ tát thực hành tâm từ bình đẳng như thế. Nếu có lợi ích không vì thế mà vui mừng, bị chửi mắng không có tâm sầu não. Đó chính là Bồ tát tùy thờithực hành tâm từ. Người tu tập tâm từ luôn vì thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý; trọn đời không truyền bá điều ác cũng không suy nghĩ tà quấy. Dù một mình ở giữa cõi trần lai ngu si cũng không sợ hãi, không tự đại; không quên bỏ pháp đã học. Trí tuệ vi diệu thông đạt tất cả pháp của chư Phật. Theo nguyện cầu của người, không trái nghịch với tâm của họ.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo ngài Tối Thắng:

- Xưa kia, Ta đến các nơi tham học, trụ tam địa thanh tịnh các cấu uế, công đức viên mãn. Chúng cùng theo học đông không kể xiết. Trong số đó, những người theo sau Ta tâm thối chuyển không thể nói cho hết. Ta từ nhất trụ địa đến tam trụ địa phát khởi tâm hoằng thệ không thay đổi. Ở trong pháp đó, công đức đã tạo cũng không thể lường. Ta đã xả bỏ tất cả châu báu quý hiếm, quốc gia, tài sản, vợ con không thể kể xiết, chỉ để nguyện bố thí cho những người cần chúng, như bố thí chín ngàn chín trăm chín mươi chín cái đầu. Cuối cùng Ta gặp một con cọp gầy ốm đang kiệt lực. Trong cơn đói khát nguy cấp, nó muốn bắt con vật khác để ăn nhưng không thể nào làm được nên muốn ăn thịt con mình để bảo toàn mạng sống. Nó gượng sức giương vuốt toan vồ đứa con. Ta cùng Từ Thị và Nhu Thuận là bạn. Ta nhìn hai vị ấy, bảo: “Nay đã đúng lúc, ai có tâm kiên cố dũng mãnh tự dùng thân bố thí cho cọp ăn?”. Cả hai, mỗi người tự quay lại nhìn nhau, miệng tuy không nói mà tâm đã thoái chuyển. Ta quán sát biết họ có tâm lui thoái nên ở trên đỉnh núi lao mình xuống hang sâu. Trời Thủ Đà Hội hiện thân xuống nâng đỡ, hóa làm chiếc giường cam lộ để thân Ta nằm. Con cọp đói cũng được no đủ, mẹ con đều bình an. Ta cũng không bị thương tổn. Tính luôn thân đó là đủ một vạn cái đầu. Do vậy, này Tối Thắng, Bồ tát tinh tấn tu học thành tựu Tam ma địa phải không có tâm thoái chuyển, không kiên cố. Giả sử thân Ta rơi vào miệng cọp, cọp cũng không ăn, cũng không đến gần. Vì sao? Bởi vì Ta đã lập công đức sâu dày nên có được thần lực tự tại với tất cả pháp, tu tập sám hối chưa từng có tâm che giấu, dùng vô lượng việc bố thí để khuyến trợ công đức. Bồ tát tu học, truyền giảng đạo nghĩa, thuận theo pháp tu tập khuyên chúng sanh học đạo theo pháp của bậc Đại sĩ. Tâm của Bồ tát kiên cố, không rời hoằng thệ, công đức đạt đến vô cực, dùng đó để tự trang nghiêm.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc tấn học Bồ tát tu tập tam địa luôn phải chuyên tâm không để thay đổi, không lấy sở kiến làm động tâm chúng sanh. Với các trần lao phiền não luôn biết tránh xa. Với bản thân thì biết đủ, không cầu lợi dưỡng, tâm vướng mắc chấp trước; không cầu địa vị cao sang quyền quý giàu có, làm cho tất cả mọi người tu tập pháp chơn thật, mở bày trí tuệ tối thượng khiến cho mọi chúng sanh đều đạt được cái thấy căn bản: người và ta không phải một nhưng vốn không khác biệt. Bồ tát tùy theo nhân duyênhiển bày ý đó, không dùng pháp sanh, pháp chẳng phải không có sanh, pháp vô sanh, pháp bất sanh để thanh tịnh địa của mình cho nên không có Hoặc, rốt ráo không có Hoặc. Hoặc phát sinh trần lao nên gọi là Hoặc. Với Hoặc không thấy Hoặc, không có Hoặc, chẳng có Hoặc, biết rõ ràng sâu sắc đến vi tế hoặc thì chính là ứng hợp với chơn không.

Như vậy, này Tối Thắng, con đường tu tập của Bồ tátphân biệt lý Không vô đưa đến nhập pháp, độ cho tất cả chúng sanh loại khổ đau đến an lạc. Này Tối Thắng, đó gọi là bậc Tấn học Bồ tát trụ tam địa thanh tịnh hạnh của mình.

 

 

 

Phẩm 4: SẮC NHẬP

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật, thưa:

- Thế nào là bậc Sanh quý Bồ tát ở tứ địa thanh tịnh hạnh của mình?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc Sanh quý Bồ tát ở tứ địa luôn phải không bao giờ rời bỏ việc thọ trì pháp của bậc chơn nhân, giữ tâm ý tri túc cũng không tham trước, không rời bỏ mười hai pháp yếu khổ hạnh, giữ gìn giới cấm như phòng rắn độc, thấy ái dục nhơ uế như bị lửa đốt thiêu, trừ bỏ tâm ái dục cũng không để nó phát sinh. Khi dạy chúng phải khởi tâm quán tưởng như Niết bàn, giảng giải những điều mình thông tỏ, không tiếc thân mạng. Không khởi tâm khinh mạn, cống cao, tự đại đối với chúng, không mê thích sở hữu cũng không có tam ngại, tu hành pháp tâm thức của bậc Khai sĩ. Ở trong đại chúng suy nghĩ thực hành pháp thí, dạy bảo chúng sanh không khác với sở nguyện của mình. Bồ tát tích công bồi đức là vô thượng đạo, một mình tu tập ở chốn rừng sâu nhàn tịnh, vật sở hữu chẳng có gì chỉ cầu biết đủ mà thôi, thực hành các công đức mà không chán đủ, học rộng hiểu nhiều mà không khi nào cảm thấy mỏi mệt, dùng trí tuệ diễn giảng không cho là mệt nhọc, quán sát trong thân, tư duy gốc ngọn, trí tuệ thẩm suy thông đạt đầy đủ các niệm, xa lìa các điều ác, tu hành giải thoát môn; môn giải thoát đó là để dạy Bồ tát. Thông suốt các pháp bổn, suy tư pháp vi diệu, phải phân biệt tướng thành bại của năm ấm, quán tri bốn đại: đất, nước, lửa, gió; thấu tỏ những pháp căn bản làm khởi lên sáu suy. Mười hai nhân duyên rộng không bờ mé, sanh tử biến đổi không thể tận cùng, giảng nói về nỗi khổ để can ngăn chúng sanh, khuyên họ ghi nhớ không quên, không tính toán thọ mạng của ta hay người dài ngắn, yên lặng vô vi tu tập phi thường nghiệp, giải ngộ tất cả đều là hư giả không thật.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc tứ trụ Bồ tát phải bảo hộ cho người theo Phật, với tâm phân biệt đạo tục thì đều không thể thấy. Trí hạnh của Bồ tát không thể tận, làm tất cả việc công đức, chỉnh đốn dạy bảo cho người trong nước, tùy theo thứ lớp mà có chỗ thành tựu. Biển tuệ không bờ, cảm thọ không chán dành hết để cứu độ tất cả chúng sanh. Công đức tu hành của Bồ tát luôn đứng đầu, tối tôn tối thượng không ai có thể theo kịp, niệm pháp Tổng trì nhớ mãi không quên, làm cho mỗi chúng sanh đều đạt được gốc thiện không khuyết giảm. Vì sao như vậy? Do Bồ tát dùng pháp tôn quý nên được xa lìa duyên trói buộc. Do thọ pháp như thế nên Bồ tát quyết định đi vào địa vị của bậc Chánh sĩ, cũng do tâm ý chuyên cần không thoái chuyển nên Bồ tát tự đạt được đầy đủ thánh nghiệp vô thượng, thành tựu sở nguyện nhưng cũng chẳng thấy có thành tựu. Nếu thấy có thành tựu tức là chẳng thành tựu. Việc tu hành của Bồ tát mãi mãi không thể thấy. Tu tập tâm định đó thâu nhiếp, thông tỏ các pháp; các hạnh đã làm không để lui sụt. Điều phục tâm ý là đạo nghiệp của Bồ tát, tu hành tự giữ gìn vô số tưởng. Vì sao như vậy? Chính là lìa các ác, không làm theo, tinh cần thực hành bố thí phước điền an lạc. Bồ tát phát tâm đối với tất cả chúng sanh không dùng thân tâmtham ái, chỉ dùng thuần nhất tâm thương yêu tăng thượng vô cùng vi diệu. Bồ tát chuyên chú tinh cần vâng giữ giới pháp như giữ đôi mắt, dạy người phạm giới khiến họ không làm ác. Bồ tát cũng phải tinh cần tu hành nhẫn nhục; thường thì tu hạnh nhẫn rất khó. Bồ tát tuy ở địa vị tôn quý giàu có an vui nhưng không khinh người nghèo đói.

Như vậy, này Tối Thắng, nhẫn nhục là khó. Tu tập tinh tấn cũng khó đạt thành. Ngồi dưới cội Phật thọ, thân thẳng tâm chánh, ngồi kiết già không lay động. Nếu có người đi lại nói: “Tránh khỏi chỗ của ta. Ta muốn ngồi đây”, thì phải kiên trì chớ để bị y hàng phục. Trước tiên giữ Phật đạo, quán tưởng đu các tướng tốt, hàng phục ma quỷ rồi mới xả quán xứ đó. Đó gọi là tinh tấn thì khó có thể được.

Chuyên tâm định ý cũng khó có thể đạt được. Khi bậc Sanh quý Bồ tát tu tập tâm định, trời mưa tuyết tuôn ào ạt, hàng vạn âm thanh đồng vang lên chấn động muốn làm loạn tâm Bồ tát, tâm Bồ tát không được dao động dù chỉ mảy may. Này Tối Thắng, đó gọi là tâm định của Bồ tát, vì thế nên gọi là khó. Bồ tát dùng trí tuệ tu các công đức, đối với chúng sanh không bao giờ nghĩ đến việc khổ khó, đi đứng ra vào hòa nhã trang nghiêm, oai nghi đầy đủ, pháp phục chỉnh tề. Đó gọi là Bồ tát tu tập công đức trí tuệ kiên cố, không ai có thể làm hại được. Sự hiểu biết của Bồ tát không bị chướng ngại, đạt đến chỗ cao thâm, thông tỏ sâu sắc đến từng chi tiết nhỏ một cách rõ ràng, không có chi tiết nào là không biết. Bồ tát luôn giữ tâm chuyên nhất không buông lung, thường ghi nhớ không chấp vào tất cả đối tượng nhưng vì phương tiện mà phải nương vào. Với kẻ mù lòa, Bồ tát độ cho khiến thấy được ánh sáng. Người không hợp quy y thì không cho quy y. Kết bạn trong chốn tôi tớ thấp hèn. Với kẻ dối gian xảo trá thì dạy cho họ tu tập hạnh chơn thật, trung thực. Gặp kẻ cướp hung bạo thì thị hiện nhẫn nhục. Ở trong cảnh đẹp nhưng không bị nó buộc ràng, gặp kẻ phản phúc vong ân thì dạy bảo khiến họ biết báo ân. Ở cung trời thì dạy bảo để chư Thiên tu tập thiện. Gần gũi kẻ có tâm lười biếng thì siêng năng tu tập đức nghiệp. Nếu gặp kẻ cống cao thì không có tâm tự đại, có cầu điều gì thì không nên gián đoạn, không nghĩ đến việc ác, không nói lời khuyết lậu. Nếu có kẻ ở chỗ làm những việc tà quấy thì giúp cho họ đến được nơi an ổn. Khi có nhiều loài chúng sanh đến chỗ mình thì vui vẻ tiếp đón, không sanh tâm giận dữ không vui, dùng lời khuyến dụ nói pháp có tấn có thoái: “Việc ấy nên như thế này! Việc ấy không phải như thế này!”. Tâm an định bình thản không tăng, không giảm, trọn tin vào tội phước, biết có báo ứng. Nếu Bồ tát ở chốn thị thành gần gũi dân chúng thì cũng quán như ở chốn núi sâu khoảng khoát không có gì khác biệt, không tham lợi dưỡng, không tiếc thân mạng, tâm niệm thanh tịnh không có tâm thị phi, luôn phòng hộ lỗi của miệng, lời nói không bỉ thử; không cầu người cúng dường hay mong người tôn kính, biết tri túc chỉ cần vừa đủ mà thôi. Tâm Bồ tát luôn nhu hòa, không bị niệm xấu chi phối, vượt qua sanh tử, làm an ổn nơi khổ họa, do đó thường thành tựu trên con đường tu tập Đại thừa. Tâm, tuệ Bồ tát cũng không thể thấy được, với sanh tử luân hồi cũng khong sở hữu, dùng quyền phương tiện giảng dạy rõ ràng sáng tỏ, lúc nào cũng tùy thời giáo hóa đoạn trừ phiền não, thỉ chung không đến cũng không đi, thông tỏ hoàn toàn pháp Không nên không trụ nơi nào. Bồ tát nếu suy niệm về hữu thì bị chấp trước về hữu; trong khi bố thí cũng suy niệm về vô hữu, cũng suy niệm về vô sở hữu là không thể thấy được. Vì sao như vậy? Sáu độ vô cực (Ba la mật) là không thể thấy, là không sở hữu.

Như vậy, này Tối Thắng, bố thí của Bồ tát không có suy lường, tính toán. Có suy lường, tính toán thì chẳng phải là chơn bố thí. Nếu đang bố thí mà có tâm so sánh chọn lựa thì không nên bố thí. Có ý phân biệt cao thấp thì sanh ra thị phi, bố thí mà không bình đẳng mọi loài thì không nên bố thí. Nếu có thể với tuệ bố thí không sanh tâm chấp nhiễm, không có các loại niệm thì mới được gọi là bố thí. Người nhận bố thí được toàn thân mạng thì mới có thể ngồi an ổn để tụng kinh tu tập, thân thể an định, khí lực mạnh mẽ. Bồ tát dạo trong sanh tử thường không khát ái, ngay tại chỗ xuất sanh dùng thần túc bay đi. Ở nơi đến được mọi người tôn kính, được mắt thần thông thấy mười phương, tai nghe xa và nghe được vô số âm thanh. Cho đến các loại hương vi diệu: giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương, Bồ tát được các loại hương đó xông ướp nên mùi hương trên thân luôn tinh khiết, không ai là không vui thích. Bồ tát luôn được thưởng thức các vị ngon ngọt. Do phước đức thuở xưa đã tạo nên Bồ tát mới được các tướng đặc thù, thanh tịnh vô cấu, được mọi người ủng hộ, tùy theo chỗ thiếu thốn mà được cúng dường chu cấp. Thân Bồ tát thường không bệnh, không sanh, không già, không có các tai họa, luôn được an ổn đầy đủ tất cả, chắc chắn sẽ thành tựu ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, được tám mươi vẻ đẹp trên thân. Bồ tát khai giảng pháp tạng không sanh tham dục, truyền bá đạo tuệ không thiếu sót. Có người đến cầu học thì không sẻn pháp, hết lòng giảng dạy để họ đạt được Nhất thiết trí. Bồ tát có các thánh trí quảng bác vô tận, hiểu kinh điển một cách sâu sắc, hưởng được niềm vui của pháp lạc. Bồ tát ngồi dưới cội bồ đề hàng phục quân ma và quyến thuộc của chúng. Bồ tát vì không vướng sắc nên nếu có gặp sắc thì biết sắc là Không, bản chất của sắc tự thể là Không, sắc không thể tự biết (sắc) cho nên mới biết sắc chính là Không.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát ngộ được tánh của sắc là Không; là pháp đứng dầu trong tất cả pháp nên thành tựu pháp nhãn, là bậc Nhất thiết đạo ba đời tôn kính, là bậc độc hành không bạn lữ vì Bồ tát đã có đầy đủ các loại thông tuệ.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc Sanh quý Bồ tát không tin vào tà pháp điên đảo. Nếu được chúng sanh, mỗi người đều phụng thờ cúng bái để cầu phước, tâm Bồ tát vẫn không lay động. Thấy có loại người hướng khẩu thực, Bồ tát vẫn kiên định tu tập theo pháp vô thượng tối tôn, trọn không lay động bỏ đạo vô thượng theo tiểu đạo, biết rõ pháp của Phật sâu xa không có pháp nào sánh bằng, tâm ý tinh cần cũng không khởi ý tưởng khác. Tuy Bồ tát lưu tâm tìm hiểu nhưng trọn không chuyển theo đạo khác. Gặp lúc có Phật xuất thếbát Niết bàn, giáo pháp để lại cũng không còn, thánh chúng du hóa lại điên đảo tản mác, dù không có Tam bảo nhưng tâm Bồ tát không theo tà niệm, luôn tụng đọc, tu tập thuần thục vô lượng kinh văn, dùng mười hai bộ kinhthông suốt tất cả, khéo dùng phương tiện quyền xảo, không pháp nào là không thể xâm nhập. Bồ tát không tham danh lợi, hiện thân biến hóa nhưng không tự xưng danh. Như thế, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát tuân theo chánh kiến, biết Không chẳng phải là chơn thật, không có gì gọi là chánh hay không chánh mới chính thậtvô sở hữu. Hiểu rõ điều đó thì gọi là chánh đạo.

Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát Đại sĩ tu tập trí tuệ, phân biệt hữu vô, ngộ lý chơn không cũng không chấp trước vào đó. Bồ tát lại phải tu hành các tuệ cú nghĩa nhưng không chấp trước vào chúng. Bồ tát thực chứng Khổ đế, đã đoạn trừ diệt tận các nguyên nhân tích tập khổ, đã tu tập đạo đoạn tận ái, dùng Đẳng trí quán chiếu làm an tịnh dâm, nộ, si; dùng Pháp trí trừ cấu ở tận ba cõi thượng, trung, hạ phẩm; dùng Nhẫn trí (Viễn tư trí) quán hai cõi trên, dùng Tha tâm trí thấy khắp chúng sanh trong tâm họ suy nghĩ gì. Bậc Vô sanh trí không chịu sự ô uế của bào thai khi sanh tử. Bồ tát tu tập Diệt tận trí nên quán đoạn năm ấm và sự phong tỏa của sanh diệt, tư duy về những pháp căn bổn phải tu tập của tam căn, từ Vị tri căn, Dĩ tri căn, Vô tri căn cho đến cuối cùng thành đạo. Bồ tát phải học pháp căn bổn đó. Từ tam bạch y đến Tu đà hoàn thì phải tu Vị tri căn. Từ Tư đà hàm đến A na hàm học về Dĩ tri căn. Từ A la hán đến khi thành Phật phải học Vô tri căn. Lại phải tu tập thiền định, dùng trí quán sát biết ở sơ thiền thu nhiếp tâm có giác, có quán. Ở cấp thiền tiếp theo, nội tâm không có giác, chỉ có quán. Từ nhị thiền cho đến Vô tưởng định thì không giác, không quán, nội tâm tịch tĩnh không dao động, luôn trọn đức tin thể nhập chánh định.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát ngày đêm không khi nào khởi niệm: “Ta biết bậc Chơn nhân vâng giữ giới, cũng biết người ác không có giới hạnh”. Bồ tát không có dị tâm phân biệt, đều biết cả hai đều là hư ảo vắng lặng, không có tâm niệm loạn động phân biệt là đồng nhất hay là hai, trước hay sau hoặc ở giữa. Bồ tát tinh tấn niệm niệm không xa rời Phật phápThánh chúng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm An bang, niệm thân, niệm khổ, niệm tửbiết thân này vốn không chỗ trụ, suy tư trừ năm kiết và cung kính sáu trọng pháp, thực hành bốn thần túc giáo dưỡng đại chúng, giữ tâm chánh niệm, nhiệt tâm, không có tâm sợ hãi. Nếu có Sa môn ngoại đạo hoặc trời Phạm Ma và các chúng khác đi đến, tất cả đều không thể nạn vấn Bồ tát được. Bồ tát cũng không khởi ngã tưởng. Bồ tát do tu tập được như thế nên luôn an ổn cũng không hề bị khiếp sợ, đạt được địa vị bậc nhất về sức tinh tấn. Bồ tát ở trong đại chúng cất tiếng sư tử rống chuyển Pháp luân lớn mà tất cả Sa môn ngoại đạo, Phạm chí, Phạm Vương Đế Thích, chúng ma đều không thể nào chuyển được, chỉ có Phật mới có thể chuyển được. Thân của Như Lai là thân do kim cang tạo thành, đã tận diệt các lậu, không còn bụi trần. Giả sử hằng sa ức chúng sanh không dám tin và cho rằng các lậu hoặc của Đức Phật chưa tận, (thì nên biết) lời của Như Lai đã nói là chơn thật không khác, báo ứng thiện và ác không sai với bổn nguyện. Tất cả chúng còn lại, những người rời xa nội pháp, không dám trái lời Phật dạy. Tóm yếu những lời dạy của chư Hiền Thánh, ai thực hành thì đạt dạo, ai phạm ác thì phải chịu tội. Không ai có thể trái nghịch lời dạy của Như Lai. Bồ tát cũng không thấy có ai để dạy. Không dạy, chẳng dạy là dạy về vô sở hữu, biết rõ sâu sắc điều đó thì chính là chơn đạo.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát cầu thành Phật đạo nên tu tập không thiếu sót. Có người muốn nghe pháp, Bồ tát bỏ những pháp không quan trọng mà chỉ nói những pháp vi diệu khiến mỗi người đều khởi lên đầy đủ chí nguyện. Khi giảng nói về bố thí thì không e dè sợ sệt, tâm chưa từng loạn động, không có ai nghe pháp sanh tâm nghi ngờ. Bồ tát không khởi tâm nhị kiến phân biệt đẹp xấu, không tư duy về sự sai biệt của thiện ác, cũng không mong cầu pháp tánh trong khi tu tập. Bồ tát không nghĩ mình sẽ nhận lãnh công đức mà rộng vì tất cả loài hữ tình. Bồ tát không tu tập tâm Thanh văn, Duyên giác, cũng không khởi ý nghĩ cho rằng có sự thành tựu khiến tất cả họ không rời xa Phật pháp. Bồ tát biết tất cả là Không nên Phật pháp cũng không. Do quán nhân duyên nên có khởi phát. Do quán sát như thế nên không thể thấy, cũng không có hình thể; nói hữu hình tức là hủy phá pháp tướng. Tướng cũng vô tướng, tướng không tự sanh. Sanh đã không có căn mầm thì do đâu mà có tướng. Tướng đều không có hình nên không thể thấy. Đó gọi là đạo chánh chơn vô thượng.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát trụ ở tứ địa tịnh tu hạnh của mình không lìa trí tuệ thần thông của chư Phật, có bố thí thì cũng hợp theo tiền nhân, có nói điều gì thì liền thành tựu, không có gì là không thích ứng. Bồ tát từ pháp Phật giáo hóa không bỏ nguyện xưa, nội tâm kiên cường, an định tuyệt đối. Những gì đã bố thí đều đạt đến tâm vô nguyện, vì các nguyện mà làm các nhân duyên lành. Bồ tát ở trong ba cõi không ai có thể sánh bằng. Bồ tát mong muốn đức ấy trải khắp việc làm của tất cả Bồ tát, khiến tâm chí các vị ấy thường ở trong định, không có gì có thể khiến cho không thể thể nhập tâm Nhất thiết trí. Do đó mà gọi là không tịch. Bồ tát chưa từng khởi các niệm tưởng chấp trước với các công hạnh thí đã làm, hàng phục chúng ma khiến chúng không được tự tại.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát thường niệm tu tập bốn pháp trí tuệ không chướng ngại. Đó là với pháp chơn đế không bị chướng ngại, với yếu nghĩa của Chánh pháp trí tuệ không bị chướng ngại, có trí tuệ biện tài không bị chướng ngại, có trí tuệ diễn đạt mọi lời nói đều rõ ràng đạt lý không bị chướng ngại. Đó gọi là Bồ tát tu tập trí vô ngại độ cho chúng sanh, quyết đoạn trừ tâm si đạt đến vô vi. Đối với vô ương số không thể tính kể các loại chúng sanh, Bồ tát đều độ cho đạt đến nơi mãi mãi an ổn, trừ bỏ niệm chấp thường, tư duy về vô thường liền đoạn trừ dục ái, sắc áivô sắc ái; vô minh, kiêu mạn tiêu trừ không còn phát sanh. Trước trừ tham ái về thân không để khởi sanh niệm tưởng tham ái. Thân năm ấm này tụ họp các điều bất tịnh, phiền não. Mắt như bọt nước không kiên cố, hư ảo không thật thế mà người đời ngu si mê đắm không nhàm chán. Các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chúng cũng đều là vô thường vậy mà người đời không thể thấy. Chúng vô hình, vô chủ, mãi mãi không có danh hiệu. Phải chuyên chú quán sắc, thấy sắc chẳng có ngã cũng chẳng phải là do ngã tạo ra, chính từ vô hữu mà sanh ra hiện hữu. Do có hình sắc nên có thần thức, do có thần thức mà sanh ra năm ấm, do phát sanh năm ấm nên nhiễm sáu tình, do nhiễm sáu tình nên mới có si khởi phát,… cho đến có vạn mối khổ già, bệnh, chết, sầu muộn, xoay vần qua lại trong ba cõi, trôi lăn trong năm đường không khi nào dừng nghỉ. Các pháp trên đều do nhân duyên hội họp mà thành; do thấy có nên gọi là có, thấy không có nên gọi là không; thấy chúng khởi lên thì gọi là sanh, thấy chúng mất đi thì gọi là diệt. Các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế, đều là giả dối không có hình chất. Bậc trí thấu tỏ cội gốc ngọn ngành của chúng đều là Không thì cớ sao lại phải dụng tâm nhớ nghĩ đến cho lao khổ cực nhọc.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát ly niệm tưởng sắc, tâm không nhiễm ô, ngộ rõ bản thể của sắc nên không sổ hữu sắc, cũng không thấy có thành, không thấy có bại, thể của các pháp tịch tĩnh Không vô, không gì có thể làm lay động, vượt lên trên nữa, không thể có gì vượt hơn được nữa. Bồ tát học Nhất thiết trí độ hiểu tường tận sâu rộng nghĩa lý của nó, đều liễu ngộ các pháp vốn Không, không chơn thật. Do đó, này Tối Thắng, cần phải tinh cần học tập, học những gì chưa học; cần phải thực hành, thực hành những gì chưa thực hành. Đó gọi là bậc Sanh quý Bồ tát trụ trong tứ địa thanh tịnh địa của mình.

 

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10409)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11077)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11880)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13047)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13529)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33524)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11254)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11322)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11752)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11408)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18875)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12464)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15628)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11733)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12635)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12549)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13864)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12890)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12836)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12655)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12614)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12236)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12256)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11879)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11908)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16735)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12575)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14949)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12767)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11808)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16422)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13148)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11734)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19739)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10317)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10886)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9953)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11660)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant