Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 2

25 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 9887)
Quyển 2


KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0309

Nguyên tác Hán ngữ: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Lương Châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Tâm Khanh

--- o0o ---


QUYỂN II

 

Phẩm 5: LIỄU KHÔNG

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Bậc Tu thành Bồ tát ở ngũ địa phải như thế nào để thanh tịnh địa của mình?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc Tu thành Bồ tát thường phải lìa xa nhà cửa, sản nghiệp, cũng chẳng gần gũi ngõ ngang đường tắt của dâm thôn, tu công đức lành, trừ bỏ niệm oán ghét, rời xa nhân duyên lễ hộithế gian, phải nghĩ nhớ hòa hợp, rời xa sự luận tranh phân biệt, phải giữ gìn lời nói của miệng, không nói lời chẳng chơn thật, luôn phải tự hạ mình, không có tâm cống cao. Bồ tát tuy có nhiều nghề khéo léo nhưng không khinh miệt người khác, đoạn trừ vô minh, tiêu diệt năm ấm, dừng hẳn các nghiệp tạo nên già, bệnh, chết; không khởi trần lao cũng chẳng tán đồng với sáu mươi hai kiến, không tự cao cũng không tự ti, vượt qua tám việc thế gian không có tâm phân biệt cao thấp, luôn biết cung kính thuận hòa, rời xa các khổ não, không khởi niệm vô minh, luôn tỉnh thức, vượt thoát các nỗi sợ hãi, không tạo tội lỗi và các tâm cấu nhiễm. Bồ tát ở trong thân năm ấm cho đến ở thân sanh tử quỷ, tội quỷ, tử quỷ, thiên quỷ đều suy tư đoạn dứt, không tạo duyên đó. Nếu nghe điều gì đều có thể phát sanh trí tuệ. Cần phải tu tập điều đó nhưng không sở hữu, học hỏi thâm nhập vào trí tuệ, thấu tỏ chơn lý một cách không mệt mỏi. Không ưa bạo động cũng không thích tịch mặc, hoan hỷ tiếp nhận tâm luôn vui mừng, thân khinh an chí định tĩnh, tâm ý hòa nhã mà không phiền muộn, dùng các pháp đã học nói pháp vô tận, tâm luôn hướng về đạo, tự giữ cấm pháp, thích theo chơn chánh không theo bọn tà, chỉ thích diệu tuệ phân biệt các loại Ba la mật, thông đạt kinh điển của pháp Bồ tát Đại thừa, khéo dùng quyền phương tiện khế hợp với đạo, tâm quán niệm thông tỏ các pháp thần thông, luôn muốn nghe pháp không sanh diệt, liễu giải pháp mười hai nhân duyên, thấu tỏ pháp vô thường, tuyên diễn chơn lý về khổ cũng giảng nói pháp vô ngã, thông đạt pháp Không định, phân biệt pháp vô tướng, thể đạt pháp vô nguyện; nhìn thấy nỗi khổ sanh tử, thành tựu công đức sở học thuần thục, tôn kính Tam bảo, thông pháp tục đế lẫn chơn đế, lấy tâm trung hiếu làm bạn thân cận, rộng thông các pháp mong trừ dẹp các điều ác, kham nhẫn dùng chánh đạo hóa độ kẻ vô trí khiến họ đồng thành tựu công đức. Bồ táttrí phân biệt rõ ràng nguồn gốc của chúng, suy niệm tránh xa các điều ác, kiểm thúc thân tâm, làm lợi ích chúng sanh, an ổn tu tập cũng không có tâm hối hận, mong cầu thực hành hạnh cực diệu.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát suy niệm các pháp Phật như thế nào để thành tựu yếu nghĩa vô thượng đạo? Bồ tát với điều được nghe, trí tuệ liền có thể biện biệt, tùy thời thích hợp có thể ứng dụng các pháp được nghe ở bất cứ đoạn nào mà không sai thứ lớp. Nghe pháp âm kia liền sau đó điều tiết thân tâm, nội quán biết rõ tường tận sự vận hành của tâm, tự thân cứu độ chúng sanh nhưng không chấp trước vô thường, quán sát nhân duyên và biết rõ: “Ta ở quá khứ, hiện tại, vị lai thọ mạng như thế này, thành tựu công đức nghiệp, phân biệt rõ ràng các cấp thiền định, tự thân thể đạt Không, vô tướng, vô nguyện; không dong ruổi theo tham dục, trú trong tam muội tu chánh định”. Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát quán nhập tám trăm ngàn loại định nhưng không cho là khó. Không có cảnh giới nào là Bồ tát không thể quán nhập, chỉ có Vô Sắc thiên và Quang Âm thiênBồ tát không muốn quán sanh. Bồ tát cũng không muốn trú mãi trong Diệt tận định. Với pháp Bổn tế, Bồ tát đều biết rõ, suy niệm, chấp trì. Bồ tát cũng liễu tri Bổn vô nhưng không thủ chứng Bổn vô. Vì sao như thế? Bởi cấu trược của chúng sanh chưa dứt trừ. Bồ tát biết các chúng sanh đó, giúp họ hiểu lý vô ngã, thực hành đại bi, không xa rời tâm từ bi, đi vào tất cả nạn trong chốn sanh tử, xa lìa tâm tham chấp vào tất cả nạn trong chốn sanh tử, xa lìa tâm tham chấp vào giàu sang vinh hiển, dạy các kẻ phạm pháp khiến họ không còn trái phạm, dùng quyền phương tiện giáo hóa mọi cách tùy thuận chúng sanh, tâm hiện ái dục, quán pháp ác tu hạnh bất tịnh, sau đó Bồ tát mới thủ tận chứng (Niết bàn). Tuy hiện diệt độ nhưng chẳng phải diệt tận. Số chúng sanh được bậc Tu thành Bồ tát hóa độvô cùng cũng không thể tận. Tất cả đều được Bồ tát hóa độ khiến tâm không còn oán hận, không mất oai nghi và những điều ngăn cấm thuộc lễ tiết, đi đứng trang nghiêm không phóng túng, thường giữ tâm vô tranh, luôn tự hộ trì. Bậc Hiền Thánhh tịch mặc luôn vắng lặng, không nói năng biện giải. Vô ngôn như thế chính là thanh tịnh hư vô đạm nhiên, vốn không vuông tròn, khác hẳn với pháp hạn lượng. Bậc Hiền Thánh tịch mặc tự quán niệm hộ trì thân, miệng, ý; khi nói chớ cùng người đồng xứ, ái dục của thân bất động, tâm không luyến mọ cảnh dục cũng không mong cầu, không khởi tưởng. Đó gọi là hạnh của bậc Tu thành Bồ tát. Muốn không nhiễm ái sắc thì phải giữ tâm ngay thẳng. Do tâm chân chánh nên liền đạt đến cứu cánh giải thoát. Người không tịch tĩnh lại luôn bảo thủ tự thân không được tự xưng (là tịch tĩnh) nhưng chẳng phải là kẻ bất nhân. Bậc không có tâm phân biệt ao thấp có thể nói là bậc thuận theo pháp, các hạnh đã làm không quên mất cũng không bị mất. Vị ấy liễu giải Bổn vô không nên không có được mất, quán ba đời bình đẳng không có sai biệt. Nhãn, sắc và thức không có pháp nào dừng nghỉ. Nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt thức, ý pháp thức đều không có chủ tể; chúng cũng có sở trụ, cũng là vô ngã. Bồ tát quán các pháp hành đều không có ngã sở. Do từ bổn tịnh biến dị nên có ngã, chánh quán như thế nên biết là không có ngô ngã. Quán thông không có ngô ngã gọi là tuệ, thông tỏ hoàn toàn sợ hữu giống như vô sở hữu, đều là không tịch bổn mạt thanh tịnh, tâm thường không xa lìa gốc của các pháp, tư duy tránh xa chín nơi chúng sanh cư ngụ. Vì sao như thế? Tất cả các nẻo luân hồi xoay vần chìm nổi không ngoài chín cảnh giới của các loài chúng sanh, lên đến chư Thiên Phi tưởng phi phi tưởngcõi người.

Lại nữa, này Tối Thắng, thuở trướcchúng sanh thân chẳng thuần một loại nhưng thành tựu nhất tưởng được gọi là Phạm Thiên. Lần đầu tiên xuống thế gian, họ tham trước vị ngọt nên dần dần mất đi oai tướng chư Thiên. Lại có chúng sanh đồng một loại thân nhưng có vô số tưởng, tên là Quang Âm thiên, công đức, oai nghi, dung mạo thù thắng đặc biệt. Hoặc có chúng sanh nhất thân nhất tưởng, tên là Biến Tịnh thiên chuyên cần tu tập hạnh lành. Lại có chúng sanh ý khởi niệm hướng đến hư không vô lượng, tâm không chấp trước cũng không hướng đến diệt, tên gọi là Không Nhập thiên. Lại có chúng sanh tâm ý buộc ràng với niệm thức tưởng rời khỏi hình thể, không còn khởi lại tưởng mong cầu, tên gọi là Thức Nhập thiên. Lại có chúng sanh không có tham dục, trừ bỏ thị phi, nội tâm an tịnh đối với các vị không khởi tưởng, tên gọi là Bất Dụng Nhập thiên. Lại có chúng sanh phát thệ nguyện lớn cầu đạo vô vi, quán vô sắc giới không hình chất, tự nghĩ Niết bàn vô vi vô tác cũng bằng có người tạo, chí nguyện tinh chuyên mong được sanh đến chốn thọ mạng tám vạn bốn ngàn tuổi. Đến khi kiếp số thọ mạng dứt, thần thức trôi lăn xoay vần trong năm đường, ở trong chỗ sanh đến thức ấm qua lại, được quỷ thần tướng đón đưa đến nhập vào thai, sau đó mới biết chẳng phải là chơn diệt độ, si tâm hừng khởi liền nổi lên niệm sân hại, từ tâm niệm miệng nói các lời tội lỗi vô cùng, lời dạy trái chơn lý, từ ngữ hư vọng sai lầm, dối gạt người đời, lừa phỉnh nói lời không thật. “Ta từ xa xưa tu tập trải qua vô lượng hạnh khổ đạt đến Niết bàn đương nhiên không còn nghi ngờ. Ta nay vì sao trở lại sanh tử? Nay ta quả thật mới tin biết chẳng phải là Niết bàn, cũng chẳng phải là bậc đắc đạo thần thông”, họ suy niệm như vậy xong, khoảnh khắc sau thần thức đi vào đường ác. Đó đều là do phỉ báng Hiền Thánh.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát muốn thành tựu đạo Đẳng Chánh Giác vô thượng chánh chơn, tâm thường phải tư duy ghi nhớ lìa xa nơi chốn của chín loại chúng sanh. Với tất cả chúng sanh không khởi niệm tưởng ngã, nhân, thọ mạng. Với các nhân duyên tạo tác đều lánh xa, cũng chẳng tư duy nghĩ tưởng việc thế tục, diệt trừ tất cả các niệm tưởng đó. Bậc Tu thành Bồ tát với mười lăm tâm đặc thù hướng về pháp, theo thứ tự của pháp tinh tấn tu tập thành tựu đạo giải thoát. Từ pháp thứ nhất nhẫn nhục khổ hạnh nên tăng trưởng căn lành cùng với hạnh vô lậu. Từ ngũ trụ địa đến khi đạt giải thoát đều đầy đủ căn lành, tư duy dục ái. Bậc ngũ trụ địa Bồ tát đoạn trừ ái dục, diệt tận bất thiện căn trụ ở Dục giới, chấp vào nhẫn khổ tuệ, tư duy gốc khổ, thân vô sắc trụ trong cảnh giới vô hình, không suy niệm được cội gốc của khổ. Cho nên Bồ tát không trụ trong pháp vô hình trừ Dục giới sẽ làm tăng trưởng chín mươi tám căn bất thiện, cũng khởi sanh chín mươi tám vô lậu tuệ dược. Bồ tát dùng mười pháp căn bản đối lại căn bất thiệntội cấu dâm vi tế. Tám mươi pháp còn lại đoạn trừ tám mươi pháp bất thiện căn bổn. Tuy chẳng phải do vậy mà làm thay đổi toàn bộ pháp bất thiện nưhng có thể cải đổi chúng thành nhỏ nhiệm. Tận – Đạo thánh đếvô lậu hiệp pháp, không đoạn trừ vô lậu hiệp pháp, với tánh hữu vi cũng có hiệp pháp, với tánh vô vi cũng có hiệp pháp. Lúc đó Bồ tát chỉ đoạn trừ hữu vi, chưa đoạn trừ hiệp pháp vô vi tương ứng.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát cần phải tu ập năm phần pháp tánh, tư duy phân biệt liễu tri pháp vô nhị, giới thân hộ mạng thanh tịnh vô tham, đã trừ cấu uế, tâm đã an định. Này Tối Thắng, đó gọi là định thân, phân biệt quán sát vô số tưởng cũng không khởi tưởng chấp trước, thông tỏ hoàn toàn nên gọi là Tuệ thân, giải thoát ba đời không bị ô nhiễm, cũng không sợ hãi e ngại thoái chuyển tâm. Đó gọi là giải thoát thân. Đã tu tập đến bậc giải thoát thứ chín nên gọi là giải thoát tri kiến thân. Duyên với hữu vigiải thoát thân, duyên với vô vigiải thoát kiến tuệ thân. Hữu lậu vô lậu cũng như thế. Này Tối Thắng, như thế gọi là bậc Tu thành Bồ tát có thể tu học sắc duyên tận pháp, chưa thể đoạn trừ phi sắc duyên tận. Thế nào là sắc duyên tận pháp và phi sắc duyên tận pháp của Bồ tát? Sắc duyên tận nghĩa là nếu mắt thấy sắc liền sanh nhãn thức phân biệt pháp phải trái, thiện ác, khởi ý nhiễm trước trọn chẳng xa lìa. Bậc Tu thành Bồ tát phải dùng trí tuệ điều phục khiến nó không sanh, trừ khử các hành cấu uế, ô trược bất tịnh. Phi sắc duyên tận chẳng phải đối tượng của trí quán sát không sanh sự hoạt động của nhãn thức phân biệt thị phi, thiện ác nên gọi là Phi sắc duyên tận; chẳng bị cảnh giới nhiếp trì. Nay Ta sẽ dùng ví dụ, ông nghe đó sẽ tự lĩnh hội, bậc đại trí do dụ mà có thể thông tỏ. Ví như có người vô cùng mệt mỏi ngủ say, thần thức an tĩnh, thân không dao động, không có ai xúc chạm. Người ấy mắt không thấy sắc, thức chẳng dong ruổi, không khởi niệm tưởng. Mắt thì nằm bên trong, sắc phóng dật thì ở bên ngoài. Lúc đó mắt điềm nhiên chẳng gia công nhưng thức không tán loạn. Sắc hiện tại khi đó đột nhiên biến mất, cũng không dừng nghỉ hay trụ lại. Vì sao như vậy? Là do dụng tự không của vô sở hữu tánh.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát luôn phải quán niệm sâu sắc, tư duy phân biệt, đoạn trừ các pháp thuộc Phi sắc duyên tận cũng không cùng chúng khởi, không cùng chúng thi thiết, phải học để thấu tỏ Phi sắc duyên tận, chẳng phải có, chẳng phải không cũng không có thành bại. Bồ tát lại phải tu tập pháp bất chánh trừ diệt bát tà, thành tựu chánh định Bách thiên định ý, thấy rõ năm pháp tà thuộc tâm và pháp tà thuộc phi tâm, nghĩ nhớ phương tiện định và các địa: từ sơ thiền trở vô trước tâm vẫn còn tà chí. Không chỉ tà kiến điên đảo từ sáu thức phát sinh mà ngay cả tứ tà cũng ở trong thân sáu thức cùng liên kết, không hề rời nhau. Nhưng tà kiến không thông với thức bởi vì năm thức tuy thế vẫn không có phương tiện lực, chỉ trí tuệ ý thức mới có phương tiện lực. Từ trung thiền trở lên cũng không có tà chí, nhưng có tà kiến cùng ba mươi sáu pháp hỗ tương. Nhập sơ thiền trở lại chỉ có tà chí cùng mười tám pháp cùng hỗ trợ liên kết với nhau. Nhập năm thức ấm trung tuy có tà chí nhưng tự mình không hay biết. Trong lúc nhập thiền nội quán chỉ có tà kiến nhưng tự mình không tương ứng với tà kiến. Bậc Bồ tát phát tâm đến bậc tứ trụ, tu tập khổ trí, trí tuệ nhẫn nhục, tiêu diệt tà kiến, xa lìa tà chí. Bậc Tu thành Bồ tát hướng đến lục trụ thực hành huyền thông trí, đoạn trừ duyên tam giới hợp với chơn tế, trước phải tinh cần đoạn trừ bệnh họa hoạn phóng dật, bệnh ngu si do dự làm khởi lên năm tà, trải khắp tam giới không có chỗ nào thiếu sót. Mười tám kết vốn sanh ra tám trăm pháp, có Khổ, không có Tập vẫn cùng chúng tương ưng. Có Tập môn thì trừ vô minh kết, biết rõ Tập đế, vô minh mà không trừ tận gốc, sanh tâm ái khổ nhưng vẫn không trừ, ngồi dưới cội Phật thọ quyết tìm các niệm si khởi lên trong tâm, chánh trụ Phật đạo mà không làm tổn hại dị tưởng. Khi thành tựu Chánh giác Vô thượng đạo tế độ cho vô ương số không thể tính kể loài chúng sanh, giải tri các duyên ràng buộc các pháp sanh diệt; chúng cũng là không tịch nên không thể thấy. Khi bậc ngũ trụ Bồ tát đảo pháp tánh Không của Phi sắc duyên tận, các bệnh trần cấu cũng đều tiêu diệt, luôn dùng năm pháp điều phục chế ngự ái chấp, thông tỏ bệnh của sáu thức đều trải khắp ba cõi, nhổ tận gốc kiết sử để chúng không tăng trưởng. Sân khuể, ngũ dược có đủ trong thân sáu thức, không vượt ra ngoài mà chỉ ở trong phạm vi đó. Mạn có năm pháp. Ý thức thân ở sâu trong tam xứ căn khó dời đổi. Ý thức thân của bốn loại tà kiến cũng ở trong tam xứ qua lại không dứt. Nguyện si, tứ hànhý thức thân cũng ở trong tam xứ tư duy tật đố, không phải ở trong tam xứ ngủ nghỉ mới dậy. Bồ tát phải nhớ nghĩ viễn ly, không khởi tạp tưởng, trừ bỏ các phiền não, không bị si mê, mong thoát khỏi tâm lo âu không cùng chúng đồng xứ, luôn nhớ nghĩ tu tập thành tựu tâm Nhất thiết trí, có trí tuệ thuận theo chơn lý như hư không vô ngại: “Nếu không có tài sản của ta thì không có ta”. Do trừ bỏ ngã kiến nên gọi là Khổ tuệ. Các sở hữu của Tập đều không sở hữu, đều không có bổn mạt cũng không trụ xứ. Do không nhiễm ái trước nên gọi là Tập tuệ. Giải tri Tập là pháp phải diệt trừ, học tập pháp chánh chơn phải biết là vô bổn tế. Do đều bị diệt nên gọi là Tập, tuệ chiếu đạt các tâm lãng đãng như mây tan, sáng tỏ rõ ràng không gợn trần cấu.

Này Tối Thắng, đó gọi là đạo tuệ của Bồ tát có thể quán sát, thông suốt năm ấm, biết gốc tứ đại, rõ bệnh sáu suy, phân biệt bốn đế, tỏ mười hai duyên, quảng diễn ba đời phân biệt tất cả các sử đã khởi, thông suốt năm ấm các pháp sanh diệt, không thấy các pháp có qua lại, có trần cấu, cũng không thấy có sanh, già, chết. Vì sao? Do bổn tánh nên bất khả đắc. Nhân duyên đã diệt, xa lìa các chấp đoạn, các pháp cấu nhiễm đã tận không có gì làm chướng ngại, ngôn giáo đã định cũng không dao động, ảo hóa giống như những gì thấy trong mộng, như đọt chuối ba tiêu, như tiếng hí vang của ngựa hoang, như ảnh trong gương, như bọt nước nổi, quán sắc tướng ngã, nhân, thọ mạng, biết sắc là chơn lý như thật vốn không có chỗ sanh, quán thông các pháp đó nên tất cả ddeefut hanh tịnh, quán biết rõ năm ấm kia là Không, là không sở hữu; ngã, nhân, thọ mạng thật như tuồng ảo hóa, thức cũng vô hình nên không thể thấy, không thấy động chuyển có xứ sở kia. Lại phải liễu tri nghiệp của thân là vô thường, khổ, không. Biết được như thế chính là thông đạt năm nghĩa của các pháp cũng không giới hạn sanh diệt. Các pháp sở sanh, đất, nước, gió, lửa không thấy tăng giảm. Quán khắp pháp giới cũng không cương nhu, quán chiếu tánh của nước thì không có tính ẩm ướt của nước. Tư duy về hỏa giới cũng không thấy nóng. Liễu giải cảnh giới của gió không thấy phồng căng do có sự dao động. Phân biệt bốn đại không thấy có sự sanh diệt, tăng giảm thì có thể quán chiếu biết được các loại trí tuệ như quảng tuệ, thâm tuệ, vô tỉ tuệ. Đó gọi là mắt thấy sắc liền sanh thức tưởng, dùng pháp giới quán không có cái thấy của mắt, đều biết là không tịch. Bồ tát lại ở pháp giới quán âm thanh mà tai nghe cũng không thấy âm thanh từ nơi nào đến, chỗ thấy không được đích xác tự sanh rồi lại tự diệt. Mũi và hương, lưỡi và vị, thân và cảm giác mềm mại, trơn láng khi tiếp xúc ý và pháp, không chấp, không đoạn, không có hưng suy, đều quán tánh hạnh của chúng sanh một cách đầy đủ. Chí ý không khởi đều là bình đẳng, không thể xa rời vô số tưởng. Không chẳng có, chẳng khác cũng không thể lượng. Niết bàn, Pháp thân bình đẳng như hư không. Tính chơn tế của pháp giới đồng như hư không.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Đại sĩ lại phải quán nhãn là Không mà không có ngô ngã, chẳng phải không có ngã. Ngã và vô ngã cũng đều là Không. Bậc quán biết ngã Không thì đi vào chỗ suy hao không thấy đầu mối, theo lý quán chiếu sáu suy mà không khởi diệt. Nhãn sắc là đứng đầu làm loạn trong các suy, giả định có thể thấy mà không chuyển dời, chính đó là sự thanh tịnh của sáu suy mà không nhơ uế, thành tựu quả chứng lớn không còn lo âu sợ hãi. Ở nơi suy, không tịnh thì tổn hại tánh đạo, Bồ tát phát thệ nguyện lớn hành đại từ bi biến khắp tất cả. Thọ khổ như thế nhưng không cho là đau khổ, không có nạn núi non sợ hãi xa gần, muốn độ chúng sanhkhông vui đạo, khuyên thực hành bố thí tu thiện tạo công đức. Đó gọi là bậc Tu thành Bồ tát tư duy quán pháp năm ấm, sáu suy đều không xứ sở, cũng không hình tướng tới lui, đi đứng… Bồ tát lại dùng Khổ, Tập, Tận, Đạo phân biệt năm ấm. Pháp sanh, pháp diệt có tăng, có giảm nhưng đều không có hình tướng. Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, sầu lụy buồn thương khổ, khổ vì luôn gặp kẻ oán ghét, khổ vì thương yêu mà phải xa lìa, cầu muốn không được cũng là khổ. Nói tóm lại, năm ấy hẩy hừng là khổ. Cho nên, này Tối Thắng, đó gọi là biết khổ. Quán chiếu nguồn cội ngọn ngành sanh ra khổ là Tập, chính là tham trước ái dục, vui sướngvật báu mà không biết là ảo hóa. Biết như vậy mà viễn ly, do đó gọi là biết Tập. Các cấu nhiễm đoạn trừ thì không tạo ra cấu nhiễm mới. Do dục mong cầu đã hết nên khiến nó không còn sanh khởi, truy tìm sắc hiện tiền đã diệt khiến nó không đình trệ. Liễu tri Tập thường vắng lặng chính là biết Tận. Ngộ rõ Bát chánh đạo cũng không thể tánh, thân sơ, xa gần, nơi chốn dừng trụ; biến hóa vô cùng mà không có chỗ kết thúc, dẹp trừ trần uế soi sáng ngu mê, không hình tướng, không âm thanh, thể của tồn vongđứng đầu của mê hoặc dẫn đường. Do đi vào pháp đạo vô vi nên gọi là biết đạo. Bồ tát phân biệt Bốn chơn lý cũng không thủ chứng, muốn hộ trì tất cả loài đang ở trong sanh tử. Tướng, vô tướng, vô hình của chơn lý thì không thể thấy. Quán chiếu biết rõ như trên thì ứng hợp pháp tánh. Ngôn giáo thé tục giả đặt nên có danh hiệu. Thật ra thể của chữ không sanh, không diệt, không bị ô nhiễm chấp trước thì đạt thánh đế tâm, không niệm hữu vô, quán chiếu thông tỏ pháp bổn. Tất cả các sắc đều bình đẳng, cũng không cao thấp sanh vô số tâm thì gọi là phân biệt thánh đế. Bồ tát tuệ tri thánh đế kỳ thật chỉ có một chứ không có hai nên không chấp trước đạo chí chơn, không có niệm mong cầu cũng không khởi tưởng mong cầu sắc, không khởi tưởng cầu vô sắc. Với tưởng, vô tưởng bình đẳng không hai. Đó gọi là tướng của chơn đế, đã quán chiếu sâu xa chơn đế. Bậc quán tướng chơn đế như thật ấy có thể thông tỏ tướng của năm ấm, tướng của khổ độc do năm ấm sanh là tướng phiền não. Bồ tát lại phải tư duy diệt ở trong trăm nghìn nỗi khổ đều quy về Không, không có pháp diệt tận. Do không khởi niệm nên gọi là Khổ đế. Diễn nói nơi khởi sanh của năm ấm, trừ bỏ ái trước nên gọi là Tập đế. nếu tâm dong ruổi, có nhiều tưởng mong cầu thì phân biệt tâm đó cũng không tham luyến, không cùng ngu tâm ba đời đồng xứ, cũng không trụ trong đó mà có mong cầu, trừ bỏ tất cả trần lao, đó là Tận đế. Người muốn thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn thì phải liễu tri Khổ, Tập, Tận, Đạo; đoạn trừ tâm tà si.

Này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát trụ ở ngũ địa thanh tịnh hạnh của mình như vậy.

 

 

Phẩm 6: CĂN MÔN

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bậc Thượng vị Bồ tátlục trụ địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc Thượng vị Bồ tát luôn phải tu hành sáu độ vô cực, không tham luyến các quả vị đã thành tựu trước đó, phát thệ trừ bỏ tâm Thanh văn, muốn thanh tịnh quốc độ thì không nên có tâm Duyên giác. Cho nên nói rộng thì không phải là tâm nhỏ hẹp, hiện thân khất sĩ trước tự trừ tâm tham, theo gót tiền nhân khiến được no đủ. Có vật báu quý giá trước phải nhớ nghĩ cho người, không có tâm hối tiếc, xa rời ngô ngã, trừ bỏ tâm chấp thường. Trí đó vô lượng cũng không cùng tận, mong muốn nghe diệu pháp thậm thâm, thanh tịnh thân, miệng, ý; không phạm tất cả giới, luôn muốn ủng hộ những bậc trì giới. Tâm của bậc Thượng vị Bồ tát luôn nhân từ, không có tâm niệm làm tổn hại chúng sanh, tự thân không giết hại, không dạy người khác giết hại, thấy có người giết hại thì khuyên bảo khiến họ tu thiện. Không trộm cắp vật của người dầu nhỏ như sợi lông, mảnh tóc. Giả sử có người vi phạm thì dạy họ sám hối sửa đổi. Lại thường chuyên tâm không phạm dâm loạn. Nếu thấy người phạm thì khuyên khiến họ tu hạnh thanh tịnh. Luôn nói lời chí thành, không nói lời hai lưỡi làm chia rẽ người này, người kia. Có kẻ đấu tranh kiện tụng thì hòa giải khiến họ không còn đấu tranh kiện tụng, nói lời trung thực can gián, dụ dẫn khiến tất cả họ đều thực hành điều thiện. Suốt đời không mắng chửi làm cho người khác phẫn nộ. Thấy người sân hận thì nhớ nghĩ thực hành nhẫn nhục, không nói lời ác, có tâm tàm quý. Giữ gìn cẩn thận lời nói, không nói lời dối trá. Đối với mọi người tư duy bình đẳng, không khởi niệm tật đố, oán ghét; trừ bỏ tâm kiêu mạn, không khởi tưởng giận dữ hướng về chúng sanh. Tự thân mỗi khắc đều phát nguyện hướng thượng: “Nay không thực hành nhẫn nhục, sau này chắc chắn bị cảnh khổ nhơ xấu”. Luôn giữ tâm mình ngay thẳng, không khinh kẻ hậu học, với đạo pháp tâm luôn hoan hỷ. Tâm Bồ tát thanh tịnh không có trần lao, yêu thích pháp thâm diệu vô tỉ, dùng bốn pháp vô sở úy hàng phục ngoại học, khiến họ tu tịnh nghiệp tăng thượng. Bồ tát chí tâm với đạo, tôn phụng bậc nhân từ. Nếu thấy Sa môn, dị học Phạm chí thì nên hầu hạ xem như thầy khiến các vị được đầy đủ. Vì sao như thế? Do thành tựu Phật đạo thì thành tựu Nhất thiết trí, tâm luôn nhu hòa không làm việc cuồng bạo. Nếu thấy người khác không hộ trì mình thì khởi niệm sai quấy, lúc đầu tâm không phiền não nhưng có niệm phi pháp, cũng không có tâm Thanh văn, Duyên giác. Với các lỗi đã phạm không thấy có phạm, có chỗ phát sanh cũng không biết chỗ nào, mình ngu muội thì phải luôn tu tập tinh tấn không được giải đãi, không cùng bộ phái tà quấy giao tiếp. Nếu thấy kẻ tệ ác, phản phúc thì không cùng họ làm việc, nói chuyện thầm thì to nhỏ. Tôn thờ, giữ giới đầy đủ chưa từng thiếu sót, gần gũi bậc trí tuệ và bậc am tường diệu pháp. Không nghĩ tưởng xa xôi, có tâm nhàm chán, đặt trọn đức tin vào tịnh giới, pháp tu tập chơn chánh. Không bị các bộ phái tà quấy làm nhiễm ô, cẩn thận giữ gìn pháp của mình như pháp phải hành trì. Tất cả chúng sanh ca ngợi đức của Bồ tát giữ gìn pháp luật thanh tịnh vô nhiễm, sở hạnh kiên cố, thông tỏ tự tâm, không nói lời chẳng thật có tỳ vết. Vì sao như thế? Chính do chánh hạnh, không tổn hoại tà đạo. Giới của Bồ tát đầy đủ, không bị mê lầm. Những âm thanh Bồ tát diễn nói, không thanh âm nào không tuyên xướng diệu pháp, được chư Phật chánh giác hộ trì, không mong cầu diễn tấu âm nhạc để tự vui, luôn biết đủ, không tham luyến. Tâm Bồ tát thuần thục, đã trừ các điều ác, thân ý trong sạch không ham thích thú vui, luôn thích nhàn cư, không có tâm ưa gần gũi pháp thế gian. Bồ tát ở nơi nhiều loạn lạc có thể phân biệt thâu tóm đầy đủ đạo pháp, không theo lời xúc xiểm của ngoại đạo, giữ gìn oai nghi cẩn thận chưa từng thất lễ, không vận y phục the lụa thêu thùa, lập thệ như bổn nguyện, đức hạnh không ai sánh bằng, không vì vị ngon ngọt mà loạn tâm ý. Tự thân Bồ tátđạo lực, điều phục giữ gìn đức nghiệp, tu tập đều thuận theo giới, không đùa giỡn hư dối. Trời người hộ vệ khiến thành tựu quả cứu cánh. Bồ tát thực hành tâm từ, nghĩ nhớ đến tất cả loài chúng sanh; lại tu tập tâm bi mẫn, nhẫn nại với các trần lao. Bồ tát tôn thờ thủ hộ không để tâm sanh lười nhác, thực hành tâm bình đẳng, thiện ác không hai, vì tất cả chúng sanh đảm nhận trách nhiệm nặng nề, luôn quán sát thấy rõ không làm tổn hại dù mảy lông của chúng sanh, không để tâm thức dong ruổi theo các tưởng, không nghĩ nhớ điều ác, không truyền dạy cho người làm điều tà quấy, hộ trì tâm ý trong mọi lúc, nhiếp tâm không để khởi niệm ác tà, tùy theo chỗ tư duy luôn nhớ nghĩ bố thí, giáo dưỡng tất cả loài chúng sanh khiến họ thực hành nhẫn nhục không khởi dị tâm, chí nguyện tinh tấn trọn không thoái chuyển, một mình thiền tư đạt đến định an ổn, phụng thờ trí tuệ quảng bác, thông tỏ các nghĩa lý. Pháp giảng dạy thông tỏ mà không cho là đủ, nỗ lực tu tập quảng văn; học giới; pháp yếu; theo bạn lành mong đạt các pháp, thường xa lìa thầy ác, bạn tà; thường thì bạn tà chẳng phải là bạn đạo chơn chánh. Không tô bồi cho thân tướng, ham muốn trang điểm trau chuốt, biết vạn vật đều trở về vô thường. Giới công đức của Bồ tát trong sạch như vàng tử kim, tâm bố thí thanh tịnh mà không hề sanh tâm hối hận. Tâm ý thanh tịnh trọn không hư khuyết. Sở học của Bồ tát vi diệu cũng không rối loạn. Tâm Bồ tát trong sạch, không dơ uế, bổn hạnh thanh tịnh, tâm không sân hận. Tuy ở chốn mê hoặc mà không theo đó dâm dục, ý không loạn tưởng, luôn ở trong định, giữ giới đầy đủ không khuyết phạm, không hề có lỗi, theo hạnh nguyện của mình không bao giờ thay đổi. Với pháp thiền định của chư Phật đều phân biệt rõ, dùng tâm bình đẳng độ các chúng sanh, từ Nhất thiết trí nhập giải thoát môn, trải nghiệm qua các tam muội đều rõ như hiện tiền, không tham tiếc thân mạng, không có tất cả niệm loạn tưởng; không chấp trước ngã, nhân, thọ mạng, cũng không tư duy về danh sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; không nương tựa vào thân, khẩu, bốn đại tạo sắc (thân); quán niệm chơn đế thông tỏ như thật, phân biệt sắc sở tạo, biết rõ chỉ là một không có hai. Bồ tát lại phải tư duy về nhãn và sắc, nhĩ và thanh, tỷ và hương, thiệt và vị, thân và các cảm thọ, tâm và pháp thảy đều thanh tịnh, là nhất tướng, vô tướng nên không mê loạn. Bồ tát như lý quán niệm các pháp, lấy quá khứ không hành, vô tướng, vô nguyện cũng không thấy có hình tượng, vượt qua ba cõi không nhiễm, không chấp trước; vô giải, bất giải cũng không hệ phược, lại không sanh niệm cũng không thấy sanh. Vì sao như thế? Vì tất cả pháp đều vô sở sanh. Bồ tát luôn phải từ mẫn, không nghĩ đến sát sanh trộm cắp, theo các dục để sinh sống, cũng không chiếm giữ sai quấy tài vật quý giá của người khác mà vui thích tuệ thí. Bồ tát không nghĩ đến việc tà dâm mà xa rời sắc, không nói lời hư dối, xúc xiểm người khác, lời nói ra với người khác đều thành thật, khéo luyện tâm không mê loạn, thấy các bậc cao niên luôn tôn kính, đi đến phương nào cũng đều dùng lòng nhân từ với mọi người khiến họ vừa ý, không để họ buồn lòng, mở rộng tấm lòng bao dung khai thị chánh giáo, luôn nhớ nghĩ bình đẳng hợp với luật pháp. Với tất cả loài, không có tâm cuồng sân, các hạnh đã làm không hề lui sụt, diễn thuyết pháp rốt ráo độ các chúng sanh, rộng vì tất cả chúng sanh phát nguyện trừ khử ấm cái che ngăn. Với bậc Thượng vị Bồ tát, pháp là đại chủ. Bồ tát giảng rộng pháp tam thừa, dạy pháp Ba la mật. Đức (của Bồ tát) vượt quá núi Tu Di, trí tuệ vượt quá sông biển, đạo vượt quá hư không mà không cho là thệ nguyện.

Tối Thắng nên biết, vì tất cả người ngu si, lười biếng, phóng túng, mê hoặc không thuận giáo pháp; họ còn phải ở lâu dài trong cảnh khổ sanh tử, thối thất mê loạn, hoảng sợ, bị triền cái lôi kéo nên không thoát khỏi ba đường nên Như Lai vô cùng thương xót. Bồ tát vì tôn thờ gốc của tất cả các pháp, vì tất cả pháp đoạn trừ các phiền não chấp trước, hai mươi hai gốc bệnh của xúc. Các pháp đó không phải là pháp cũng không phải là phi pháp. Tất cả ngôn giáo đều không thể nói. Vì sao như vậy? Pháp vô đó vốn không bị sanh cũng không bị diệt. Vì người nói pháp, không thấy pháp đã nói.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Thượng vị Bồ tát tư duy phân biệt chỗ khởi của lạc xúc, chỗ diệt của lạc xúc. Bồ tát quán như thế đối với xúc. Với sáu xúc làm căn bổn cũng phải biết như vậy. Không phải sáu pháp căn bổn cũng phải biết như vậy. Với bảy pháp xúc cùng thọ nhập cũng như thế.

Lại nữa, Bồ tát tư duy quán chiếu thấy rõ xúc do quảng ngữ cùng ba xúc mà không lấy làm căn bổn, bảy pháp xúc chi phần tuy ít nhưng cũng có phận sự. Lại nữa, này Tối Thắng, có khi Bồ tát phải tư duy phân biệt rõ xúc tự tương ưng, với bốn pháp xúc còn lại cũng thọ tưởng nhập. Bồ tát cũng phải tư duy, không khởi nhiễm trước. A Lại nữa, Bồ tát quán sát vô minh xúc cùng ba pháp xúc khi tự tương ưng, lại cùng mười một pháp xúc ít có phận sự cũng phải tư duy, không khởi nhiễm trước.

Lại nữa, này Tối Thắng, phi minh phi vô minh xúc khi tự tương ưng, mười một pháp xúc còn lại ít có phận sự. Lại nữa, Bồ tát với ái dục xúc khi tự tương ưng, mời một xúc ít có phận sự. Giả sử sân nộ xúc tự nhiếp trì lẫn nhau, mười một xúc ít có phận sự. Lại nữa, lạc thống (lạc thọ) xúc cùng với mười hai xúc ít có phận sự, khổ thống (thọ) xúc cùng với mười một xúc ít có phận sự; vô khổ vô lạc thọ xúc cũng cùng với mười ba xúc ít có phận sự. Lại nữa, có khi Bồ tát tự tương ưng nhãn thức xúc cùng với tám xúc ít có phận sự. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng như nhãn xúc không khác. Sắc tướng xúc cùng năm xúc làm thể, xúc cùng bảy xúc khác cùng liên đới với nhau. Lại nữa, nếu thanh xúc cùng ba xúc khác làm thể thì khi đó xúc cùng mười một xúc cùng nhau liên đới. Nếu dùng hương xúc cùng hai xúc khác làm thể, khi đó xúc cùng chín xúc cùng nhau tương liên. Có khi xúc cùng bốn xúc khác làm thể, khi đó xúc cùng mười một xúc khác cùng liên đới với nhau. Nếu dùng tế hoạt xúc cùng ba xúc khác làm thể thì xúc cùng mười ba xúc khác cùng liên đới với nhau. Có khi pháp xúc cùng hai mươi xúc khác làm thể, khi đó tất cả các xúc cùng nhau liên đới. Bậc Thượng vị Bồ tát luôn phải tư duy chỗ hưng suy, sanh diệt của nó, mỗi mỗi đều phân biệt khiến chúng không tăng giảm thì có thể tiêu trừ các trần dục kết, dùng đó có thể diệt trừ các kết, tâm cũng không chấp trước tưởng thường hằng. Bồ tát lại cũng không thấy sự sanh diệt chấp đoạn của ngã, nhân, thọ mạng.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Lục trụ Bồ tát dùng chơn đế tâm, không niệm hữu vô, liễu giải không, với các xúc biết rõ là một. Bồ tát phải biết, có khi hữu đối xúc cùng một căn làm thể, khi đó xúc khác cùng tám căn liên đới với nhau. Bậc Thượng vị Bồ tát phải tư duy chuyên tâm như nhất, mỗi mỗi phân biệt không nhiễm trước. Bồ tát lại phải quán sát quảng ngữ xúc cùng năm căn làm thể, khi đó xúc khác cùng tám căn liên đới với nhau. Bồ tát cũng phải tư duy, ý không nhiễm trước. Bồ tát phải tư duy rằng minh xúc cùng ba xúc làm thể, khi đó xúc khác cùng chín căn liên đới với nhau. Lại nữa, khi vô minh xúc tự nó làm thể thì nó cũng cùng sáu căn tương liên. Khi phi minh phi vô minh xúc tự nó làm thể thì cùng với mười một căn liên đới nhau. Ái dục xúc cũng cùng bốn căn liên đới nhau, sân khuể xúc cũng cùng bốn căn liên đới, lạc thọ xúc cùng hai căn làm thể cũng cùng chín căn liên đới nhau. Khổ thống xúc cùng hai căn làm thể, lại cùng sáu căn liên đới nhau. Vô khổ vô lạc thống (thọ) xúc cùng một căn làm thể, khi đó nó cùng vô căn liên đới nhau.

Lại nữa, Bồ tát quán sát khi nhãn xúc tự nó làm thể thì cùng chín căn liên đới nhau. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Ý xúc cùng năm căn làm thể khi đó nó cùng tám căn liên đới nhau. Sắc xúc cùng hai căn làm thể thì xúc đó cùng năm căn liên đới nhau. Thanh xúc cùng ba căn làm thể, khi đó nó cùng tám căn liên đới nhau.

Lại nữa, Bồ tát cũng phải tư duy hương xúc cùng sáu căn làm thể, khi đó nó cùng chín căn liên đới nhau. Nếu sự xúc cùng hai căn làm thể, khi đó nó cùng mười một căn liên đới. Có khi tế hoạt xúc cùng một căn làm thể thì nó cùng tám căn liên đới. Bồ tát lại phải quán tri pháp xúc cùng mười chín căn làm thể thì nó cùng mười ba xúc liên đới. Nếu Bồ tát tư duy thẩm suy trừ bỏ tham trước không tạo xúc thì có thể đầy đủ tất cả các nguyện, dùng ánh sáng vàng để trang nghiêm thân. Ánh sáng đó soi chiếu rực rỡ khắp nơi, thông suốt các pháp đều là không tịch, quán chiếu thấy rõ pháp bổn chẳng phải hữu pháp cũng chẳng phải phi pháp. Vì sao như thế? Vì pháp vô đó tức là vô sở sanh cũng vô sở diệt. Vì người nói pháp nhưng không thấy có pháp đã nói. Pháp đó chẳng phải là chơn thật, giả đặt có người nói, có người nghe. Trong có sáu thọ, ngoài có sáu nhập, năm ấm các loại và tất cả nhập. Chúng đều là hư huyễn vắng lặng, đều là giả hiệu. Phân biệt chương cú và tất cả pháp, dùng chơn đế quán cũng không có năm ấm. Bốn đại chủng và gốc hai mươi hai xúc không có đoạn diệt, cũng không phải là thường hay vô thường, cũng không kiên cố. Đó gọi là các pháp vô ngôn. Tất cả các pháp gốc ngọn đều thanh tịnh, đều là Không, đều là tịch, không có tên gọi. Tất cả pháp tánhdanh hiệu đều là tự nhiên, đều vô sở hữu. Pháp chư Phật dạy cũng như vậy, phải tu tập pháp vô xứ sở. Tu tập pháp vô xứ sở như thế nào? Đó là tu tập tâm đạm bạc, biết rõ là vô sở sanh, tu hạnh vô dục, thực hành pháp chơn đế, tập học pháp Bổn vô mà thực hành khắp pháp giới, cũng tu tập pháp Bổn tế, liễu tri chúng đều là Không. Tất cả các pháp đều vô sở trụ, không có pháp nào để tu tập, không tu tập pháp Không hành.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Lục trụ Bồ tát hiểu rõ các pháp là Không. Lại phải tu tập oai nghi lễ tiết, đã xả quá khứ, không chấp thủ tương lai, không nhớ nghĩ hiện tại, cũng không thấy ngã sở, không có pháp nào để thọ nhận, chấp thủ, cũng không thấy có chủ tể, cũng không giới hạn, không thể thấy vì cứu cánh Không khôngcùng tận. Giả sửvăn tự thì văn tự đó cũng là âm thanh giả hiệu mà thôi. Pháp vô tận này chính là pháp vô sở sanh. Do gốc tịnh đó nên ý chí đạm bạc, cũng không xuất sanh, phải rời xa chỗ sanh và chỗ vô sanh. Với pháp đã học tập cũng không có âm thanh, không thấy có tiến bộ hay lui sụt, tìm giới hạn thì không có chỗ tận cùng, cũng không phải không có chỗ tận cùng. Không khởi không diệt, đó chính gọi là đạt được bổn không. Giảng thuyết bình đẳng cũng không tưởng niệm, không gần không xa cũng không dấu tích. Đó gọi là Tập. Trong pháp và luật, tất cả các pháp đều là giả có danh hiệu. Gọi là Tập, pháp đó cũng không có chỗ trụ qua lại, không được, không mất, không nghe, không thấy. Đó gọi là thường trụ ở trong pháp giới. Pháp có thể phụng hành như thế thì gọi là Tập. Thế nào gọi là pháp? Danh từ được gọi là pháp thì pháp không thể niệm pháp, cũng không thể hủy pháp, cũng không có nạn sợ hãi, không có niệm mong cầu. Giả sử không có mong cầu thì cũng không có tư tưởng báo đáp. Nếu không nghĩ nhớ việc báo đáp thì trừ được tất cả sự ràng buộc của vọng tưởng, không trì trệ ở tương lai, không trụ ở hiện tại, không hồi tưởng quá khứ. Bậc tu tập như thế thì có thể đầy đủ tâm bình đẳng ở ba đời. Bậc trụ tâm bình đẳng ba đời thì không có ngôn thuyết. Do không dùng pháp trụ nên độ được chúng sanh. Tối Thắng nên biết, Như Lai xuất hiện giảng dạy ngôn giáo đưa các loại chúng sanh được đến bờ kia. Nhưng có Phật hay không có Phật, pháp tánh vẫn thường trụ. Pháp giới tự nhiên cũng không đổi khác. Pháp giới trụ chính là tịch nhiên. Lại vì sao gọi là pháp giới tự nhiên? Do không có ngô ngã nên gọi là tự nhiên. Có khi Bồ tát chấp trước ngã sở đó, tự cho là có sự thuần thiện của thân ý, nhận thân năm ấm, quán thấy nhân duyên của danh sắc, tư tưởng luân chuyển trong đó, ngôn từ qua lại dựa vào chỗ biết của thức, giả đặt danh hiệu, trong tâm xưng lường quán sát cứu cánh pháp bốn đại, các nhập. Khi đó Bồ tát phải tự suy tư rằng ta phải tinh cần độ cho người trong tam giới, phải làm tổn giảm bệnh dâm, nộ, si; tu tập đạo giáo, đi vào tam giải thoát môn. Bồ tát lại tư duy làm sao khiến chúng sanh đồng đạt được đạo tích, chứng đắc tứ quả trở thành bậc La hán. Hoặc phải tư duy về ý chỉ, ý đoạn, thần túc, căn, lực, thất giác chi, bát chánh đạo, không, vô tướng, vô nguyện, tứ đế, chơn như, diệt trừ trần lao. Bồ táttư tưởng đó, xem chúng sanh như quyến thuộc thì đối với pháp giới có khuyết giảm. Bậc Lục trụ Bồ tát xa rời tâm Thanh văn, Duyên giác, thệ nguyện hành hạnh nghiệp Đại thừa Bồ tát, phát nguyện rộng lớn, tâm tự nghihx: “Như ta làm Phật sự cầu đạo tuệ, nguyện trong trăm nghìn hạnh không lui giảm. Ta sẽ bố thí không hối tiếc các pháp tài, giữ giới cấm thanh tịnh để đoạn trừ cấu uế, cẩn thận hạnh nhẫn nhục để trừ bỏ sân hận, tu tập hạnh nhu hòa”. Khi Bồ tát tu tịnh tâm là để trừ bỏ bệnh cấu lười biếng, nỗ lực theo giáo pháp tu tập trọn không rời bỏ, ở nơi yên tĩnh tu tập chánh thọ, ý không loạn động, đạt được nhất tâm, từ tam muội xuất quán chiếu thực hành theo nghĩa đã quán chiếu trong định, dùng sáu độ vô cực khai hóa chúng sanh, vì cầu Phật đạo muốn thành tựu đạo quả phải do lục trụ, thành Đẳng Chánh Giác hàng phục chúng ma, chuyển pháp vô thượng độ thoát nhân dân. Vì Phật vĩnh viễn tịch tĩnh nên hiện diệt độ, thông đạt thánh tuệ, học pháp trụ địa trị tâm, diễn xướng mười đạo lực của Như Lai, mười tám pháp thù thắng bất cộng, bốn pháp vô úy, biện tài phân biệt thông đạt các pháp không chướng ngại, cũng không tưởng cầu năm ấm, không lệ thuộc sự sanh diệt của chúng. Khổ sanh, già, chết là tướng của phiền não, thức ngộ rõ là không. Đó gọi là Khổ đế. quán tri chỗ duyên khởi của năm ấm, thấy rõ vạn vật đều do tưởng cầu mà hiện hữu, phân biệt rõ tâm ý mà chẳng phân thị phi, tuy không cầu mà tâm vĩnh viễn không quên mất. Đó gọi là Tập đế. Không cùng chung với thế tục vương vấn việc ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, cũng không trụ trong đó có tâm cầu lợi dưỡng, biết rõ chúng sẽ tiêu hoại nên không sở hữu. Đó gọi là Tận đế. Muốn đạt đến Đạo để liễu tri Khổ, Tập và Tận, dùng tám mươi bốn pháp mà các bậc Thánh tôn trọng đạt trí tối thượng, trừ bỏ các duyên tạo thành lưới phiền não do dự. Đó gọi là Tận đế. Phân biệt bốn đế, các pháp hiện tiền: thiện ác, khổ vui; tâm biết rõ thế gian. Bồ tát đều hiểu rõ gốc ngọn của chúng không mong cầu. Tuy không vọng cầu nhưng cũng không chấp thủ quả chứng của mình. Đó gọi là Bồ tát tu tập Đạo đế, thấu tỏ thân là không tịch, mất đi không sanh lại, không có nạn gì làm lay động, cũng không trừ tội, không thủ, không xả cũng không đoạn hại, không có thân phi thân, không thấy pháp nào giả đặt, có kẻ tạo tác, không có quan niệm bỉ thử, cũng không có quan niệm trung gian.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Thượng vị Bồ tát luôn phải tư duy trừ bỏ hai mươi hai nạn pháp căn bổn liên đới của xúc thì có thể tu tập toàn bộ nghiệp đạo Bồ tát. Này Tối Thắng, đó gọi là bậc Thượng vị Bồ tátlục trụ địa thanh tịnh hạnh của mình.

 

 

 

Phẩm 7: QUẢNG THOI

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bậc A tỳ bà đế Bồ tát ở thất trụ địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

Đức Phật bảo Tối Thắng:

- Thường thì bậc Bồ tát đang ở địa thứ bảy, địa vị cuối cùng nhận quả do công sức khổ khó tu tập theo nguyện của mình, phải tránh xa, trừ bỏ sự chấp trước, không thấy có ngã, tuy độ chúng sanh mà không thấy có độ, cũng không thấy ngã, nhân, thọ mạng; đoạn diệt tâm chấp thường mười tám pháp bổn tánh, duy trì các nhập, xa rời các tưởng nhập điên đảo suy hao, cũng không nguyện cầu mong sanh vào ba cõi, luôn muốn gần gũi nương tựa Phật, Pháp, Tăng, Giới; niệm Thiên, Thí, Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng không thấy người nhập đạo. Tuy biết có chứng đắc không, vô tướng nhưng không trụ nơi đó, không đi vào cảnh đó. Tuệ vượt quá vô nguyện. Thân, khẩu, ý đều tịnh. Với niệm bi thương xót tất cả loài chúng sanh cũng không tự niệm. Thương xót chúng sanh nên có cái nhìn bình đẳng đối với các pháp. Pháp đó là không, là vô chủ cũng không có gì có thể nhập. Bồ tát muốn làm bậc Điều Ngự thì chớ có tâm cống cao. Vô sở sanh nhẫnquả báo ứng. Mỗi lời truyền giảng đều không dựa vào danh sắc, vĩnh viễn xa lìa tà nghiệpkhông chấp trước vào pháp nào, cầu tưởng tri diệt mà không hồi tưởng. Tự điều phục tâm ý, tuệ không bị chướng ngại, vĩnh viễn trừ bỏ tam đồ, không nhiễm vào dục. Lời của Bồ tát nói lập tứctác dụng. Bồ tát ra vào, lui tới không mất oai nghi. Tất cả tâm ý vọng tưởng mong cầu vĩnh viễn không sanh. Với các pháp chấp thọ, Bồ tát theo lý tư duy rõ ràng. Các pháp tụ tán giả hợp, biết rõ không có sai lầm. Bồ tát cũng không dùng tâm đó có ý thắng thua, luôn phải tư duy pháp tịch nhiên. Pháp tịch nhiên đó chính là pháp bất thối chuyển. Chư Phật đều hoan hỷthọ ký danh hiệu. Chính lúc đó Bồ tát được gọi là bậc Vô sở sanh tuệ. Vì sao như thế? Với tất cả pháp, Bồ tát cũng không có tâm. Pháp vô tâm đó là vô sở sanh. Pháp vô sở sanh chính là kiên cố bất thoái chuyển địa. Lại nữa, tâm của bậc Bồ tát mới phát tâm có chí ý kiên cố. Bồ tát dạo qua vô lượng nạn trong sanh tử, bố thí tất cả vật sở hữu mà không có mong cầu, luôn có tâm bình đẳng cứu giúp chúng sanh: “Ta phải độ cho tất cả chúng sanh mờ tối, dùng pháp giải thaots của Phật mà diệt độ cho họ”. Tuy độ chúng sanh mà cũng như không có người được độ. Người đạt giải thoát hiểu rõ tất cả pháp đó đều là vô sở sanh, phân biệt thông suốt tất cả pháp, luôn gia công tinh tấn không bị ngưng trệ. Trí tuệ đó phổ biến khắp nơi, đủ Nhất thiết trí thông suốt các pháp môn vi diệu. Các gánh nặng do ái không có tăng giảm, dùng tâm vô tham đoạn trừ các vọng kiến. Bậc A duy việt trí tuy ở trong ba cõi mà không khởi các tưởng. Nếu khởi tưởng chấp trước thì liền có biên tế. Người có tâm biên tế thì chấp ngô ngã, dựa vào sự bố thí của mình mong muốn phước đức đem đến sự sung túc giàu sang. Người bố thí như thế thì có pháp chướng ngại: người thí, người nhận thí và pháp bố thí, chỉ xoay vần trong lưới sanh tử thế tục, trọn không thể đạt được đạo giải thoát.

Tối Thắng nên biết, khi Bồ tát tuệ thí thì không chấp ngô ngã, không thấy người nhận thí mà sanh tâm chấp thủ. Giả sửbố thí thì cũng chưa từng khởi tưởng mong cầu có báo ứng. Sự bố thí của Bồ tát khuyến trợ tất cả, là vì cầu đạo Vô thượng chánh chơn, ba đời bình đẳng không có quá khứ, hiện tại, vị lai; hiểu rõ Pháp thân không trụ trong sanh tử; không dừng khi diệt độ, giáo hóa tất cả đều vô sở trụ, tâm tánh nhu hòa, thương xót chúng sanh nguy khốn, tâm bình đẳng rộng cứu độ tất cả chúng sanh, thân gần thiện tri thức học hỏi điều chưa biết, cầu học kinh điển sách vở vì mong giải tỏa các mối nghi, luôn nghĩ đến việc xả bỏ gia đình, không ưa thích tài sản nhà cửa, hiểu rõ tướng mong đạt đến vô tướng, quán các pháp bình đẳng, trí tuệ thông tỏ các điều chánh, diễn nói phẩm pháp vô sở tùng sanh, trừ sạch các niệm, lìa xa loạn tưởng, xả bỏ tà kiến, diệt trần lao ô uế, tịch tĩnh suy tầm chơn lý, tâm ý điều hòa, chí ý không hai, không theo pháp nhiễm ô. Nếu Bồ tát thể nhập địa này, trụ ở xứ đó thì mới đáng gọi là bất thoái chuyển, nhất tâm nhập chúng, thường dùng thần thôngkhai hóa chúng sanh, hiểu rõ các cõi Phật là không, không có sở hữu, tất cả đạt đến cứu cánh, quán chiếu thấy rõ đầy đủ căn nguyên của chúng sanh, tùy theo chỗ họ ưa thíchthị hiện.

Tối Thắng nên biết, bậc thất trụ Bồ tát tinh tấn dõng mãnh tu tập Như ảo tam muội luôn luôn hiện tiền, tùy theo tâm ý quy hướng của chúng sanhđộ thoát cho họ, hoặc đi vào năm đường để cứu hộ mà không bỏ bổn nguyện đã phát khi xưa nên thành tựu thức phân biệt các loại, các ngôn từ nói ra đều là biện tài. Bồ tát đều biết rõ mạng căn lúc trước chỗ sanh về đâu, đến khi ngồi dưới cội Phật thọ sắp thành đạo, trang nghiêm đạo tràng huân tập đầy đủ công đức, thông tỏ Phật pháp, không pháp nào không biết. Bồ tát luôn phải tư duy thoái chuyển, bất thoái chuyển, đều quán thông suốt pháp cực diệu, biết rõ biên tế mà không trụ nơi nào, cũng không có kết thúc hay sanh khởi. Bồ tát tư duy bất thoái trí nhẫn, hiểu rõ các pháp tụ tán vô cùng mãnh liệt, vĩnh viễn diệt độ mà trí nhẫn không lui thoái. Tuy ở nơi phóng dậthiểu rõ các pháp, không trì trệ trí nhẫn bất thoái. Bồ tát lại ở trong các pháp giải tri năm ấm khởi hay không khởi. Bậc bất thoái nhẫn thông tỏ tất cả pháp khôngâm thanh, tức là không có tiếng vang của âm thanh. Âm thanh đó cũng không có phát ra hay thâu vào. Bậc bất thoái trí ở trong các pháp đầy đủ các điều tốt đẹp, sáu độ vô cực biến khắp hư không, không khuyết giảm. Bậc bất thoái nhẫn tuy ở trong các pháp mà không đến, không đi; đi, đứng, nằm, ngồi không có gì hợp hay không hợp. Với bậc bất thoái trí, pháp tánh luôn thường trụ, trụ nơi vô trụ, cũng không trụ nơi hang cốc mà chấp vào nơi trụ. Bậc bất thoái nhẫn đối với các pháp đều không phân biệt tôn ti cao thấp. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp đều xả ly, đoạn diệt tâm chấp hữu thường. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả các khổ sanh tâm sợ hãi, phải biết vốn là không, cũng biết là không có chỗ trụ. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp trừ bỏ phiền não che ngăn cùng khắp như hư không nên xả trừ sáu sự. Bậc bất thoái nhẫn lại đối với các pháp làm tiêu hóa trần cấu, không nhớ nghĩ, không quên mất. Bậc bất thoái trí đối với tất cả các pháp không ứng hợp hay chẳng ứng hợp, cũng không có hợp tan, tuy dạo trong các pháp mà trừ sạch trần lao khiến chúng không còn dấu tích. Bậc bất thoái nhẫn từ trí tuệ của mình thực hành pháp, không bị Tập lôi kéo. Với tất cả pháp đều vô tri cũng không phải vô tri, không tư lự, không thấy. Bậc bất thoái trí đối với các pháp không động, không thể dao động, đạm bạc vắng lặng cũng không tưởng niệm. Bậc bất thoái nhẫn đối với các pháp diệt sạch, không có tâm thoái chuyển. Tất cả đều diệt tận không thể tìm thấy được. Bậc bất thoái trí đối với ngọn nguồn của tất cả pháp không trụ, tự tánh như hư không. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều an lập trong vùng u ẩn, tịch mịch, chỗ đến vô ngại cũng không có hoạn nạn. Bậc bất thoái trí biết pháp giới tánhthường trụ, tùy thời mà hưng khởi các pháp. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều là không tịch, không niệm, không xả, chẳng có niệm chấp trước hay không chấp trước. Bậc bất thoái trí chuyển vận các pháp đến Ba la mật, không thấy có bỉ thử, có độ hay không độ. Bậc bất thoái nhẫn không niệm các pháp sanh, già, bệnh, chết, các nhập, ưu não. Bậc bất thoái trí nhiếp thủ các pháp mà không có gì có thể đắc, chí luôn trụ ở pháp sáu độ thâm diệu. Bậc bất thoái nhẫn suy tư các pháp để tránh xa cấu uế, trọn không lầm lỗi. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp phụng tu bình đẳng cũng không có chuyển. Bậc bất thoái nhẫn không thấy chủng tánh sở tạo các pháp, liễu tri chúng là một. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp cũng không mong cầu, không có tâm sầu lo. Bậc bất thoái nhẫn cũng do các pháp cùng nhau phát khởi, trong tâm không có niệm dừng nghỉ mà sanh lười biếng trụ nơi biên tế. Bậc bất thoái trí quán rõ Bổn vô, không tiến, không lùi cũng không suy giảm. Bậc bất thoái nhẫn đoạn trừ các pháp đều quy về âm hưởng; tất cả đều như hư không, không thấy tướng mạo, không xả pháp tánh Bổn vô tự nhiên. Bậc Bất thoái trí đối với tất cả pháp không có hạn lượng, không đến, không đi, không buộc, không mở cũng không có sanh. Bậc bất thoái nhẫn trừ các uế ác, tu tập pháp cực tịnh. Bậc bất thoái trí tuyên xướng các pháp, điều hòa an định các trí, cởi bỏ kiết sử trói buộc, hưng khởi đạo tâm. Bậc bất thoái nhẫn đều vượt qua các pháp khinh mạn, cho đến các duyên báo ứng ân ái. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp vì ly danh cú nên tên Bổn vô cũng không được, không mất. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều không bỏ, không giữ, không trì trị trong bất sanh. Bậc bất thoái trí trừ bỏ tâm tham trước, pháp cứu cánh cũng không tăng giảm. Bậc bất thoái trí vì pháp căn bổn xuất sanh thù thắng nên một mình đi trong ba cõi. Bậc bất thoái nhẫn tư duy gốc khổ, truy tìm phân biệt để biết khổ từ đâu sanh. Bậc bất thoái trí phân biệt căn môn, nhân duyên của ý thức. Bậc bất thoái nhẫn với thệ nguyện trọng yếu của Bồ tát trọn không trái nghịch. Bậc bất thoái trí không dùng thân xúc thọ thai mà luôn phải hóa sanh. Bậc bất thoái nhẫn tư duy các loại ấm nhập, tánh hưng suy, trì nhập của các ấm. Bậc bất thoái trí phân biệt nội thân, khởi bất tịnh quán, từ đầu đến chân không khởi tham trước.

Này Tối Thắng, Bồ tát luôn phải tư duy, phân biệt, liễu tri tâm của bậc mới phát khởi học đạo Bồ tát vì không thoái nhẫn nên quán thấy rõ bảy pháp bổn, cũng không có tên sanh diệt, trước đoạn. Bậc thất trụ Bồ tát lại phải tư duy tám pháp bổn của Hiền Thánh đều không thấy sanh diệt, trước đoạn.

Này Tối Thắng, giả sử Bồ tát theo chỗ thọ sanh, ở đó chấp trước sanh vào Sắc giới, ngũ địa, thất, lục, tứ, tam, nhị, nhất địa. Ở địa vị cuối cùng thật có bảy pháp bổn cũng phải tư duy như thế. Trong cõi vô hình lại có thập nhất vji, đều liễu tri chúng là A duy việt trí không tịch. Vì có thể tu tập thành tựu khổ nhẫn, khổ trí, Tập, Tận, Đạo nhẫn và Hiền Thánh trí, cũng phải phân biệt bát huyền thông nhẫn, trừ năm mươi hai lậu của vô minh. Bậc thất trụ Bồ tát luôn nhớ nghĩ, y cứ nơi pháp tu tập sơ thiền, sáu Hiền Thánh trí, tu tập nhị thiềntam thiền duyên với hỷ căn. Nếu trụ trong thiền thì không thủ chứng, phải tu bảy trí vô giác hữu quán, tâm tu tập nhiếp trì không, vô tướng, vô nguyện. Nếu Bồ tát nhân nhị thiền đó tư duy bát tuệ thì không giác, không quán hỷ; với không, vô tướng, vô nguyện cũng không thủ chứng. Lại nữa, nếu Bồ tát niệm tam thiền, phân biệt thập tuệ thì không niệm giác, quán; tự thọ niệm hỷ lạc nơi không, vô tướng, vô nguyện. Khi ấy Bồ tát trú trong tứ thiền phải phân biệt mười sáu thánh trí cũng không có giác, quán; thực hành từ, bi, hỷ, xả; giữ gìn tâm ý không dứt đoạn thì có thể thể nhập bảo tạng của Bồ tát, tu tập giải biệt trí nhẫn, không có bệnh tật đau đớn, không bị năm mươi hai lậu trói buộc, tuần tự phân biệt các pháp, chỗ đến của các địa và đạt được thánh tuệ bất thoái chuyển. Nếu Bồ tát tu tập mười sáu pháp thù thắng trọn không có tâm niệm hoài nghi, tà kiến thì có thể tiêu trừ tất cả các kết. Tâm Bồ tát kiên cường, không khiếp nhược; ý niệm kiên cố cũng không hỗn loạn, vọng động, một mình đi trong ba cõi không sợ các nạn, chí như kim cương trọn không thoái chuyển. Tâm luôn nhớ tàm quý, ý có thể chiếu soi không có gì không thông đạt. Trí tuệ như huyền minh, chẳng có gì không sáng tỏ, ngôn từ biện tài trọn không ngưng trệ, đạt pháp Tổng trì chưa từng quên mất, hành hoạt nhanh lẹ không cần suy tư, ở chỗ nào cũng làm Phật sự, tâm hành bình đẳng, ý không tăng giảm, lời nói nhu nhuyến không làm thương tổn người khác, tánh không hung bạo, theo lý suy tư rõ ràng, biết chí hướng của người khác liền vì họ nói pháp phân biệt năm ấm, phân tích các nhập, quán tỏ các pháp, không pháp nào không thông tỏ, thấy khắp nhân duyên báo ứng của ba đời, biết tâm niệm người mà vì họ nói pháp chỗ đúng, chỗ sai báo ứng thiện ác, tâm tuệ sâu xa không giới hạn, biết rõ pháp phương tiện khéo léo tùy thời thích hợp để hóa độ; phải tiến hay dừng, xuất hay nhập, đi đứng đều thức tri phân biệt không bỏ sót, oai nghi lễ tiết không sai luật, ở bất cứ nơi nào cũng khởi tâm đạo Vô thượng chánh chơn.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ ở chỗ nào cũng nói pháp độ người khiến họ thành tựu đạo quả, trừ khử các nạn khiến họ được mãi mãi an ổn, trọn không sanh vào tám nơi không nhàn, đến quốc độ nào mà được tự tại, nghe lời giảng của Bồ tát liền được độ thoát. Chúng sanh tôn kính vâng theo lời dạy ấy, suy tư nghiên cứu liền được pháp bất thoái chuyển, quán tỏ thông tuệ biết pháp vô sở tùng sanh liền thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn. Bồ tát luôn phải dùng phương tiện thiện xảo nhưng cũng không tự nghĩ: “Ta có thể hàng phục sắc tưởng, tự thân ta mong cầu ngày nay đã được”. Bồ tát không sanh tâm nhỏ hẹp mà lệ thuộc chấp chặt vào quả chứng đắc. Đó gọi là pháp bất thoái chuyển của Bồ tát. Bồ tát phân biệt pháp mười hai nhân duyên đều do vô minh mà dẫn đến sanh tử, suy tầm chỗ sanh mà không thể thấy, cũng không thể quán, cũng chẳng phải hữu tướng hay vô tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải không có vô tướng. Thấu đạt gốc nhân duyên đó thì không thấy sở hành là chánh hay không chánh và phân biệt có thượng, trung, hạ; cũng không thấy tội phước báo ứng, tạo hạnh bất thiện, hiểu rõ các pháp đều vô sở sanh. Tu các pháp bổn không thấy hợp tan, đó mới gọi là chỗ nhân duyên khởi. Nếu đã không duyên thì không lo họa hoạn, lời nói cũng không họa hoạn; vô minh, hành diệt, không có già chết, lo lắng, sầu muộn, khổ não. Thức tri thông đạt, phân biệt mười hai pháp, tất cả danh hiệu các pháp hữu nhân, nhân duyên hợp tan; chẳng có ta nên vô ngã, chẳng có người nên vô bỉ; cũng không thấy có ngã, nhân, thọ mạng, sanh, già, vô thường; không thấy pháp sở nhập cũng chẳng có pháp nhập, biết rõ thức nhập đều không có gì nhập. Nhập thư thế chính là biết rõ tất cả pháp thoái chuyển hay không thoái chuyển.

Này Tối Thắng, bậc Bồ tát bất thoái nếu muốn đầy đủ các pháp phải thấu đạt vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã). Tuy biết rõ hư tịch nhưng vì chúng sanh mà không thủ chứng. Bồ tát tu tập thanh tịnh không chấp trước hữu vi, căn tánh sâu xa của chúng sanh không tận hữu vi. Hiểu rõ mười hai pháp hữu vi đó, Bồ tát hướng đạo khiến chúng sanh đều thông tỏ vô vi. Bồ tát tuy trụ ở cảnh giới vô vithực hành pháp không, vô tướng, vô nguyện; không trụ vô vi mà chấp vào chỗ chứng đắc của mình, liễu tri vô thường là pháp sanh diệt, công đức tu hành không cho là cực nhọc, quán thọ độc sanh ra nguồn cội các khổ, hộ trì chúng sanh kia tự phản tỉnh, quán các pháp diệt không có cứu cánh, quán pháp trừng tâm thấy không nơi chốn, quán vô sở sanh không thấy có sanh, quán niệm chúng sanhtrọng trách của mình; quán lậu, vô lậu không diệt tam giới, thực hành Tứ đẳng tâm, thương mến hậu học, ý thường không chấp trước, không bỏ đệ tử theo đạo Duyên giác.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát thanh tịnh ý chí theo lý tư duy, tùy theo chỗ ưa thích của người khác mà vì họ thị hiện phù hợp với chúng sanh trọn không trái nghịch nên được tất cả nguyện. Do công đức trí tuệ nên tâm Bồ tát trong sáng, mắt nhìn thấy sắc thì biết rõ sắc kia vốn là Không, tu tập nhẫn nhục không khởi loạn tưởng. Nếu có kẻ sân hận mắng chửi, Bồ tát chỉ niệm pháp đó, thông tỏ nội ngoại không nên không sở hữu, cũng không khỏi nghi ngờ mà biết rõ là Không. Bồ tát không tự thấy thân mình và thân người khác. Vì sao như thế? Với A duy việt trí, toàn thân Bồ tát đều hoan hỷ. Nếu có mong cầu thì tâm Bồ tát vui mừng gấp bội, không trái nghịch với tiền nhân, không có tâm tham tiếc. Nếu có người xin vợ thì liền bố thítâm không dao động. Từng lời nói của Bồ tát chỉ vì đạo Vô thượng chánh chơn, không quá ân cần khuyên người khác tinh tấn tu tập để làm Kim luân vương, Đế Thích, Phạm vương; vì mọi người nói pháp vi diệu, khiến họ phát tâm học đạo Bồ tát. Bồ tátthần thông dạo xem khắp mười phương cõi Phật, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn. Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới đều đầy các báu, tâm Bồ tát trọn không khởi tưởng chấp trước, tất cả những gì mắt thấy đều vô sở hữu, cũng không nghĩ là ta sở hữu. Tâm ý thanh tịnh không tưởng cầu sắc. Vì Pháp thân không thể thấy nên thấy mọi người như pháp giới trụ liền được đầy đủ đạo nhãn thần túc. Do được tuệ nhãn nên biết những gì sở hữu đều là vô sở hữu. Tiệm ngộ pháp tánh chơn tế như thật thì đắc Phật nhãn và mười tám pháp bổn, pháp nhãn phân biệt thông đạt vô ngại. Đầy đủ mười lực,vâng giữ nguyện lớn thì đạt đến vô vi, cảnh giới bất tử.

Tối Thắng nên biết, pháp Bồ tát tu tập cũng như đấng Nhất thiết trí, do trụ trong pháp đã tu tập nên vô sở trụ, thông tỏ pháp trụ đó thì trụ vô sở trụ, học cũng như vô học. Bồ tát luôn niệm pháp không tịch, tùy thuận các pháp không có trái nghịch, không vì tùy thuậnbình đẳng, không vì trái nghịch mà rơi vào biên tế, lại không tập theo tà rơi vào cảnh giới ma, cũng không học Đại thừacầu lợi. Vì vậy nên Bồ tát không rời bỏ pháp mà kiên tâm học pháp. Vì không rời bỏ pháp nên không phạm sai quấy, vì tự biết không còn tạo tác nên có thể chuyên tâm chế phục năm ấm, không còn dong ruổi liền vượt qua cảnh giới ma, không thể ở giữa đường quên lãng tâm Bồ tát.

Bấy giờ ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:

- Vì sao gọi là bậc bất thối chuyển Bồ tát trụ vô sở trụ, học cũng như vô học?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc thất trụ Bồ tát trụ trong ba cõi, không nhiễm ba cõi cũng không có pháp để tu tập. Không học Tập, đó gọi là “vì bên trong”. Không cầu Tập, đó gọi là “vì bên ngoài”. Tuy Tập bên ngoài nhưng không tùy thuận theo đệ tử, quán chẳng có gì học cũng chẳng có duyên học. Điều gọi là Tập, sở học trong sanh tử, là pháp tu tập của Bồ tát, chính là học vô tri. Tập mà không có gì để tập, học mà chẳng có gì để học. Tập là danh sắc, Tập là nhân duyên, Tập là ngã kiến, Tập là ái, Tập là ngã sở cũng chẳng phải ngã sở. Tập tuy là tham nhưng học Tập để bố thí. Tập tuy phạm giới nhưng học Tập để hộ giới, lại trong khi trì giới không tự sanh cống cao. Tập dù là sân tưởng nhưng học Tập để nhẫn nhục. Tập là giải đãi nhưng học Tập để tinh tấn. Tập là loạn tưởng nhưng học Tập để được nhất tâm. Tập là vô minh, học Tập để có trí tuệ. Tập không quả báo nhưng học Tập để có công đức. Tập là nghiệp thế tục nhưng học Tập để có đạo nghiệp. Tập là vô thuyết nhưng học Tập để đắc độ.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc thất trụ Bồ tát tập vô sở tập, học vô sở học. Đến vô cực tuệ thì thấy tất cả các pháp không có được mất cũng không có pháp nhập hay không nhập, không thể nương vào sắc nhập cho là có nhập. Thống (thọ), tưởng, hành, thức cũng như vậy, không từ pháp sổ tức mà đến hữu cực, cũng không từ phi sổ tức pháp mà đạt đến vô cực cầu Nhất thiết trí. Cần phải biết trụ như thế. Bồ tát không tự niệm pháp, nói là ta tu tập. Hiểu rõ như vậy là Nhất thiết trí. Bồ tát muốn cầu Nhất thiết trí phải từ trong tứ đại sở tạo sắc mà cầu. Vì sao như vậy? Vì chấp thân là chướng ngại thì phải thọ tứ sanh, không chấp thân thì xa lìa ái dục. Chỗ Bồ tát trụ là chỗ trụ của trí như thật, vì vượt qua các cảnh giới nên trụ vô sở trụ, không chấp có sanh; không phải là sanh từ thai mẹ. Nếu thấy sanh thì tất cả đều chẳng phải sanh. Vì biết rõ vô sanh nên có tên là vô sanh tuệ. Quán pháp bình đẳng đó chính là pháp bình đẳng vô cực, pháp Đại thừa bình đẳng vô hạn lượng.

Khi Đức Phật giảng pháp này, mười một na thuật trăm ngàn vị thiên tử đều được vô sở tùng sanh pháp nhẫn, bảy vạn hai ngàn người đều phát đạo tâm vô thượng bình đẳng.

Bấy giờ vị Đại Thanh văn thủ tọa, Trưởng lão Ca Diếp cùng Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, A Na Luật, Ly Việt, Nan Đầu Bà La, Phân Nậu Văn Đà Ni Phất, Tu Bồ Đề… gồm năm trăm vị La hán từ chỗ ngồi đứng dậy, ca sa tề chỉnh, gối phải sát đất, cúi đầu mặt sát đất trước chân Thế Tôn, đồng buồn bã cất tiếng than khóc nức nở bi thương rồi gạt lệ đến trước Đức Phật, thưa:

- Chỗ thấy biết của chúng con thật thiển cận, mãi mãi mất đi thánh chủng. Phật đạo sâu xa huyền diệu mà chúng con không được ân thấm nhuần. Nếu có kẻ nam, người nữ phàm phu ở trong ba đường ác muốn cầu đạo Nhất thiết trí thì phải phát tâm tối thượng mong thành tựu Phật quả. Vì sao như vậy? Như hôm nay Thế Tôn đã dùng trăm ngàn pháp giảng cho chúng con. Chúng con không thể thành tựu phát Bồ đề tâm nên trong lòng tự hối hận mãi mãi không thể đạt được tâm ấy. Nay tuy được mọi người gọi chúng con là La hán có sáu pháp thần thông vi diệu, đức vượt tam hữu, nhưng chúng con trong trăm ngàn vạn kiếp không nhơ bổn nguyện, tạo năm tội nghịch rơi vào ngục Vô trạch, mong mỏi diệt tội để có thể ra khỏi, dần dần tu tập giải thoát đến diệt độ, được phát tâm thành tựu đạo Bồ tát. Nay chúng con các căn đã suy yếu già cỗi vô tác dụng mới nghe được pháp như vậy. Vì sao? Vì chúng con đã tiêu hoại hạt giống Bồ tát. Chúng con buồn khóc than thở vì không thể thành tựu đạo Bồ tát. Các loài bò, bay, máy, cựa có hình tướng, hoặc một chân, hai chân cho đến trăm ngàn chân đều nương nơi đất để sinh sống, ăn ngon, mặc các loại y phục đẹp láng mịn. Các loài chim bay trên trời cũng nương nơi đất mà sinh sống. Chúng con tuy được đạo nhưng chỉ nuôi dưỡng thân tứ đại. Chúng con cùng loài cầm thú có gì khác nhau. Bọn chúng tuy có nhiều cấu tạp nhưng dần dần thoát được thân cầm thú, đầy đủ các đức thì thành tựu đạo Đại thừa. Chư Thiênloài người đều đội ân giải thoát. Chúng con tự trách tâm chúng con quá nhỏ hẹp không dám nghĩ đến việc đạt đạo tối thượng nên đều sầu não, hối hận vì việc tu tập trước đây.

Lúc đó trong pháp hội, một ngàn bảy trăm người chưa chứng đạo tích, lúc trước tu tập theo pháp Thanh văn, Duyên giác đều phát tâm kiên cố cầu đạo vô thượng, ngay tại chỗ ngồi liền được pháp nhẫn vô sở tùng sanh. Nhân đó Thế Tôn giảng nói pháp lớn sáu độ, dạy pháp Tứ đế: Khổ, Tập, Tận, Đạo; Tứ ân, Tứ đẳng khiến tất cả chúng hội đều phát đạo tâm.

Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất nương oai thần của Đức Phật, bảo với chúng Bồ tát đến trong hội:

- Thuở xưa, lúc tôi mới tu tập hoặc từ nhất trụ địa đạt đến ngũ trụ địa, lại thối lui mà trở lại sơ trụ địa. Lại từ sơ trụ địa đạt đến ngũ, lục trụ địa. Như thế trải qua suốt sáu mươi kiếp, trọn không thể đạt đến bất thối chuyển. Tôi khởi lên niệm hối hận nhưng cũng chẳng đạt đến cứu cánh. Cho nên các vị nên giữ tâm như bậc tịnh giới, sở nguyện chắc chắn đạt được mà không phạm tục, dùng pháp trí tuệ thì không pháp nào không soi sáng. Bồ tát vì trụ nơi bất thối chuyển địa nên không chấp thí hay không thí, cũng không thấy trì giới, nhẫn nhục, tinh thấn, tuệ Nhất thiết trí; cũng không theo cõi Dục, Sắc, Vô sắc; cũng không từ thân, khẩu, ý hành; đối với tất cả pháp đều không chấp trước, biết chúng đều ảo hóa như ngựa hoang, tiếng vang thì chỗ trụ đều rốt ráo thanh tịnh, không có ngô ngã, thọ mạng dài ngắn, không thấy danh hiệu đạo tục thị phi; cũng không tự nghĩ rằng ta nên cầu pháp này, không nên cầu pháp này; không có tưởng buồn vui, vô duyên vô tác; cũng không có sở sanh hay sở kiến, cũng không có xứ sở. Bậc khởi niệm như thế thì không có dục, nộ, si; học pháp không tăng giảm, không đọa ác thú, có tâm thoái chuyển. Muốn thành tựu Phật quả thì phải tu tập như thế. Vị ấy cũng không tạo tội, không tạo phước, không có thành đạo cũng không phải không có thành đạo, không có tưởng hay vô tưởng, thấy các pháp đều bình đẳng không có hơn kém.

Khi ngài Xá Lợi Phất nói những lời đó, lại có vô ương số trăm ngàn chúng sanh đều phát đạo tâm Vô thượng chánh đẳng. Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng đến trước Đức Phật thưa:

- Thế nào gọi là tất cả các pháp đều ảo hóa như ngựa hoang?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Ví như tưởng có người đến mà không thấy có chỗ để người đi, người đến, ngộ rõ các pháp cũng như vậy, không có chỗ đến, không có chỗ đi, trụ trong tánh tự nhiên, không thấy biến dị. Các pháp vô tác cũng không có ai tạo. Thân Như Lai, một là Hóa thân, hai là Pháp thân. Pháp thân thì không thể thấy cũng không có hình tướng. Hóa thân cũng như hư không vô hình. Này Tối Thắng, đó chính là gốc tu hành đạt đến A duy việt trí, có thể ở trong đại chúng cất tiếng rống sư tử, tu tập trí tuệ, không ai có thể theo kịp. Công đức huân tập thuần thục thì các pháp thanh tịnh vô cùng thâm diệu không thể nghĩ bàn, cao ngất không lường. Này Tối Thắng, bậc Đại sĩ bất thoái trụ ở thất địa thanh tịnh hạnh của mình như thế.

 

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14644)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11697)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12644)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10185)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15160)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10952)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10397)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12351)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16283)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14140)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11650)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14649)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11910)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16693)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11482)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12629)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11243)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11935)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51773)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15337)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13865)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12667)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13110)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12354)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12521)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54050)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14286)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9849)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57635)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14357)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13623)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15291)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17367)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13220)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11829)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13380)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14560)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12370)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12051)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11963)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12417)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13234)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25384)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12101)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14423)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11748)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41949)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28177)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38586)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14619)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12593)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16118)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant