Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 5

25 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 9960)
Quyển 5


KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0309

Nguyên tác Hán ngữ: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Lương Châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Tâm Khanh

--- o0o ---


QUYỂN V


Phẩm 12: THẦN TÚC

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn, như thế nào lại nói Bồ tát với thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ có tiến, có thoái? Lại có Bồ tát từ khi mới phát tâm đến khi thành Phật chưa từng ở trong bào thai cha mẹ mà luôn được hóa sanh, dùng thần túc dạo đến các cõi Phật, cũng không có ý tưởng về quốc độ? Kính mong Thế Tôn phân biệt rõ ràng để các vị học đạo Bồ tát ở đời tương lai biết được hướng tu tập.

Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy chú tâm khéo suy tư! Ta sẽ vì ông phân biệt rõ ràng.

Ngài Tối Thắng bạch Phật:

- Con vui muốn nghe.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Nếu có Bồ tát tu tập thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định nhưng tâm niệm có tưởng, với tất cả pháp khởi tâm chấp tưởng, hoặc tưởng có thế giới, không có thế giới; tưởng thấy có chúng sanh, không thấy có chúng sanh; tâm thấy có quá khứ, vị lai hay không có quá khứ, vị lai; ý thấy có hiện tại hay không có hiện tại; tâm thấy có chấp đoạn hay không có chấp đoạn thì đó là sự thành tựu căn lực của bậc ở Sơ địa. Vị ấy phải tương ưng với mười pháp. Mười pháp đó là gì? Đó là thần đức không thể nghĩ bàn của Như lai, nhất tướng như thế không bị chướng ngại, không thấy chấp trước danh hiệu Chánh giác, không thấy siêu độ tất cả các pháp. Với ba thừa hiện quán bình đẳng, không thấy có hướng tu tập. Không chấp thế giới biết rõ tên gọi không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó gọi là danh tướng, gọi là Nhất thiết trí cũng có tên là Pháp giới. Vì tâm duy trì niệm hướng đạo nên hộ trì ý chí, không làm tổn hại tâm mình. Như vậy, này Tối Thắng, các pháp đó cũng không có xứ sở, đến cũng không biết từ đâu đến, đi cũng không biết từ đâu diệt. Bồ tát tu tập giới, nhẫn nhục, tinh tấn cũng như thế. Giới cũng là vô giới, nhẫn cũng là vô nhẫn, hiểu rõ tinh tấn không thấy có tinh tấn. Nếu người trì giới luôn phòng hộ giữ gìn chỗ sở đoản của họ, giả sử thấy hủy giới không sanh tâm hận, thấy giới viên mãn đầy đủ không tự sanh tâm hoan hỷ. Đó là Bồ tát thành tựu giới. Bồ tát tu tập tâm nhẫn không tăng giảm. Có người đến xin các bộ phận trên thân thể Bồ tát, Bồ tát giữ tâm kiên cố không tì vết. Bồ tát đầy đủ thí, giới, nhẫn, tinh tấn, khéo tư duy trí tuệ, đoạn trừ niệm chấp tưởng, tâm không phân biệt, không khởi, không diệt, khởi vô số niệm; với các tội phước bình đẳng vô nhị. Lại phải tư duy Tam hướng Phạm đường không, vô tướng, vô nguyện; không thấy nghĩa không hợp cùng tướng, nguyện cũng không thấy tướng, nguyện hợp cùng Không. Không thấy vô nguyện hợp cùng Không, tướng. Không thấy Không, tướng hợp cùng với vô nguyện cũng chẳng phải không hợp. Không thấy vô tướng cùng hợp với Không, vô nguyện. Không thấy Không, vô nguyện hợp cùng với vô tướng cũng chẳng phải không hợp. Quá khứ, tương lai, hiện tại cũng như vậy. Lại nữa, này Tối Thắng, thần túc của Bồ tát chẳng phải do tư lự mà có thể biết, cảnh giới loài rồng thì không thể nghĩ suy, chẳng ở thế gian cũng chẳng rời thế gian, qua lại tuần hoàn đều không trụ xứ. Các pháp nguyện, tướng cũng như thế. Bồ tát thuở xưa tinh tấn tu tập đạo quả, thánh đạo tự nhiên không thấy giới hạn. Nếu có người đến cầu xin giải quyết mối nghi thì ở trong pháp Hiền Thánh chính là tự tổn hại. Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát trì giới, nghe pháp, trí tuệ, bố thí, sáu loại pháp thanh tịnh, thông đạt nghĩa lý sâu xa, tu thành Phạm hạnh. Nếu có Bồ tát tu tập thành tựu đức bổn, đạt được pháp yếu sâu xa vi diệu này, thủ diệt độ nơi Niết bàn vô dư, dạy dỗ chúng sanh pháp không biên tế, không quá khứ, vị lai thì mới gọi là đạo. Bồ tát thị hiện vào trong cảnh ái dục, quán sát căn tánh rồi vì họ nói pháp, hoặc nhập Diệt tận định, chấm dứt hoàn toàn hơi thở ra vào, thân hình bụng trương to tuôn ra các vật bất tịnh. Chúng sanh trông thấy khởi niệm tưởng vô thường. Bồ tát lại quán chúng sanh tâm định hay loạn tùy nghi thị hiện khiến họ được giải thoát, hoặc dùng oai nghi, các pháp đạo phẩm giáo huấn tất cả chúng sanh, trừ bỏ gánh nặng âu sầu của họ. Năm pháp thần trí là nghiệp của Bồ tát. Mười tám pháp vi tế là nghiệp của Bồ tát. Mười sáu pháp kim cang là nghiệp của Bồ tát. Hai mươi mốt giới mà các bậc Hiền Thánh đã tu tập là nghiệp của Bồ tát. Dưới cội thọ vương tư duy ba mươi bốn pháp là nghiệp của Bồ tát. Đối với thí, giới… không thấy ngô ngã là nghiệp của Bồ tát. Phân biệt mà không trụ quá khứ, hiện tại, vị lai là nghiệp của Bồ tát. Như vậy, này Tối Thắng, cảnh giớiBồ tát tu tập thật vô lượng. Biết rõ quả báo mới được hướng đạo, có các duyên đó đến thì theo nhân duyên hợp. Âm thanh từ hư không đến nhĩ thức nghe biết. Ngôn giáo sách vở chẳng phải chơn thật, theo duyên hợp thì có thể theo duyên tan mất. Duyên hợp thì hợp, duyên tan thì tan. Tan không tự biết là từ đâu tan, tụ không tự biết là từ đâu tụ.

Lúc đó ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

- Lành thay! Lành thay! Thế Tôn giảng nói pháp này, phân biệt nguồn cội các loại nhân duyên để chư Bồ tát vận áo giáp đại công đức, khiến vô số người phát tâm Đại thừa, khen ngợi chí hướng, việc làm của Bồ tát và giảng nói nghĩa lý mười pháp hiệu công đức của Như Lai. Các vị trong hội đều được nghe biết trí nghiệp không ngăn ngại của Như Lai. Nếu có Bồ tát nghe được pháp này, các ấm cái suy vĩnh viễn bị tiêu trừ, lại khiến cho tất cả chúng sanh đều thông hiểu. Bạch Thế Tôn, chúng con từ hôm nay xin vâng theo giáo huấn hướng đạo của Như Lai, tu tập thuần thục các hạnh, không dám phóng dật, điều phục tâm ý, bố thí; luôn phân biệt tất cả văn tự, nghĩa lý câu, đoạn đều thông tỏ như thấy trước mặt, tâm niệm bình đẳng như hư không che phủ, làm việc với tâm từ mẫn thương xót tất cả, tùy theo căn tánh mà khai đạo giáo hóa cho chúng sanh, luôn dùng tứ đẳng (tâm) hộ trì chúng sanh khiến họ được dùng pháp cam lộ, trừ sạch tất cả sân hận kiết sử, xả bỏ mười pháp, lìa xa ba độc, nhổ tận chín pháp tưởng làm não loạn tâm, làm cho tử ma, gió bụi trần làm tổn hại tâm người vĩnh viễn không còn, phân biệt gốc của mười hai nhân duyên từ si duyên hành cho đến sanh, già, chết. Lại phải tư duy pháp duyên khởi diệt. Si diệt thì hành diệt cho đến già, bệnh, chết cũng như vậy. Tùy theo chủng loại quán sát nguồn cội của họ sau mới cho thuốc, giữ tâm kiên cố quán sáttâm niệm suy tư, việc làm thiện hạnh của người rồi lại vì họ nói pháp không để tâm họ dong ruổi, các tưởng uế trược không hưng khởi lại.

Khi ấy Thế Tôn lại dạy:

- Này Tối Thắng, vì vậy Bồ tát lập phương tiện giảng dạy khiến họ được nhiều lợi ích, được nhiều thành tựu, xem chúng sanh như mẹ thương con, tùy thời giáo dưỡng khiến họ không có tâm tăng giảm, luôn có chánh kiến không theo dị học. Bồ tát ở trong chúng như sư tử vương tư duy bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong trong thân. Địa động thì thủy yếu, thủy động thì hỏa yếu, hỏa động thì phong yếu. Bốn pháp đó động thì các tình suy yếu, thần thức lìa khỏi thân này. Lúc đó thân quyến có ai để cậy nhờ, chỉ có pháp lành mới có thể nương tựa mà thôi. Bồ tát lại phải tư duy quán sát sâu xa pháp tam muội chánh định mà chư Phật thể đạt, thuận theo pháp bổn đó thì không mất oai nghi, phân biệt hạnh hữu lậu hay vô lậu, vượt qua tám pháp nghiệp của thế gian, không để tâm ô nhiễm bởi lợi, suy, hủy, dự; quán biết ngã, nhân, thọ mạng đều không xứ sở. Tối Thắng nên biết, nếu có chúng sanh sinh tâm, kiến điên đảo đến vấn nạn về pháp tắc, hạnh Bồ tát thì phải theo từ một kiếp đến trăm ngàn kiếp nghe bậc Bồ tát nhất trụ giảng nói. Ngôn từ của Bồ tát trôi chảy không thể bị chướng ngại. Vì vậy nên biết hạnh của Bồ tát không ai có thể theo kịp, không thể dùng ví dụ để so sánh. Các pháp như vậy đều do thần túc biến hóa của Bồ tát phương tiện hiện ra, đi đến mười phương lễ bái, cung kính cúng dường chư Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Bồ tát đến nơi nào cũng vì chúng sanh mà xiển dương đạo pháp, trừ sạch tất cả nạn xưa nay, những người có tâm oán hận gặp khổ não thì tự nhiên tiêu trừ. Vì vậy nên số người trở thành quyến thuộc không biết bao nhiêu. Họ đều do trừ bỏ tâm kiêu mạn tự đại mà được. Có khi Bồ tát ở trong đại chúng diễn thuyết, thanh âm trôi chảy như Phạm âm làm cho ba bộ chúng đạt được chí nguyện của mình, hướng dẫn họ đi vào cõi giải thoát hoàn toàndiệt độ. Ví như rồng lớn làm cho bầu trời không mây bỗng mưa xuống khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trăm loại cây cỏ đều được nương nhờ thấm ướt, theo thời mà phát triển sanh sôi. Bậc Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, diễn xướng một âm thanh, dùng nước pháp vị giải thoát truyền bá giảng dạy đạo pháp khiến ba ngàn thế giới đều được độ thoát. Người được giải thoát chí như kim cương, trong ngoài thanh tịnh. Bồ tát lại dùng cấm giới, pháp luật thần túc tự trang nghiêm thân như đeo chuỗi ngọc anh lạc, các tướng hiện rõ như núi vàng chói. Bồ tát đi đến đâu cũng khiến người nơi đó được thỏa nguyện. Người nghe pháp trọn lòng tin không nghi ngờ. Bồ tát lại làm cho chúng sanh thể nhập Giác ý tam muội, khiến cho loài hữu hình bò, bay, máy, cựa trong ba ngàn đại thiên thế giới tự nhiên biết được túc mạng. Chúng sanh đều ngộ rõ nguyên nhân căn bản của Tập, biết được nguồn cội của khổ. Do đó mà họ đều phát tâm Bồ tát, vâng theo tu tập chánh định của Như Lai.

Khi ấy chúng sanh nghe pháp dùng tâm tinh tấn nương oai thần của Phật hiểu rõ sở hành quá khứ, tùy theo sở hành quá khứ xa gần đều tới đạo tràng thanh tịnh vi diệu. Người đã đến đạo tràng thì chí hướng kiên cố, tâm không sợ hãi, không còn trở lại sợ hãi, ý chí hướng theo giải thoát hoàn toàn. Chúng sanhcăn tánh lanh lợi hoặc trải qua một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày thì xả bỏ thọ mạng của mình, mạng chung đều sanh lên cõi trời. Người có đức hạnh thuần thục không khuyết giảm thì sanh đến cõi Phậtmười phương. Chúng sanh sinh lên cõi trời tự mang vô số các loại thiên hoa, tạp hương và các vật cúng dường, đều do tự nhiên hiện ra, đi đến rải trên đại chúng và các vị đến nghe pháp để cúng dường. Hoa từ trên hư không rải đều không rơi xuống đất mà hóa thành đài báu và giao lộ báu tự nhiên. Họ dùng âm thanh lớn khen ngợi:

- Chúng con có thiện lợi, có phước may mắn mới có thể gặp được Giác ý tam muội làm cho chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới đạt được sở nguyện. Nhờ Thế Tôn, chúng con mới mau được thiện lợi như vậy.

Chư Thiên lại dùng hương hoa cúng dường riêng cho Bồ tát Tối Thắng, thưa:

- Nay nương nhờ ân đức từ mẫn (của Bồ tát) mà chúng con mới gặp được Giác ý tam muội này, làm cho toàn thân chúng con đều được an lạc vui vẻ. Nếu có chúng sanh được nghe pháp tam muội Giác ý mà không trọn tin thì phải biết người đó chính do trong đời quá khứ không may mắn được nghe pháp tam muội này.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các vị đến nghe pháp trong hội:

- Thuở xưa, cách đây vô số A tăng kỳ kiếp, Ta do tu tập tam muội này nên hôm nay được thành tựu quả A duy tam Phật. Hằng hà sa chư Phật quá khứvị lai đều phải tu tập Giác ý tam muội này. Oai đức của tam muội này không thể suy lường.

Lúc ấy người nghe tên tam muội đó đều phát tâm Đại thừa Bồ tát không thể tính kể. Bốn bộ chúng đều đạt được Định ý tam muội. Lại có trăm ngàn người đến nghe pháp trong hội ngay trên tòa ngồi phát tâm Vô thượng chánh chơn. Bấy giờ Thế Tôn lại phóng ánh sáng từ Giác hoa định ý tam muội chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Các loài ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ tiêu trừ khổ não đều được sanh trở lại cõi người, tự biết mạng đời trước. Khi ấy có bốn ức chúng ngồi trên tòa thấy điềm lành như vậy, mỗi người đều sanh tâm nhàm chán họa hoạn, tâm tự nghĩ: “Đã sanh thì phải có chết, tất cả đều do nhân duyên. Chết rồi lại sanh níu kéo buộc ràng không dứt. Dâm dục là cội gốc đều do tham ái. Chúng ta nguyện sanh về cõi Cực Lạc vô dục thì mới được tu tập Giác ý tam muội và Định ý chánh thọ đó”. Khi ấy Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đó nên bảo họ:

- Cách đây vô số cõi Phật về phương Tây có Đức Phật tên Vô Lượng Thọ. Cõi Phật đó thanh tịnh không có dâm, nộ, si, đều đồng nhất tâm, đều từ hoa sen sanh không phải do nhân duyên tình dục của cha mẹ sanh. Các vị ở cõi đó đều là đồng nam không có nữ nhân, không có đại tiểu tiện, dùng pháp lạc thiền duyệt không có thức tưởng niệm làm thức ăn, cung kính nhau nghĩ như là cha mẹ. Các vị muốn sanh về đó thì nên phát thệ nguyện.

Bấy giờ bốn ức chúng ở trên tòa ngồi đồng phát tâm nguyện sanh về cõi đó. Khi ấy Thế Tôn từ chánh định Như kỳ tượng phóng ánh sáng Giác ý tam muội chiếu đến cõi Phật kia để bốn ức vị đó được thấy Đức Như Lai Thế Tôn và các vị Bồ tát hóa sanhcõi Phật ấy. Cõi đó rộng lớn đều do các loại báu vàng, bạc, lưu ly tạo thành, không có ba đường ác, nỗi khổ của tám nạn. Bốn ức người đó thấy được cõi Phật xong, tùy theo thọ mạng đều đồng sanh về cõi Phật đó, được tu tập Giác ý tam muội. Đó là do thệ nguyện đã phát lúc trước nên được như vậy. Sức oai thần cảm hóa của Giác ý tam muộicông đức như thế.

  

 

 

Phẩm 13: CUNG KÍNH

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:

- Vì sao nói các bậc Bồ tát luôn theo Phật nghe pháp, khởi tâm cung kính, ý hân hoan không thể tự kềm chế?

Đức Thế Tôn dạy:

- Pháp yếu này cũng như thuốc của thần Na Đề. Nếu người nào uống thuốc thần này, tâm thần luôn tự nhiên hân hoan, nhu hòa, trừ dâm, nộ, si; không còn các bệnh. Người nghe nghĩa lý một câu của pháp này thì đạt đến Đại thừa, ra khỏi vọng tưởng, lìa bỏ đường ác. Người chưa đạt được chí nguyện tự tại sẽ đạt được, các căn đầy đủ thường không khiếm khuyết. Nếu có người tâm ý chuyên nhất siêng năng tu tập chánh hạnh, không có niệm tưởng khác, thuận theo pháp này thì các bệnh trần cấu tự nhiên tiêu trừ. Nếu vị thiện nam, thiện nữ được nghe pháp tin tưởng, sanh tâm cung kính Chánh pháp, ngồi dưới cội cây thân thẳng nhất tâm tư duy, giả sử tâm ý đảo loạn thì phải tu tập lại từ đầu. Nếu ý không định thì phải tự điều phục, tự trách: “Có gì mà không đạt được, không trừ được tâm ác. Cần khổ trải qua nhiều kiếp mà không kiến đạo. Tinh tấn đến ngày nào mới thành tựu đạt được vô lậu”. Họ do pháp bình đẳng nên được độ thoát. Như vậy, này Tối Thắng, người thuận theo pháp này không ở trong ba cõi cũng không lìa ba cõi. Người ấy lại dùng ba ngôi báu, bảy pháp cam lộ sáng suốt cấm chế để tự phòng hộ, luôn hối hận về lỗi quá khứ, không tạo tội ở tương lai, sẽ đạt được mười tám pháp (bất cộng) của chư Phật, bốn pháp vô sở úy, năm căn, năm lực, thiền định giải thoát. Vị ấy thuyết pháp bình đẳng không đối đãi, thân sắc màu hoàng kim, tướng tốt tự trang nghiêm, có các loại công đức như ngọc anh lạc, giảng pháp âm thanh vang khắp mười phương. Này Tối Thắng, đó là nói bậc Bồ tát Đại sĩ phải đạt được mười pháp công đức. Mười pháp đó là gì? Nghe chánh giáo, ý chuyên chú tư duy. Theo thiện tri thức cũng không sanh tâm kiêu mạn trái nghịch. Không có tâm tự đại hay tự ti mà luôn giữ tâm trung đạo. Thực hành bố thí trọn không hư dối. Theo chơn lý thể nhập trí tuệ sâu xa, ý cũng không loạn. Hoan hỷ bố thí, tâm vui mừng không hối hận. Đối trước người nhận thí không có tâm do dự chọn lựa. Thấu đạt biên hạn của khổ, tuyên nói pháp vô ngã. Tự đạt thần thông, không bỏ phương tiện quyền xảo. Đó là đạt được mười pháp công đức.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Nghe pháp tâm chuyên chú

Thuận đạo, không tưởng, nguyện

Nương nhờ thiện tri thức

Bố thí không hối hận

Thương người như thương mình

Cao thấp theo nhan sắc

Niệm cung kính nhất tâm

Đạt mười phước công đức.

Tối Thắng nên biết, phương tiện khéo léo thích hợp với trí Ba la mật thì đạt được pháp Đại thừa Phương đẳng của Bồ tát. Như Laithương xót người đời nên xuất hiệnthế gian, thị hiện bao nhiêu pháp tu tập không giống nhau, hoặc thị hiện Thanh văn, Duyên giác thừa, hoặc tự ẩn nơi hang sâu, khe núi, hoặc kinh hành tự chế phục tâm mong cầu, quán xét trong thân không vật gì để đáng tham. Do vậy nên các vị phải tự tư duy đó là các pháp mà Như Lai khai hóa. Người tin tưởng lời Ta nói, ghi nhớ trong tâm thì ở trong pháp hiện tại liền được diệt độ. Tuy hàng dị học không cải đổi chánh hạnh như các vị hãy vì các kẻ dị học ấy mà trổi lên pháp cổ, giảng diễn giáo pháp. Pháp đó không có tưởng cũng không có các niệm, làm cho chúng sanh dứt hết các lậu. Các bậc như thế không thể tính kể, kính mộ nghe kinh số đó không chỉ một loại. Người bỏ chơn theo ngụy cũng nhiều vô số, hiện tại trước mắt số đó thật khó lường. Hoặc có Bồ tát chuyên quán pháp môn giải thoát, tuy hạnh tu đầy đủ nhưng ham thích diệt độ. Vì sao? Vì họ chưa hiểu rõ pháp phương tiện quyền xảo nên gặp nạn khó khăn. Như Lai dùng thần túc hướng đạo khiến họ biết rõ nhưng họ chỉ tự giác ngộ chẳng phải hạnh Bồ tát nên lại bị ma Ba Tuần quấy nhiễu, từ đó thối thất trở lại phàm phu. Tối Thắng nên biết, Như Lai ngày đêm quán sát thông sốt quá khứ, hiện tại, vị lai ai có căn tánh ám muội, thối thất, không tinh tấn; ai lúc trước tinh tấn tu tập đến Bồ tát vị nhưng lui sụt thì nhiều như cát sông Hằng, tiến bộ thì ít như sợi lông. Tâm họ cũng tự biết nhưng không có thần thông. Thường thì người mới phát tâm, tâm ý rất kiên cố nhưng nếu phải thành tựu đoạn trừ căn gốc tâm chúng sanh, tu tập pháp định giải thoát không sanh diệt thì họ lại nghi ngờ cho là chẳng phải chơn thật. Như Lai phải dùng phương tiện quyền xảo khéo léo thuyết chơn lý khiến họ vui thích muốn nghe pháp nhẫn vô sở tùng sanh, pháp quan trọng mười hai nhân duyên. Họ trước phải phân biệt ngộ rõ không, vô tướng, vô nguyện; hiểu rõ vạn vậtvô thường, chẳng phải chơn thật, chẳng hiện hữu; ngã, nhân, thọ mạnghư vô vắng lặng.

Đức Phật lại bảo Bồ tát Tối Thắngchúng hội:

- Ta lại nhớ khi Ta chưa thành tựu Phật quả, Ta được các Đức Như Lai hiện ra giáo huấn, lại dùng oai thần hiện ra hướng đạo. Đó là do niệm hạnh nguyện khi xưa nên mới gặp chư Như Lai, đạt được tâm thanh tịnh, chí hướng an ổn. Nay Ta đã thành Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác đầy đủ các hạnh xuất hiện ở đời, đó là do giữ gìn tâm ý không thoái chuyển. Chúng Bồ tát cũng vô lượng, sức biến hóa thần túc không thể hạn lượng, hàng phục ma khiến chúng không còn cơ may. Nếu Ta đi đến thành ấp, quận huyện, thôn xóm, thấy Ta, các loài chúng sanh liền giữ gìn tâm ý nghe kinh không có niệm khác, hưng thạnh Tam bảo không để dứt đoạn. Người cầu pháp đều được thỏa mãn, an ổn tu hành.

Đức Phật bảo Bồ tát Tối Thắng:

- Nếu có chúng sanh tin theo giáo pháp không, vô tướng, vô nguyện thì phải thực hành ba mươi sáu việc khiến tâm không lo lắng tổn giảm. Thế nào là Bồ tát thực hành ba mươi sáu việc khiến tâm không lo lắng, tổn giảm? Đó là Bồ tát phân biệt ba hướng cũng không có tâm oán hận. Tuy ở trong ái dục mà không bị nhiễm ô, quán vô thường mà không có tưởng quán, tâm hành thanh tịnh không mất pháp tánh, mong cầu pháp giải thoát của chư Hiền Thánh. Vì người có tâm hướng đạo nên độ chúng sanh. Vọng kiến đã trừ, biết rõ chúng đều là vô thường, ứng hợp với hạnh Chánh giác vô sở trước, theo duyên sanh diệt trừ bỏ buộc ràng, thực hành bố thí không vì tự thân, ngộ rõ cội gốc của người vốn không xuất sanh, tuổi thọ dần dần mất đi không bao giờ còn mãi, mạng sống biến dị như ảo như hóa; quá khứ vĩnh viễn trôi qua không thấy dấu vết, tương lai không bóng hình lại phải thọ thân hiện hữu, hiện tại dong ruổi không biết hướng đi. Tuệ sáng biết rõ nghiệp nên thần thức không trụ, không ràng buộc với việc mở hay buộc vào định xứ Không tuệ. Tinh tấn tu tập ba việc, lại phải trừ bỏ ba việc không nương tựa vào Không tuệ nhận lãnh quả chứng của mình, trưởng dưỡng thân mạng đưa đến đạo tràng. Ở trong dục hay vô dục cũng không ly dục, chánh định của chư Phật luôn hiện tiền. Luân hồi qua lại nhưng không khởi sanh vô tưởng, chí thường trụ nơi các tuệ thần thông, thể nhập sâu xa pháp tạng mà không thấy có thể nhập, lấy diệt tận, vô sanh làm chỗ trụ. Như như như thế không hình không tướng, vốn không có hữu tế, tế cũng là vô tế. Thường không có tưởng thường hằng, tư duy về vô thường. Tuy hiện trong sanh tử mà không thấy sanh, vào trong năm đường mà ngộ rõ không có năm đường, trần laoràng buộc tự thân đã thoát ly chúng. Tự ngộ vô vi, không có dục mong cầu. Thấy độ người như hư không, do Không nên chẳng có pháp nào để thành tựu. Thân làm, miệng nói đều không bị tổn giảm. Này Tối Thắng, đó là ba mươi sáu pháp hành thượng diệu của Bồ tát, chẳng phải pháp hàng Thanh văn, Duyên giác theo kịp. Bồ tát phải khéo quán sát chúng rồi vì người giảng dạy, không để chúng sanh có tâm tranh tụng. Như thế bởi vì hiếm có chúng sanh nào có thể tin pháp này. Người có thể tuyên nói pháp duyên nghiệp thì mới ứng hợp với tâm vô sanh. Nếu thấy chúng sanh tâm ý không kiên cố thì phải dần dần khai mở khiến họ được hiểu rõ được mất tuy quan trọng nhưng ý phải khiêm cung, chớ tự đề cao. Lại nữa, nếu có tâm si thì dùng pháp quán Bổn vô ba đời bình đẳng không có sai khác, nhưng không thấy bình đẳng cũng không thấy không bình đẳng. Thấy cũng như không thấy, lại cũng chẳng thấy, hình dungsắc tướng. Sắc tự nó là vô sắc, vốn không có sắc. Không có thức để nhận biết sắc thì há có thức sao? Vì thâu nhận âm thanh bên ngoài, tai nghe âm thanh nên có thức. Mũi ngửi hương phát sanht hức tự biết mùi hôi thối. Lưỡi nếm vị phát sanh thức phân biệt ngon dở. Thân xúc chạm phát sanh thức do đó mà có cảm giác mịn thô. Ý duyên với pháp phát sanh thức biết rõ thiện ác trước đây. Liễu tri thông đạt các pháp vô trụ nên không trụ cũng không thấy có pháp trụ. Tối Thắng nên biết, ngô ngã sở hữu các pháp, các pháp sở hữu đó vốn là thanh tịnh nhưng cũng không thấy thanh tịnh. Các pháp ngô ngã vốn không sở hữu nên không thấy có sở hữu. Vô tự nó cũng là vô, cũng không thấy có pháp vô. Trí tuệ Bồ tát ngộ rõ đều là vô sở hữu, Bồ tát dùng trí tuệ ngộ rõ nên không nương tựa thân khẩu, không tự cao cũng không tự ti, từ khởi đầu đến kết thúc liễu tri thấu đạt tự nhiên. Bồ tát ngộ rõ nghĩa Không tuệ như vậy thì thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu vô số pháp làm lợi ích cho số đông.

Bấy giờ các vị trong pháp hội, bốn bộ chúng và tám bộ chúng quỷ thần ngồi trên tòa, tâm vô cùng hân hoan không thể tự chế. Mỗi vị đều khởi tâm cung kính dùng hoa hương, hoa Ý, họa Đại ý rải lên trên thân Đức Phật và trên các vị Bồ tát đại đệ tử. Tất cả đều sắp hàng trụ trên hư không, cử tấu âm nhạc tự nhiên. Lại có chư Thiên đứng hai bên trên hư không phát ra âm thanh tự nhiên vang động, đều tán thán: “Chúng con nay được nghe pháp mà từ xưa chưa từng có. Thế Tôn đã vì các Bồ tát giảng luận pháp yếu Không vô khiến cho hành vi của thân, khẩu, ý đều kiên cố. Trước kia, trong vườn Lộc Dã, Thế Tôn đã vì chư Thiên và người đời chuyển Pháp luân nhưng không nói hết tất cả. Nay chúng con nghe Như Lai giảng pháp Không vô, không sanh, không diệt, tối đệ nhất nghĩa, bậc nhất ở đời, không thể xưng lường. Chúng con từ thuở xưa nghe pháp như chưa từng nghe pháp như vậy. Lành thay! Thế Tôn đã làm cho tâm chúng con mãi mãi không hề do dự, lưới nghi đều trừ sạch, không còn phiền não, oán hận buộc ràng”. Khi ấy Thế Tôn bảo đại chúng:

- Bậc Tuệ giải Bồ tát vì tất cả chúng sanh, tâm không lìa bỏ các pháp căn bản, huống chi lại lìa bỏ pháp Không vô. Việc đó không thể có. Bồ tát tu học không đúng khởi ý sanh niệm thị phi. Nếu không có niệm chấp trước với các pháp thì pháp ấy thật sâu xa không thể nghĩ bàn. Người tu tậptrí tuệ yếu kém do không dùng tuệ để quán xét nên theo bốn pháp điên đảo mà khởi ấm cái, do chấp ấm cái giữ gìn trong tâm nên lại sanh buộc ràng với mười hai duyên, mười hai duyên đã sanh thì cùng thọ lãnh sáu mươi hai kiến. Do khởi thọ lãnh sáu mươi hai kiến nên lại cùng hợp với tất cả các cấu trần lao. Như vậy Bồ tát luôn phải tư duy, không cùng đồng xứ cũng không ly xứ. Từ si đến tử, tâm ý người thế gian đều khởi niệm loạn tưởng. Nếu thấy người tinh tấn thì tâm không kính mộ, thấy người giải đãi cho là không khác với người không lười biếng khinh mạn, có người phụng trì giới lại cho là không khác với người không trì giới. Thấy người hủy giới thì bảo là ý bình đẳng vô nhị. Tâm luôn nhẫn nhục thì cho là sân hận đưa đến ác đạo. Nhất tâm bất loạn thì cho là không khởi các tưởng. Bồ tát dùng trí tuệ nhổ bỏ khổ đau khiến chúng vĩnh viễn không còn, luôn phải xa lìa tất cả các niệm, suy nghĩ lánh xa việc thế gian đó. Việc thế gian đó là gì? đó là nói năm ấm, sáu suy, bốn đại, bốn họa hoạn, mười tám pháp bổn trì, mười hai nhân duyên; là các pháp tâm không cùng chúng tương ưng. Đó gọi là pháp thế tục.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Nếu có Bồ tát trong ba đời thực hành bố thí cũng chẳng tư duy về thọ báo của đời quá khứ, không nhớ nghĩ tài vật đã bố thí trong đời quá khứ, cũng không nhớ nghĩ người nhận vật thí ở đời quá khứ, không nhớ nghĩ nơi chốn đã bố thí trong đời quá khứ; không nhớ nghĩ chủng tánh, phòng nhà, nơi cư ngụ; không nhớ nghĩ rằng sanh ở nhà đó, tên đó cũng không nghĩ rằng thuở đó ta bố thí nên nay mới được quả báo, nếu nay tạo phước thì hậu báo thù thắng bội phần. Bồ tát như thế là không thành tựu, là rơi vào biên tế, là ở trong cõi ma, là đoạn dứt Phật chủng, hoàn toàn không đến được đạo Vô thượng chánh chơn, thành Tối Chánh Giác. Sở dĩ như vậy là do có tưởng chấp trước. Người tưởng chấp bố thí thì chẳng đạt quả chơn thật. Lại nữa, nếu Bồ tát nghĩ nhớ bố thíhiện tại và tương lai thì luôn phải hộ trì tâm, không có các loạn tưởng. Hoặc có khi Bồ tát bố thí cho người nghèo thiếu y phục, thức ăn, giường chiếu đồ nằm, thuốc men trị bệnh, theo chỗ họ cần không trái. Người muốn thành tựu Vô thượng Đẳng Chánh Giác thì tỏ ngộ các pháp Không, liễu tri thông đạt chúng là một, pháp Không vô tướng, pháp Không bất sanh, không tạo tác, không có hành động thí, không thấy thời gian đến cũng không thấy thời gian đi, dùng pháp tánh Không quángiới phẩm; tuệ phẩm, định phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát kiến tuệ phẩm, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều là không hình tướng. Thấy pháp giới như trong định quán pháp giới thì không chấp pháp giới. Thấy Phật như trong định quán Phật thì quán Phật không chấp Phật. Phật là vô ngã cũng là vô sở sanh. Ý quán đạo, ý sáng tỏ. Ý quán pháp, ý sáng tỏ. Ý quán chúng sanh, ý sáng tỏ. Tuệ quán mười ba hành vô lậu đó, mười ba pháp ở tương lai, quá khứ, hiện tại. Phật đã thấy rõ tất cả pháp giới, phân biệt các giới đó không qua lại, không thấy xuất sanh, pháp tự thường trụ; cũng không thấy động, không thấy quay trở lại. Tất cả chúng sanh tự khởi thức tưởng, có người không tin mà chấp thủ sự biến hóa của pháp giới. Tam tràng thanh tịnh, tu Như Lai thất, tu tập vô số pháp không cứu cánh, lời nói cũng khác nên lãnh thọ không đồng. Bồ tát muốn thanh tịnh tam tràng và ngũ nhẫn, hiện chuyển Pháp luân không có tưởng ngăn ngại trước phải tu tập mười ba pháp quán vô lậu. Này Tối Thắng, đó gọi là trí tuệ vô ngại, tuệ căn vô ngại của Đại Bồ tátchúng sanh nên thị hiện tên gọi, danh hiệu pháp giới vô lượng vô hạn không thể nghĩ bàn, đều là trí lực phương tiện khéo léo khó sánh.

Bấy giờ Tối Thắng lại bạch Phật:

- Thế nào là Bồ tát nhập định tam muội, tu tập trí tuệ phương tiện khéo léo nhiếp trì mà không loạn?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Khi Bồ tát nhập định vô trước, thân khẩu ý giáo không bị ngăn ngại, quán các cõi Phật như thấy viên ngọc trong lòng bàn tay, giáo hóa chúng sanh cũng không có tâm chấp trước, phóng ánh sáng lớn hướng đạo tất cả mà chuyển Pháp luân Phật lực vô ngại. Bồ tát hoặc lấy Bồ tát làm quyến thuộc, dùng Phật trí tự trang nghiêm thân như đeo ngọc anh lạc, trụ như Phật trụ, dạo đến các cõi Phật như Phật đã đi, thanh tịnh các cõi, dùng sức độ hóa của Phật mà độ thoát cho chúng sanh ở các cõi ấy. Vì tâm phát thệ nguyện dõng mãnh giáo hóa chúng sanh nên dùng Phật trí dạy người. Này Tối Thắng, đó là định ý tam muội mà chư Phật đã thể nhập. Bồ tát du hành giáo hóa không thể nghĩ bàn, không sợ hãi, không bị nạn nguy khốn, nghe pháp không nhàm chán, tâm không thoái chuyển cũng không mệt nhọc, không bỏ pháp đáng quy ngưỡng đọa vào pháp khác. Vì sao? Bởi vì vị Bồ tát ấy ở trong các pháp chí ý rộng lớn. Tâm hoằng thệ không thể phá hoại, phát tâm tu tập đến tận cùng nguồn cội Chánh pháp của Phật, hộ trì chúng sanh không rời bỏ, hiểu rõ chúng sanh là Không, các pháp cũng như vậy. Các pháp là Không, tánh đạo cũng thế, khéo quán sát con đường tấn thoái quan lại của chúng sanh, dùng tâm đại từ biến khắp tất cả, không sai trái với sở hành, pháp tắc của chư Phật ba đời, đều thành tựu pháp vô tướng. Vì sao như vậy? Cũng như một nam tử dùng viên Như ý bảo châu treo giữa không trung, người xem thấy không ai không thích, màu sắc vi diệu chiếu khắp không ngăn ngại. Vị đó không tự nói ta có ánh sáng chiếu khắp. Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, dùng tâm bảo châu miệng nói ra lời trí tuệ, tất cả ánh sáng trí tuệ chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ tát cũng không tự nói ta nay có ánh sáng trí tuệ chiếu soi. Vì sao? Đó là vì Bồ tátchúng sanh kia chứ không vì tự thân, mong cho chúng sanh đến cửa giải thoát, dùng thánh ấn của Phật mà ấn khả cho họ. Bồ tát tịnh các cõi Phật, vì các chúng sanhhộ trì khiến họ lìa bỏ tất cả niệm. Mắt trí tuệ của Bồ tát không vật nhỏ nào không thấy, thấu tỏ nguồn gốc sanh tử, tám pháp công đức của quá khứ, vị lai, hiện tại, thông đạt lậu tận và biết rõ diệt tận, điều mà các vị La hán, Duyên giác không thể liễu tri. Bồ tát ngộ rõ pháp tánh sở giác ảo hóa như tia nắng giữa trưa, như đọt chuối, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bóng trăng trong nước, như bọt nước, như cảnh trong mộng đều là không chơn thật. Thân năm ấm này là khổ, không, phi thân (vô ngã); do bốn đại hợp thành. Bồ tát lại phải tư duy sáu xứ: địa, thủy, hỏa, phong, không, thức trong ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc đều là cõi chết; Niết bàn, Pháp thân mới là cõi Phật. Ngộ rõ cõi sanh tử và pháp Niết bàn là một chứ không phải hai cũng chẳng phải nhiều. Bốn đại, ngô ngã cũng như vậy. Ngô ngã là Không, các pháp cũng Không. Các pháp là Không, sáu pháp tư niệm cũng như vậy, không rơi vào kiến điên đảo, không trụ nơi sanh tử, lại cũng không nghĩ nhớ, chấp thủ pháp trung đạo đã chứng đắc. Đó gọi là Bồ tát ngộ rõ sâu sắc pháp yếu, pháp độ người không hư dối, pháp thọ dưỡng không hư dối, an ổn trụ trong đạo mà không tổn giảm. Lại có Bồ tát dùng bốn đẳng tâm quán sát sâu xa sanh tử không có nguồn cội tận cùng, dùng tài vật cứu giúp chúng sanh rồi khuyến khích hướng dẫn họ. Bậc Bồ tát đại bi mắt nhìn đến đâu đều thành bảo vật. Núi, sông, đá, vách, cây cỏ, mầm mộng đều là bảy báu. Lúc ấy Bồ tát quán sát chúng sanh có người chấp khổ liền vì họ nói năm ấm là khổ, là già, là không chơn thật; chấp trước khổ Tập theo sắc khởi, diệt Tập thì thành đạo. Nghĩa của khổ rất nhiều. Tập là nguồn gốc. Hai pháp này diệt tận mới gọi là đạo.

 

 

 

Phẩm 14: DÕNG MÃNH

 

Bấy giờ Bồ tát ở trước Đức Phật thưa:

- Bồ tát mới phát tâm tu tập như thế nào mới không thể dứt đoạn? Làm thế nào ý thức của Bồ tát an ổn không thể xả ly?

Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Pháp mà Bồ tát mới phát tâm phải học là không chìm đắm trong sanh tử, không sợ ngô ngã; tuy ở quá khứ, tương lai, hiện tại cũng không sợ hãi thì có thể dõng mãnh phá tan tà kiến, vừa nghe pháp vị liền thành tựu tín căn, ý luôn hướng về pháp diệt tận, thường rời bỏ nghiệp thế gian, chỉ ưa thích đạo Vô thượng chánh chơn, tán thán học hỏi kinh điển, nghe không nhàm chán. Nếu gặp khổ hay vui không cho là mỏi mệt. Vì sao? Vì tâm Bồ tát kiên cố không thể lay động, hoặc trải qua một thân, hai thân, ba thân đúng thời thì đạt được tam muội định ý chánh thọ của Như Lai, lại được Tín thọ bất vọng tam muội, đạt được Tưởng trì thọ quyết tam muội dần dần đạt đến Vô sở tùng sanh bất khởi pháp nhẫn. Do đó nên nói Bồ tát mới phát tâm sở hành của nội tâm không thể dứt đoạn. Bồ tát chuyên tâm không chấp sắc tướng, không niệm là thường hay vô thường, có khổ có vui, có xấu có đẹp, có xa có gần; cũng không nhớ nghĩ pháp quá khứ, hiện tại, vị lai; cũng không nhớ nghĩ ta sẽ thành Phật thống lãnh ba ngàn đại thiên cõi nước, không niệm hữu tưởng, không niệm sanh tưởng, trước tưởng, nhiễm tưởng, kết tưởng, tâm tưởng. Vô lượng pháp môn, lãnh thọ diệu pháp đó thì không trở lại cũng không thấy có trở lại, không nhàm chán cũng không thấy nhàm chán, không đủ cũng không thấy đủ, không bỏ cũng không có bỏ, không khác cũng không có biến đổi, không tự nhiên hành nhưng chẳng phải không có hành. Vì thế nên nói tự nhiên là pháp nhiếp trì hư không pháp giới. Bồ tát tự thân trụ tâm hoằng thệ vô hạn lượng như thế, không nhàm chán, không họa hoạn cũng không thoái chuyển, hết lòng mong độ thoát tất cả chúng sanh. Do Bồ tát muốn độ tất cả chúng sanh để họ bát Niết bàn nên trụ mười bảy kiếp không xả ly, phân biệt các pháp hư tịch ba đời, các pháp Không, các pháp vô ngã. Vì sao? Vì muốn chúng sanh từ bờ này sang bờ kia, Bồ tát Đại sĩ đến hư không giới dùng thiên nhãn quán sát thấy rất nhiều chúng sanh nương địa đại, nhiều chúng sanh trụ hư không giới, lại quán thấy chúng sanhhư không vô hạn lượng, nhiều không thể tính kể. Vị Thiên nhãn Bồ tát ấy lại tư duy: “Chỗ quán thấy của ta thật là huyền diệu sâu xa, từ bốn cõi thiên hạ quán đến núi Tu Di. Trong đó có rất nhiều chúng sanh vô hình ở trên hư không chẳng, hay là có rất nhiều chúng sanh hữu hình?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Vị Thiên nhãn Bồ tát ấy do không thể biết chúng sanh vô hình nhiều ít. Vì thế nên chẳng phải cảnh giới đó. Nay Ta sẽ dẫn dụ giải thích lại ý nghĩa này. Người sáng mắt phải hiểu rõ ví dụ này. Ví như bốn phương, tám hướng hư không và phương trên, phương dưới đều bình đẳng không có chỗ khuyết giảm. Tính đếm chúng sanh vô hình ở trong đó thì bằng với chúng sanh bốn thiên hạ. Muốn biết số lượng thì từ số một đếm đến ức, lấy ức làm một. Lại từ ức ức đếm ngược lại ức làm một. Đếm như vậy cho đến bảy lần. Muốn biết hạn lượng của chúng sanh vô hình trên hư không thì con số như thế.

Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:

- Khi vị Thiên nhãn Bồ tát quán chúng sanh vô hình trên hư không thì cũng như người quăng số đá lớn ở bốn phương và phương trên, phương dưới đều bằng nhau, thật không thiếu sót. Vì vậy không thể biết được số đó. Bồ tát mới phát tâm từ sơ khởi học đến Bồ tát vị phải độ chúng sanh tâm không lay động, phải biết không bị ma làm nhiễu loạn, dạo trong ba cõi tham vấn bậc thiện tri thức, nạn lo sợ cũng không phát sanh lại. Nếu có Bồ tát trụ ở pháp đó chí thành nhận lãnh cũng không lâu dài, phải thực hành phương tiện quyền xảo khuyến trợ họ phát tâm, hướng dẫn đến Niết bàn, giảng dạy pháp quyết định diệt độ, lại giảng về pháp Tứ đếNhư Lai đã ấn chứng, phân biệt rõ ràng chỉ rõ con đường. Nếu có chúng sanh không chịu tỉnh thức thì dùng vô số phương tiện để hướng đạo, chỉ rõ do si mê ngu hoặc của Tập nên đưa đến khổ, phải đoạn ái dục ứng hợp với pháp vô trước thì được vượt đến Chánh giác, có sự an tĩnh tịch nhiên của Hiền Thánh, chính là giải thoát. Gọi là giải thoát chính là giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. Vị ấy không chết cũng không bị chết, không thoát cũng không được thoát được giải thoát khỏi điều gì? Không buộc, không ràng, không diệt, không sanh, không thành tựu, không có tu tập, không đạt được mới ứng hợp với chánh đạo. Chúng sanh mê mờ không biết khi nào giải thoát. Như Lai thương xót nên xuất hiện thế gian, ở những chỗ dạo đến đều làm Đạo sư. Chúng sanh nghe pháp đạt tâm không thoái chuyển. Nếu có người hoan hỷ vâng giữ Chánh pháp thì đạt được pháp nhẫn Vô sanh bất khởi. Bậc Bồ tát mới phát tâm luôn niệm tư duy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; phân biệt sáu suy xem chúng từ đâu sanh lại, từ đâu diệt mất. Pháp tự sanh pháp, pháp tự diệt pháp, không thấy tà, không thấy chánh, không tạo tác, không thấy là ngã sở hay chẳng phải ngã sở, tự quán nương tựa tánh bên trong hay bên ngoài đều phải phân biệt. Bồ tát lại phải tư duy sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; không thấy có sắc quá khứ. Sắc quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài cũng không ở trung gian mà có thể đạt được. Không có thống (thọ), tưởng, hành, thức quá khứ. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Không có sắc quá khứ trụ, không có sắc quá khứ chẳng trụ, không ở đây cũng không ở kia. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp quá khứ. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý quá khứ không ở trong, không ở ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Không có ý tưởng tri diệt ở quá khứ, không ở trong, không ở ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tưởng tri diệt ở tương lai và hiện tại cũng như thế.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ dùng trí tuệ thần thông vô ngại đạo tính đếm tất cả công đức tuệ nghiệp của chư Phật rồi nhân lên mười lần, trăm lần, ngàn lần, vạn lần cũng không bằng vị Bồ tát mới phát tâm an lập một chúng sanh phát tâm vô thượng đạo, thành tựu Nhất thiết trí, đầy đủ pháp của tất cả chư Phật, đã đoạn vọng tưởng không còn nghi ngờ, chư Thiên, người đời đều cung kính lễ bái. Thông đạt các pháp là ảo hóa chẳng phải chơn thật, tất cả phương pháp tu tập pháp hữu hình để đạt đạo thì đạt được sức thần túc của Như Lai.

Khi đó Đức Phật ngồi trên tòa, mười bốn ức chúng đều khát ngưỡng đức thần túc của Như Lai, mong thấy Như Lai hiển bày oai lực biến hóa. Đức Phật biết tâm niệm của chúng hội liền ở trên tòa cao phóng ánh sáng lớn. Các lỗ chân lông trên thân cũng phát ra ánh sáng. Mỗi lỗ chân lông phóng ra trăm ngàn ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ngàn ức dạ quang thần bảo điêu khắc tinh xảo đẹp đẽ bằng các loại báu. Các loại hoa, tạp hương phủ trên đó. Bốn đầu góc của báu vật đều treo bốn viên ngọc anh lạc. Trên mỗi báu vật đều có trăm, ngàn, ức cành phướn. Mỗi bảo phướn có trăm, ngàn, ức tòa sư tử bằng hoa sen tự nhiên. Trên mỗi tòa đều có trăm, ngàn, ức màu sắc vi diệu đặc thù. Trong mỗi màu sắc có trăm, ngàn, ức ngọc báu ma ni trên những đóa sen. Trên mỗi đóa sen lại có trăm, ngàn, ức các loại lọng báu đan xen. Dưới mỗi chiếc lọng có trăm, ngàn, ức Đức Như Lai nói pháp. Mỗi Đức Như Lai có trăm, ngàn, ức chim le le, ngỗng, oan ương vui đùa tự nhiên. Khi ấy các Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác trên những đài báu đan xen ấy lại phóng trăm, ngàn, ức ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng lại có Hóa Phật. Mỗi Đức Hóa Phật đều nói về công đức mà vị Bồ tát mới phát tâm đã tu tập, giảng pháp mười hai nhân duyên, vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) đưa đến cửa Niết bàn. Trong mỗi cửa lại phát ra trăm, ngàn, ức pháp bất thoái chuyển, là pháp mà từ xưa chưa ai diễn nói, nay Đức Như Laichúng sanh mà diễn nói, lại hiện ra thân tướng oai nghi thần túc biến hóa của Phật mà chúng sanh chưa từng được thấy, chưa từng được nghe, không thể nghĩ bàn, không thể diễn nói. Lúc ấy các vị trong pháp hội vui mừng trước việc chưa từng có, thật kỳ diệu, thật đặc thù, tự nói: “Chúng ta nay có phước nên mới có thể thấy thần túc biến hóa này”.

Đức Phật dạy:

- Pháp này mãnh liệt, biến hóa ra vô tận Đức Như Lai, như pháp Như Lai tạng, không trụ chỗ trụ, không hình tướng, không căn bổn, đắc chỗ không đắc, đạt chỗ không đạt, thậm thâm, huyền diệu sâu xa, là thật chứ chẳng phải hư; trí tuệ quảng bác, trừ bỏ ngu si cũng không phá hoại, thành tựu pháp giới; pháp của chư Phật tương lai, quá khứ, hiện tại đều hiện tiền, mở bày lực của Như Lai làm tăng trưởng lợi ích cho các cõi Phật, là tâm ấn của Phật, xuất sanh đạo Bồ tát. Ở trong pháp hiện tại pháp này là vua của pháp tịnh nhãn, tuệ nhãn thanh tịnh, chủng tánh thuần thục. Phật nhãn vô ngại, do tuệ nhãn biết phân biệt cú nghĩa mà khai mở pháp môn, làm cho thiện tri thức thành tựu đạo tâm, không hủy cảnh giới, không làm bại hoại chủng tánh; vì tất cả chúng sanhche chở, bảo hộ khiến họ có chỗ an trụ, nếu ở trong chúng thì không bị nạn sợ hãi. Pháp phương tiện thiện xảo không pháp nào không biến hóa. Danh tiếng, công đức đều thanh tịnh, không còn cụ mong cầu thọ bào thai. Trí nghiệp tăng thượng xua tan mây ấm cái phiền não. Lửa trí tuệ rực cháy thiêu đốt khối si mê kết tụ, xiển dương chánh giáo, chấn hưng đạo tràng. Dùng từ, bi… bốn pháp đẳng tâm, trí Tổng trì thẩm suy chơn lý. Quán chín pháp, sáu nghiệp, sức dõng mãnh không e sợ. Tín, niệm, tuệ, định thực hành, giáo huấn vô tận. Nhập định tam muội do đó quán mười phương, lễ bái, cung kính cúng dường chư Phật. Này Tối Thắng, đó gọi là tâm khó phá hoại của bậc Bồ tát Đại sĩ. Cũng như tánh Không tự nhiên của Bồ tát, người trí có mắt biết đó là Không. Không chẳng tự biết, nói ta là Không. Bồ tát thực hành pháp bổn cũng như vậy, độ hằng sa người, thậm chí còn hơn số hằng sa ấy, đưa đến cõi của chư Phật, độ chúng sanh mà chẳng tính đếm bao nhiêu người. Bồ tát không tự nghĩ: “Nay chính ta độ chúng sanh như thế đưa họ đến Niết bàn vắng lặng vô vi”. Cũng không nói: “Ta do quả báo nhân duyên đó sẽ thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn”. Bậc Bồ tát mới phát tâm giữ tâm kiên cố,t ừ khi mới phát tâm cho tới khi đến đạo tràng, ngồi dưới cội thọ vương hàng phục chúng ma, công đức phước nghiệp đã tu tập trong khoảng thời gian đó luôn vì chúng sanh, không tự vì mình. Ví như hư không phủ trùm tất cả không có gì lọt ra ngoài nhưng hư không chẳng tự biết, nói rằng ta là hư không. Thần đức, ánh sáng trí tuệ của Như Lai đều biến khắp, tiếp độ tất cả chúng sanh khiến họ thành tựu pháp nhãn. Không lìa, không buộc, tất cả các pháp không thể phá hoại. Không nhân, không ngã, dùng trí tuệ thông tỏ kiếm bén phương tiện quyền xảo. Chánh giáo mà chư Phật sử dụng vô lượng công đức, trừ bỏ lưới si. Các pháp mà bậc Bồ tát Đại sĩ tu tập, công hạnh của Bồ tát đều để đạt tam ma địa thanh tịnh, chẳng có Không hay bất Không. Không cũng chẳng sanh, cũng chẳng sở hữu. Không nhân, không ngã, không thọ, không mạng cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt. Một mình, không bạn lữ, chẳng thể nghĩ bàn. Không hủy cảnh giới, vô tưởng cũng không. Không sanh cũng không thấy sanh, cũng không thấy xuất. Không đi, không đến, không tạo tác. Trong pháp giới vô lượng thành tựu nghiệp đạo tràng. Không giớivô biên, chẳng bị ràng buộc, vì chúng sanh nên tạo xứ sở là ngã sở, chẳng phải ngã sở, khởi tưởng ngô ngã. Bồ tát giữ ý, nương theo căn bản thiện, vô lượng trí tuệthanh tịnh đạo ấy, dùng trí tuệ trừ bỏ tâm ý cấu uế.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát nhập Tịnh quán tam muội quán sát hằng sa chúng sanh mười phương ai tương ưng với pháp hành, ai tương ưng với trí hành, ai tương ưng với nghiệp hành. Nếu có chúng sanh phù hợp lãnh thọ pháp thì Bồ tát phải giảng nói hai mươi lăm pháp. Hai mươi lăm pháp đó là gì? Các pháp vô tướng, các pháp vô hình, các pháp nhẫn, các pháp tưởng, các pháp vô căn, các pháp cảnh giới bất khả đắc, các pháp vô sở thủ, các pháp bất nhị nhập môn, các pháp vô độ, các pháp không thể đoạn, các pháp sâu xa không thể truy tìm, các pháp giác - bất giác, các pháp lực không thể hoại, các pháp thành - bất thành, các pháp không hủy mà hủy, các pháp vô thường trừ bỏ thường, các pháp không nhiễm ô, các pháp tịnh hạnh, các pháp tánh quán, các pháp vô lậu, các pháp đã trừ quá khứ, các pháp trừ bỏ lưới si, các pháp thọ ký trí tuệ vô sở tùng sanh, các pháp Bổn vô không có tên khổ. Đó gọi là tu hành hai mươi lăm pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Bồ tát thực hành tam nhẫn trí, quá trí, vô quá trí, không quá cũng chẳng phải không quá trí. Thế nào là Bồ tát tu hành quá trí? Đó là trí không hoại pháp giới, biết rõ thân là Bổn vô, công hạnh tu tập của chư Như Lai chẳng phải là trí tu tập của hàng Duyên giác, La hán. Bậc Vô quá trí dùng tuệ tăng thượng thông tỏ sự tu hành của các bậc Hiền Thánh Duyên giác chẳng phải là công hạnh của Đức Phật hay của các vị La hán. Không quá trí cũng chẳng phải không quá trí là trí biết rõ công hạnh tu tập của A la hán chẳng phải là sự tu hành của Đức Phật và các vị Duyên giác. Quá trí là gì? Tức trí biết rõ sở hành của Phật chẳng phải sở hành của hàng La hán, Bích chi Phật. Khi ấy Bồ tát trong khoảnh khắc khảy móng tay dùng trí tuệ suy nghĩ: “Ta phái rộng độ vô lượng chúng sanh, tu tập vô biên vô hạn duyên tưởng trí nghiệp, thiền định kiên cố như kim cương không thoái chuyển”. Tâm hoằng thệ của Bồ tát vượt quá hơn La hánBích chi Phật. Đó gọi là quá trí, chẳng phải chỗ tu hành của hàng La hán, Bích chi Phật. Vô quá trí là gì? Là nói trí tu tập của bậc Hiền Thánh Bích chi Phật. Khi ấy Bồ tát phát khởi tâm học tập, muốn thanh tịnh pháp giới, dẫn đạo chúng sanh, tuyên dương Phật pháp, diễn nói tuệ cam lộ, vì đạo vô thượng mong cầu đến đạo tràng. Nếu có chúng sanh đi thẳng một đường đến chỗ Bồ tát, Bồ tát đem đầu, mắt, tủy não, thành ấp, quốc gia, vợ con theo ý người đó muốn dùng vật gì đều bố thí cho họ, chỉ trừ cha, mẹ, sư trưởng. Bố thí như vậy mà không cầu quả báo. Như vậy một đời đến trăm đời, một kiếp đến trăm kiếp cũng không thấy có tài vật đã bố thí. Bồ tát suy tư: “Vật đó là của ai, từ đâu sanh? Vốn từ đâu lại? Khi diệt trở về chỗ nào?”. Hiểu rõ vật không có nguồn cội nên không thấy nhà cửa chỗ ở. Khi ấy Bồ tát dùng Không tuệ quán không thấy thân, không thấy vật, không thấy người cũng không thấy nơi chốn bố thí. Bồ tát tích chứa công hạnh thù thắng lâu dài như vậy, tâm ý mong mau chóng thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn, độ thoát chúng sanh, thanh tịnh cõi Phật. Do đó tâm Bồ tát ưa thích nhàn tĩnh, thường trụ nơi chốn núi non, ý tưởng tịch tĩnh, chánh niệm luôn hiện tiền, nội tâm tự tư duy: “Công đức xưa nay của ta đã đầy đủ, phải thành đạo Vô thượng chánh chơn, là Bậc Tối Chánh Giác. Nay Đức Phật xuất hiện ở đời có các tướng trang nghiêm thân, rộng độ chúng sanh đến bờ giải thoát. Khi nào Bậc Đại Thánh nhập diệt độ nơi cõi Vô dư, sau đó ta sẽ tinh tấn thành tựu Phật đạo”.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Tâm niệmhạnh nguyện của vị Bồ tát ấy không trái nghịch. Như Lai trụ thế giáo hóa tất cả chúng sanh xong sẽ bát Vô dư Niết bàn. Khi Chánh pháp diệt tận, ở thế gian một kiếp, hai kiếp cho đến trăm kiếp không có Phật. Vị Bồ tát ở chốn núi đầm phải tự trách: “Than ôi! Ta thật hoang phí công sức. Đức Phật rời thế gian đã lâu, tượng pháp diệt tận, chúng sanh không còn túc duyên nên tâm luôn bị phiền não”. Bồ tát đi đến cội cây kinh hành quanh đó dùng móng tay vạch trên vỏ cây, tâm chánh trực trụ Không xứ đột nhiên nghe âm thanh móng tay vạch vỏ cây tâm liền giác ngộ, thành đạo Vô thượng chánh chơn. Nhìn xung quanh không thấy người theo học đạo, vị ấy ẩn hình tướng không chuyển Pháp luân. Vị ấy cũng như người đời, có tâm phân biệt của con người. Đó gọi là sự tu tập. Vô quá trí của bậc Hiền Thánh Bích chi, chẳng phải là Phật, La hán. Thế nào là không quá cũng chẳng phải không quá trí? Là trí tu tập của La hán, chẳng phải của Đức PhậtBích chi Phật. Khi ấy vị Bồ tát từ xa xưa tích chứa công hạnh, siêng năng khổ nhọc mong đắc đạo Vô thượng chánh chơn, thành Bậc Tối Chánh Giác. Vị ấy thực hành bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; hoặc bố thí đầu, mắt, tài sản, cõi nước, vợ con, người hầu. Có người đến xin đều cấp cho không trái ý người. Bồ tát cắt thịt, máu tuôn ra nhiều như nước bốn biển, xương cốt bố thí trải khắp bốn cõi thiên hạ nhưng khi đó vẫn không chứng đạo nên dần dần thoái lui trở về hạnh phàm phu, nhàm chán họa sanh tử, không còn tâm dõng mãnh tinh tấn, nhớ lại việc làm của mình lúc trước trong tâm sanh hối hận, muốn thoát khỏi thân này, rời bỏ chúng sanh, cầu thầy học hỏi tu tập theo pháp phương tiện lâu dài, vâng theo pháp Thanh văn mới được giác ngộ. Vị ấy nhớ lại công đức đã tạo lúc trước có ý tưởng trách là pháp không đạt được giác ngộ. Đó gọi là không quá cũng chẳng phải không quá trí của hàng La hán tu tập chẳng phải là Phật hay Bích chi Phật.

Thế nào là Bồ tát tương ưng với hạnh thanh tịnh? Đó là pháp mà Phật, La hán, Bích chi Phật tu hành. Tịnh hạnh chính là tam tràng thanh tịnh, tam nhãn thanh tịnh, giới thanh tịnh, định thanh tịnh, tuệ thanh tịnh, giải thoát thanh tịnh, giải thoát tri kiến thanh tịnh. Từ ba thiện pháp đến mười tám pháp vô lậu, thiện pháp của đạo và tục đều thanh tịnh. Phật, Bích chi Phật, A la hán tu hạnh thanh tịnh đó nên thành đạo, không còn trở lại trong đó, không khởi các tưởng cũng không thể thấy, không khởi, không diệt cũng không đình chỉ thức. Có khởi đầu, có kết thúc thì có chỗ trụ, đạt đến không khởi đầu, không kết thúc thì làm gì có chỗ trụ.

Lúc đó Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ tát ly dục tâm không tăng giảm, không nghĩ có khổ vui, xấu đẹp; không nghĩ có thiền chỉ tam muội đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối ở quá khứ, hiện tại, tương lai cũng không tự nghĩ ta ở trong dục hay vô dục?

Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Bậc Bồ tát vô dục dạo khắp cõi Dục, qua lại trong đó nói pháp giảng dạy, tuy vậy tâm không nhiễm trước. Chúng sanh ở đó như bị thiêu nướng trong hố lửa không đáy. Bồ tát thương xót các chúng sanh bị buộc ràng trong bốn dòng chưa thoát ra đến mười hai biển, họ mong cầu lối thoát nhưng không biết phải theo đường nào. Bồ tát nội tâm kham nhẫn không ngại khó, giảng nói phân biệt pháp hưng suy của năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; tư duy về sự sanh diệt của bốn đại như bọt nước, ngựa hong, đọt chuối, hư giả không thật cũng không kiên cố. Vì sao? Pháp ấy rất sâu xa khó thể biết rốt ráo. Sắc pháp rất sâu xa, đạo cũng như vậy. Năm ấm rất sâu xa, tục pháp cũng thế. Tục pháp rất sâu xa, không giới cũng thế. Khéo léo quán sát cõi hư không cùng với pháp giới đều không có thức tưởng ngã, nhân, thọ mạng, suy tư chúng như ảo hóa. Tư duy tám pháp không nhàn của thế gian là uế trược, nhiễm ô làm chướng ngại con đường tu tập đạo của chúng sanh, tịnh quán tư duy chúng đều không có xứ sở. Vì sao như vậy? Vì bậc sĩ phu có mắt có thể quán đạt pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó gọi là Bồ táttâm không tăng giảm, không thấy khổ vui, thiện ác, xấu đẹp, đều chẳng chấp trước nơi duyên khởi của ba cõi. Địa chủngcảnh giới cứng chắc tự nhiên. Tánh của nước là ẩm ướt, tánh tự nhiên của nó là nhu nhuyến. Tánh của lửa là rực cháy, tánh tự nhiên là nóng. Tánh của gió là phiêu lãng chuyển động không trụ. Tánh của pháp là quán sát tịch tĩnh, không có bốn đại: “Đất, nước, gió, lửa từ đâu sanh lại do đâu diệt?”. Khi Bồ tát phân biệt pháp giới, nếu tánh của đất thịnh thì tánh của nước, lửa, gió mỗi đại không đồng, thần thức tự suy yếu, dần dần các đại không còn ứng hợp với nhau. Tánh của đất càng nặng thì thần thức càng yếu, mỗi đại sắp phân ly. Nếu tánh của nước thịnh thì đất, lửa, gió biến động suy yếu, thần thức liền muốn di chuyển không ở an trong thân. Cũng như có người ở trong phòng yên tĩnh, ý muốn đi ra ngoài đến nơi thôn xóm, trước phải bước chân phải ra ngoài ngạch cửa; đó gọi là tánh đất tăng thịnh. Sau đó mới đưa tay phải ra ngoài cửa, đó gọi là tánh của nước tăng thịnh. Bước chân trái ra ngoài ngạch cửa, đó gọi là tánh của lửa tăng thịnh. Lại đưa tay trái ra ngoài cửa, có thể gọi đó là tánh của gió tăng thịnh. Bước đi trên đường, đó gọi là thần thức đã phân ly. Đến nơi thôn xóm là vào năm đường. Người biết được điều này mới liễu tri pháp giới là không cứng chắc, không mềm mại, không nóng, không nhẹ. Cứng là chỗ trụ, mềm là chỗ đến, nóng là chỗ đi, nhẹ là chỗ hướng đến. Bồ tát phân biệt pháp giới như vậy, quán hoàn toàn từng pháp đều không xứ sở, tư duy tánh tự nhiên của pháp giới không đồng, nuôi dưỡng thần, làm lớn thân thể. Mỗi đại đều có tánh riêng khác biệt. Trong bốn đại, lửa là cực độc. Ba đại còn lại tánh tự tương ưng. Vì thế nên Bồ tát phải quán sát trong ngoài bốn đại cũng như thế. Bốn đại của chúng sanh trong ba cõi không đồng, muốn tìm nguồn cội của chúng thì không biết nơi chốn. Bồ tát lại phải tư duy hoạt động của sáu tình. Nhãn cũng Không, nhãn thức cũng Không. Ngộ rõ Không chính là pháp giới. Bồ tát Đại sĩ lại phải suy tư ngộ rõ sáu suy. Sắc do nhãn thấy, sắc đó cũng không hiện hữu. Sắc của vật hiện trước mắt cũng không hiện hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Bồ tát lại phải học đế tướng và phi đế tướng, đạo tướng và phi đạo tướng, Không tướngphi Không tướng. Thế nào là Bồ tát học đế tướng và phi đế tướng? Lúc đó Bồ tát ngộ rõ Bổn vô. Bổn vô là một chứ không phải hai. Bồ tát lại biết chứng đạo mà không có chứng không thấy thọ chứng, không thấy không thọ chứng, cũng không thấy tương ưng hay chẳng tương ưng. Hiểu rõ tương ưng và chẳng tương ưng, đó gọi là đế tướng. Bồ tát học đế tướng thì trụ tâm trong Không cũng là chơn lý, rời xa Không cũng là chơn lý, không trụ mà cũng chẳng phải chẳng trụ. Đó gọi là chánh định đế tướng kim cang. Y cứ không tu tập pháp bổn, giữ gìn phòng hộ nên đắc Tận. Ngộ được ba việc đó cũng là đế tướng. Bồ tát học đế tướng biết rõ nội tâmkhông thật, biết tướng bên ngoài nên không nhập. Không thấy ái lạc, không thấy không ái lạc; không thấy chỗ đúng, chỗ sai. Đó cũng gọi là đế tướng. Nội tâm không đoạn chánh kiến, tướng bên ngoài là thị hiện. Nếu như ở chỗ nhàn nhã, tâm luôn tịch tĩnh. Nếu cảnh bên ngoài rối loạn, Bồ tát biết rõ các khổ an trụ nơi thích hợp, tâm luôn bình đẳng. Người ngộ đế tướng này chứng đạo suy tư, thể nghiệm thấy rõ năm ấm là Không nên không trụ, không thấy có pháp trụ, trí tuệ dứt hết các tưởng, tâm không trụ si cũng không trụ nơi kiết sử, không trụ ở năm việc, trọn không theo mười điều lành hay mười điều ác của thế gian. Đó gọi là đế tướng. Bồ tát thực hành đế tướng như vậy thì không thoái chuyển. Phi đế tướngnghĩa lý bậc nhất của hư không giới. Biết rõ chúng là vắng lặng, theo duyên cởi bỏ, không ràng buộc. Đó gọi là Phi đế tướng của Bồ tát.

Thế nào là Bồ tát học đạo tướng phi đạo tướng? Do dự ràng buộc trong si mê thế gian, với pháp không nên ái nhiễm. Trong tâm tự khởi bạo loạn ngang trái đọa khổ đau. Đó gọi là đạo tướng. Thân hiện tại làm đời sau nhận quả báo, không nương tựa thầy, không hướng về thiện tri thức cũng là đạo tướng. Thế nào là phi đạo tướng của Bồ tát? Phi đạo tướng là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, pháp hữu vi vô vi đã tu tập thể nhập không phải là hai mà cũng không lìa xa hai. Không theo duyên, không lìa duyên, không trụ duyên, không tùy duyên, không độ, chẳng phải không độ, không có quả, chẳng phải không có quả. Một, hai, ba, bốn cho đến mười và chẳng phải không có mười. Chẳng phải bị sanh, chẳng phải không sanh; chẳng phải diệt tận, chẳng phải không diệt tận; chẳng phải khởi diệt, chẳng phải không khởi diệt; không ngôn giáo, chẳng phải không ngôn giáo; chẳng giải Không, chẳng phải chẳng giải Không; chẳng tư duy về định Chỉ, chẳng phải chẳng tư duy về định Chỉ. Bồ tát quán sát hai mươi bốn việc, quán rõ chi tiết từ đầu đến cuối, tâm phân biệt không trụ sanh tửlìa bỏ ràng buộc, không tự cao, không tự ti rồi phải dốc toàn lực tu tập Du tán tam muội, là tam muội đứng đầu trong trăm ức loại định. Tam muội đó là pháp tôn quý, không có pháp nào vượt hơn, chẳng phải cảnh giới của hàng La hán, Bích chi Phật.

Bấy giờ Thế Tôn ở trên tòa nhập chánh định tam muội tên là Nhất ý vô úy khiến cho tất cả bốn bộ chúng, mỗi người đều không có niệm tưởng khác cũng không loạn tưởng. Khi đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo tư duy pháp này. Ta nay vì ông giảng nói phân biệt tam muội để các vị trong pháp hội không còn nghi ngờ.

Ngài Tối Thắng thưa:

- Theo lời Thế Tôn dạy, con hân hoan muốn nghe. Do hân hoan nên tâm được an ổn.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Có tam muội tên là Tán chư kết khiến cho chúng sanh hữu hình ở vô hạn lượng cõi nước trừ bỏ khổ đau, không còn các phiền não. Lại có tam muội tên Dõng từ minh khiến mỗi chúng sanh không còn niệm oán hận. Lại có tam muội tên Danh đức sung, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh loại không có tưởng ăn uống. Lại có tam muội tên Thanh tịnh, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh đắc Pháp nhãn tịnh. Lại có tam muội tên Nhĩ căn thanh tịnh, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại đắc được thiên nhĩ thông. Lại có Ý tịch tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại từ bỏ pháp tà thế. Lại có Trừ ác tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại tu tập thập thiện hạnh tích. Lại có tam muội tên Độc bộ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại không còn tâm tà kiến mà theo chánh đạo. Lại có Thú lộ tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại theo đạo không mê hoặc. Lại có tam muội tên Thành tựu, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại bỏ ác giới, thành tựu giới thanh tịnh. Lại có tam muội tên Tàm quý lạc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại vâng giữ nhẫn nhục. Lại có tam muội tên Tấn Đức, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại đang có tâm giải đãi, kiêu mạn khởi ý dõng mãnh. Lại có tam muội tên Nhất kỷ vô lữ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ưa thích pháp hư dối mau nhập thiền định. Lại có tam muội tên Giáng phục, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh ngu si chấp trướctrí tuệ tự trang nghiêm. Lại có tam muội tên Vô xuyên lậu, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh không có tín tâm an lập tín căn. Lại có tam muội tên Tổng trì đức, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ít nghe đạt được đa văn. Lại có tam muội tên Oai nghi tắc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại chỉnh đốn oai nghi, không mất lễ tiết. Lại có tam muội tên là Thí ân, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh chấp dục vĩnh viễn không còn ái dục. Lại có tam muội tên là Dĩ độ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh sân nộ trừ bỏ tâm giận dữ oán hơn. Lại có tam muội tên là Vô hoặc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh nghu si tự thân tu tập trí nghiệp. Lại có tam muội tên là Biến chí, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại không chấp trước tam hữu. Lại có tam muội tên Nhất thiết thân thể hình sắc, Như Lai nhập tam muội này khiến tất cả chúng sanh của quốc độmười phương hóa thành trăm, ngàn, ức hình sắc mà mỗi chúng sanh đều không biết nhau. Này Tối Thắng, Ta nay lược nói các pháp tam muội chủ yếu. Nếu Như Lai từ kiếp này đến kiếp khác cho đến trăm kiếp giảng nói về tam muộiNhư Lai đã nhập thì không thể nói hết được, chỉ chư Phật Thế Tôn mới có thể biết mà thôi.

Khi ấy ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

- Thật kỳ diệu! Như Lai đã tạo ra thân tướng biến hóa không thể nghĩ bàn, không thể tính lường phương tiện khéo léo vô hình mà tự trang nghiêm. Như Lai nói các pháp tam muộiNhư Lai đã thể nhập, con xưa nay chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nếu có Bồ tát nghe được tên các tam muội đó rồi tâm ý định lĩnh thọ trì, tụng đọc thì đi đến nơi nào cũng được tự tại. Lại nữa, nếu khuyến trợ khiến chúng sanh hoan hỷ là đã cúng dường pháp của chư Phật. Đó chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác có thể theo kịp. Nếu có người hủy báng các pháp định tam muội đó thì luôn ở trong chốn u ám chẳng thể hiểu thấu được. Lại nữa, thân người đó sẽ rơi vào ngục Vô cứu, tội lỗi nhiều như cát phủ trùm không thể nói hết. Nếu người có tâm ganh ghét định ý tam muội thì tội đó khó lường, trải qua nhiều kiếp bị mù, ngọng, câm, điếc chẳng thể nghe pháp. Tuy được làm người nhưng luôn chịu nhiều khổ đau, nói dối, nói lưỡng thiệt, miệng không thể nói. Phải tự thân, chẳng phải nhờ người khác, có quảng bác đa văn của Bồ tát mới có thể tin chánh định tam muội này. Nếu có người khuyến khích người khác phát tâm tụng đọc, tu tập định này thì đúng thời được thấy chư Phật mười phương. Lại nữa, người nào hôm nay nghe Phật giảng giải định ý, chí không thay đổi thì mới ứng hợp với chánh định.

Bấy giờ ngài Tối Thắng nương oai thần của Đức Phật bạch Phật:

- Hôm nay các vị đến trong hội này, Bồ tátbốn bộ chúng trời, rồng, thần, quỷ đều mong được thấy Như Lai hiện sức cảm động của định ý. Nhờ đó họ có thể được thấm nhuần ít nhiều, được nhiều sự thành tựu. Bạch Thế Tôn, xin thương xót ban bố phóng ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Phậtmười phương. Chúng sanhcăn tánh thuần thục trong các cõi ấy nương nhờ ánh sáng đều được giáo hóa, đều được giải thoát.

Lúc ấy Thế Tôn theo lời ngài Tối Thắng liền nhập chánh định tam muội Như kỳ tượng, tam muội đó tên là Hữu túc chỉ luân đại ý, phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp thế giới Nhẫn xong lại chiếu đến hằng sa cõi nước của chư Phật ở mười phương. Chư Bồ tát trong quốc độmười phương gồm trăm, ngàn, ức chúng sanh theo ánh sáng ấy mà đến thế giới Nhẫn. Cách cõi này chín mươi sáu hằng hà sa đẳng các cõi Phật, còn hơn số đó nữa, về phương Đông có quốc độ tên là Hải Bảo. Đức Phật tên là Bảo Tịnh Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn hiện đang nói pháp. Đức Phật ấy có vị Bồ tát tên Biện Thông, là bậc Bồ tát bất thoái chuyển, thấy ánh sáng ấy liền đến chỗ Đức Như Lai Bảo Tịnh, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng sang một bên. Bấy giờ Đức Bảo Tịnh Như Lai bảo Bồ tát Biện Thông:

- Ông đến cõi đó phải giữ gìn oai nghi chớ để mất phép tắc. Như thế bởi vì cõi đó chí tánh cang cường, làm việc hung bạo. Ông chớ nên thấy khổ vui. Chúng sanh cõi đó phần nhiều có tâm kiêu mạn, không thuận theo Chánh pháp. Nếu gặp, ông nên cẩn thận, chớ có kinh sợ. Nếu có thể được như thế thì ông nên biết đã đúng thời.

Rất nhiều vị Bồ tátcõi Phật đó tự thưa với Đức Phật Bảo Tịnh:

- Chúng con sắp được thiện lợi, nhờ phước quá khứ nên tự mừng vì không sanh vào cõi Nhẫn.

Khi ấy Bồ tát Biện Thông cùng mười ngàn vị Bồ tát vây quanh trong khoảng thời gian một lực sĩ co duỗi cánh tay đã tới cõi Nhẫn, đến chỗ Đức Thích Ca Văn Phật ngự. Bấy giờ Thế Tôn biết nên bảo ngài Tối Thắng:

- Ông có thấy Bồ tát Biện Thông và các Bồ tát kia không?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Vâng, con đã thấy.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Vị Bồ tát đó biện nghĩa đệ nhất; từ, bi, hỷ, hộ (xả), lời nói như hòa, chí hạnh cao xa, trước cười sau nói, sắc mặt tươi vui. Có người hỏi thì trả lời ngắn gọn không trùng lặp, tiếp độ chúng sanh như Phật tiếp độ, với đạo Bồ tát đã thành tựu bất thoái chuyển.

Lúc đó Bồ tát Biện Thông cùng mười ngàn vị Bồ tát lễ chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay hướng về Đức Phật mà nói kệ khen ngợi:

Tiếng vang khắp mười phương

Giảng dạy tên công đức

Đến cõi Phật chúng con

Tất cả nhờ Phật độ

Cảnh giới Phật thanh tịnh

Không nghe tên năm đường

Bỏ đó mà đến đây

Từ bi khó dụ sánh.

Nay Thế Tôn thị hiện

Cõi người, thật khó có

Tích đức như Tu Di

Tự hạ mình xuống thấp.

Giả sử tinh tấn tu

Một kiếp đến trăm kiếp

Không bằng trong khoảnh khắc

Tu tâm ái cõi này.

Chư Phật hiện thế gian

Trước chọn cõi thanh tịnh

Chỉ Thế Tôn mới nhẫn

Trụ đời ngũ trược này.

Lành thay! Thật khó có

Cứu hộ, độ bình đẳng

Truyền dạy pháp tam thừa

Khiến tịnh thân, khẩu, ý

Đã thành Bồ tát đạo

Cũng không tâm thoái chuyển

Chí ý càng tinh tấn

Vì thế con đảnh lễ.

Trừ các kết si, nghi

Chóng tu mười hạnh lành

Chư Phật đầy đủ pháp

Giảng nói trí rộng sâu.

Như ở cõi Phật con

Phật trụ trăm ức kiếp

Không bằng ở cõi này

Trụ kiếp độ một người.

Con đến vô lượng cõi

Hằng sa không tính hết

Không nghe có khổ não

Và tám xứ không nhàn.

Người cõi này ngang ngạnh

Do cấu uế thành thân

Nước chơn như Tứ đế

Tắm gội sạch trong ngoài.

Chúng con tín tâm đến

quy y xa lại

Muốn nghe pháp định ý

Mong đúng thời tuyên giảng.

Bấy giờ Bồ tát Biện Thông nói kệ khen ngợi Đức Phật xong, ở trước Đức Phật thưa:

- Thế nào là Bồ tát có chí ý kiên cố kham nhẫn lãnh thọ định ý, nghe giáo giới cũng không nhàm chán, cho là đủ? Thế nào là Bồ tátlời nóiviệc làm tương ưng, nội tánh nhu nhuyến?

Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Biện Thông:

- Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo tư duy pháp này. Ta sẽ vì ông phân biệt nghĩa đó.

Ngài Biện Thông thưa:

- Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Đức Phật bảo Bồ tát Biện Thông:

- Tu tập định tâm thành tựu bốn pháp khiến chí ý Bồ tát kiên cố, kham nhẫn lãnh thọ định ý, nghe giáo giới cũng không nhàm chán, cho là đủ. Thế nào là bốn pháp? Đó là bốn pháp đẳng tâm: từ, bi… không lười biếng. Thấy người được độ như ảo hóa, cũng có trí tuệ của chư Phật không bình đẳng. (Đó là nói Bồ tát Biện Thông thành tựu bốn pháp, chí ý kiên cố, kham nhẫn lãnh thọ định). Thế nào là Bồ tát nhất tâm, chí hướng, lời nói không sai loạn?

Đức Phật bảo ngài Biện Thông:

- Khi ấy Bồ tát lại phải thành tựu bốn pháp. Bốn pháp là gì? Bồ tát chỉ giảng nói pháp Không cho chúng sanh, nói các pháp Không với các thọ nhập đều không chấp trước. Hoan hỷ tán thán công đức Bồ tát đã làm. Phân biệt pháp thiện ác, hữu vi vô vi, nghĩ nhớ thực hành phương tiện quyền xảo. Đó là bốn pháp. Thế nào là Bồ tát tăng ích thiện căn, trong nhiều hoàn cảnh không giảm?

Đức Phật bảo ngài Biện Thông:

- Bồ tát lại phải tư duy bốn pháp, ý chuyên nhất không loạn. Bốn pháp ấy là gì? Là nói tâm luôn chuyên chú trong định, nghiêm trì lễ tiết, không vọng mong cầu lợi dưỡng, không cầu tiếng tăm. Đó là bốn pháp khiến ý không loạn. Lại có bốn pháp làm tăng ích thiện căn? Bốn pháp đó là gì? Là nói bốn pháp: dạy người phát tín tâm. Sau khi bố thí không mơ tưởng quả báo. Hộ trì pháp sư. Ngôn giáo của Bồ tát giảng dạy không trái nghịch. Đó gọi là bốn pháp Bồ tát phải tu tập, thực hành. Lại có bốn pháp mà bồ tát từ địa này đến địa khác, hoặc đi lui đi tới đều phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Dạy chúng sanh tu tập thiện căn. Lìa xa các điều ác, không làm việc ngu mê. Không bỏ thệ nguyện lớn. Ý không khiếp nhược. Đó là bốn pháp mà Bồ tát phải tu tập thực hành. Lại có bốn pháp Bồ tát phải vâng giữ. Bốn pháp đó là gì? Là nói Bồ tát dùng quyền phương tiện giáo hóa chúng sanh. Làm cho kẻ phàm phu an lập tín tâm. Hóa độ không hư vọng. Hiện uy tướng của Phật mà tiếp dẫn chúng sanh. Đó gọi là bốn pháp Bồ tát phải vâng giữ. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Là nói đi đứng theo đúng phép tắc. Không chấp trước y phục. Tùy thuận theo phép tắc của thời đại đó. Ta luôn nhẫn dù khổ hay vui. Đó là bốn pháp tu hành của Bồ tát. Lại có bốn pháp. Bốn pháp đó là gì? Là nói tự điều phục tánh ý. Luôn phát đạo tâm. Không lìa phương tiện quyền xảo. Ý chuyên chú nhớ nghĩ Phật. đó là bốn pháp. Lại có bốn pháp mà Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Là nói Bồ tát phải nhớ nghĩ hạnh độc cư. Lìa xa tâm Thanh vănBích chi Phật. Cầu pháp không chán đủ. Giảng rộng chánh pháp đã được nghe cho người khác. Đó gọi là bốn pháp. Lại có thuốc men điều trị bệnh. Cầu nghĩa lý không nhàm chán. Nhẫn trước tất cả khổ. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Thực hành bất khởi nhẫn, vượt qua Diệt tận nhẫn. Tư duy mười hai nhân duyên căn bổn. Không chấp trước pháp nhẫn. Với mỗi pháp nhẫn đều tự lìa bỏ. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Tư duy pháp ác, quán bất tịnh. Đếm hơi thở ra vào. Tu tập pháp trong sạch. Luôn tự khiêm cung. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Phải quán pháp nào phù hợp với chúng sanh rồi sau đó mới cho thuốc. Luôn nhớ nghĩ cung kính, không được tự cao. Nếu ở trong đại chúng không mê đắm lợi dưỡng. Thực hành phương tiện quyền xảo thích hợp không ngại. Đó gọi là bốn pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? lãnh thọ pháp bình đẳng không thiếu sót. Quán thân mình bình đẳng với người không khác. Theo thiện tri thức tu tập. Đoạn trừ vĩnh viễn kết sử khiến không còn dư tàn. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Tự phản tỉnh biết lỗi của mình, không thấy lỗi của người. Nếu ở chỗ bộ phái ác thì làm cho họ tu tập tâm từ. Thông tỏ rõ ràng các pháp, trừ bỏ duyên ràng buộc. Đạo tâm kiên cố trọn không hư vọng. Độ cho chúng sanh hiện tiền tu tập đạo ý. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Luôn bố thí. Sau đó lại dạy người khiến họ thực hành tâm nhân ái bố thí. Khi khởi tâm bố thí cũng không chọn lựa, quán điều phải điều trái của chúng sanh. Với các pháp sâu xa đều được giải thoát. Tâm chí thành mong thành Phật trang nghiêm cội gốc đạo. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Biết sự sanh diệt của Hành. Có sức vô úy. Không rời bỏ chúng sanh. Phân biệt các trí, cũng có trí tăng thượng. Không có tâm trái nghịch. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Vượt qua năm đường luôn tu tập pháp Ba la mật. Nhập Từ tam muội lấy đó tự an vui. Vô lượng Phật trí đều hiện tiền. Cũng không có tâm nan giải mê mờ với vô lượng pháp tam muội. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Phát tâm hoằng thệ trọn không hối hận. Lời nói đúng với việc làm, không nói sai lầm. Y cứ thiền địnhkhông chấp thiền. Giữ gìn tâm niệm không chấp trước. Đến chỗ nào cũng không vui. Đó là năm pháp. Này Bồ tát Biện Thông, Đại Bồ tát tu tập định ý bổn hạnh này thì được chánh định của Như Lai.

Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói pháp đó, hai ức trời người đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn, lại có năm ngàn vị trời được pháp nhẫn bất khởi. Khi ấy chư Bồ tát ở các cõi Phật, mỗi vị đều tung rải hoa hương cúng dường lên Phật. Hoa ngập đến đầu gối.

 

 

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12458)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15191)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12332)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10511)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16420)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17885)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8994)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14152)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10592)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant