Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 9

25 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 9513)
Quyển 9


KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ
 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0309

Nguyên tác Hán ngữ: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

Hán dịch: Đời Diêu Tần, Lương Châu, Sa-môn Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Tâm Khanh

--- o0o ---


QUYỂN IX

Phẩm 24: ĐẠO TRÍ

 

Bấy giờ trăm ức chúng sanh ngồi trên tòa và các Bồ tát, người trong đại hội cùng Trời, Rồng, Thích, Phạm Tứ vương, chư Thiên của các cõi trời Đâu Thuật, Diễm Thiên, Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại cho đến chư Thiên cõi trời Nhất Cứu Cánh, mỗi vị đều nghi hoặc: “Chúng ta muốn được nghe giảng nói về pháp thâm yếu của đạo Chí chơn, nhưng là đạo vô tướng nên không thể thấy. Vậy sao Như Lai nói có đạo?”. Khi ấy Thế Tôn biết tâm niệm của các vị trong hội, liền bảo Bồ tát Tối Thắng:

- Các ông muốn được nghe Như Lai giảng nói về pháp thâm yếu của đạo Chí chơn vi diệu không?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Đúng như vậy. Bạch Thế Tôn, chúng con vui muốn nghe.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng và các Đại Bồ tát cùng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A tu luân, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân:

- Nên ngộ rõ đạo là không dấu tích, vắng lặng, không tên gọi. Này Tối Thắng, giả sử đạo có chỗ trụ thì Đại Bồ tát không ở trong pháp bình đẳng thành Bậc Tối Chánh Giác. Do biết được quả ấy không chỗ trụ nên Đại Bồ tát thành tựu Đẳng Chánh Giác.

Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:

- Đạo trí định ý của Bồ tát có mười pháp. Mười pháp đó là gì? Không tạo thân hành cũng không bị chấp trước. Không tạo khẩu hành cũng không bị chấp trước. Không tạo ý hành cũng không bị chấp trước. Đến cảnh giới Phật không khởi tưởng Phật. Giáo hóa chúng sanh đạt được trí vô ngại. Đều độ cho chúng sanh mê mờ hiểu rõ đạo và vô đạo. Lại độ cho chúng sanh thành tựu Tối Chánh Giác. Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp nơi, trong mỗi ánh sáng có vô lượng Đức Hóa Phật, mỗi Đức Hóa Phật diễn nói sáu pháp Ba la mật vô cùng sâu xa. Luôn chuyển Pháp luân phát Bồ đề tâm. Ngộ rõ ngã, vô ngã cũng không có thọ mạng. Thân tâm tự nhiên mới gọi là đạo. Tự nhiên đó là ngộ rõ đạo vô trí cũng không có trí. Giác ngộ và pháp vô sở giác đều không thấy có giác ngộ. Nói ngô là đạo thì cũng không thấy ngô. Nói ngã là đạo thì cũng không thấy ngã. Ngã, nhân, thọ mạng cũng như vậy. Tất cả chúng sanh cũng không có hình tượng.

Khi đó Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

- Nếu nói đạo không hình tướng nên không thể thấy thì như hiện nay vì sao lại chuyển Pháp luân, diễn nói pháp chứng đắc bốn đạo quảTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hánpháp Bích chi Phật, Bồ tát, Phật quả? Vì sao nói pháp năm ấm rồi lại nói pháp bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám đạo Hiền Thánh? Vì sao nói làm thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sanh, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác trí tuệ phân biệt sáu thức Cánh lạc (Xúc)? Vì sao lại nói pháp bốn đẳng tâm, sáu pháp Ba la mật, pháp tánh chơn như, các pháp này đều có tên gọi là đạo?

Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Theo lời ông hỏi, Đại Bồ tát ngộ rõ trí tuệ của Phật với năm phần Pháp thân và bao nhiêu pháp phương tiện khéo léo đều không thấy động chuyển. Thấy động chuyển thì chẳng phải là nghĩa của đạo. Xa rời tất cả pháp nương trụ, suy tìm pháp giới đó thì cũng không có pháp giới. Vì pháp vốn thanh tịnh nên phương tiện chuyển Pháp luân. Ngộ rõ, không chấp trước tất cả pháp cho nên, này Tối Thắng, các Đại Bồ tát với tất cả pháp đều không có tâm chấp trước, không thấy sanh cũng không thấy diệt. Cõi Phật thanh tịnh nên chúng sanh cũng thanh tịnh. Hiển bày vô lượng trí tuệ quang minh cho nên Đại Bồ tát lập hạnh tương ưng với pháp Tổng trì, tâm không thoái chuyển, lên Bồ tát vị, hoặc nhập định ý chánh thọ giáo hóa chúng sanh làm thanh tịnh cõi nước Phật. Vì tâm chuyên nhất tu tập nhẫn không có vô số đạo nên không nói pháp trí, chỉ tạm gọi là trí. Bồ tát Đại sĩ phải nhớ nghĩ tu hành hóa độ những người chưa giác ngộ nhưng đều không có thức tưởng. Này Tối Thắng, đó gọi là thể nhập tâm định chuyên nhất, đạo trí thanh tịnh, tất cả trí đều không có trần lao, điều phục người chưa được điều phục mà không suy tính khổ vui, là thường hay vô thường, là tốt hay xấu. Bậc có trí tuệ không loạn đều không có tưởng chấp trước mong cầu đầy đủ Phật tạng ở mười phương. Với các pháp Tứ vô sở úy, Tứ phân biệt tuệ, đại từ, đại bi, pháp tánh chơn như đều không sở hữu, đều là pháp rỗng không, đều là pháp vắng lặng. Bồ tátphân biệt báo ứng, đạo trí chí thành, không khởi tưởng diệt nên gọi là không, vô tướng, vô nguyện; cũng không có pháp sanh. Này Tối Thắng, vì vậy nên pháp thâm yếu của đạo Chí chơn của Đại Bồ tát, nếu luận về đạo thì tức là cõi hư không. Do vậy nên đạo tức là Không, Không tức là đạo, là một chứ không phải hai cũng không phải vô số.

Lúc ấy Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

- Lành thay! Lành thay! Vui thay được nghe pháp Thế Tôn giảng.

Khi đó Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân ở trong hội, tâm tự nghĩ: “Hôm nay Như Laichúng hội tuyên nói pháp Đạo trí không gì sánh bằng, chúng sanh tuy theo chí hướng tu tập của mình đều được mãn nguyện. Vị Bồ tát Tối Thắng kia khi sẽ sẽ thành tựu đạo Vô thượng Tối Chánh Giác?”. Đức Phật biết tâm niệm của chư Thiên, Long, Thần… liền bảo bốn bộ chúng:

- Vị Bồ tát Tối Thắng này sau vô số ba trăm ba mươi A tăng kỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Minh Tuệ Chí Chơn Như Lai Đẳng Chánh Giác. Thế giới tên là Vô Lượng. Kiếp tên là Thanh Tịnh. Chúng đệ tử theo Đức Phật Như Lai đó có chín ngàn chín trăm chín mươi hai ức vị, thọ một trăm hai mươi tiêu kiếp.

Lúc ấy chúng hội nghe Đức Phật thọ ký cho Bồ tát Tối Thắng, mỗi người tự phát nguyện ưa muốn được sanh về thế giới của Đức Phật ấy. Đức Phật liền bảo:

- Theo tâm nguyện của các ông chắc chắn sẽ sanh về cõi đó không nghi.

Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:

- Nay chúng trong hội này phần nhiều là chư Thiên cõi Đao Lợi thường cùng A tu luân giao tranh. Có khi chư Thiên thắng, A tu luân bại. Có khi A lu tuân thắng, chư Thiên bại. Hai bên giao tranh, mỗi bên đều bị tâm oán hận buộc ràng, mỗi bên đều có tâm giận dữ độc hại mà không thể lìa bỏ.

Ngài Tối Thắng thưa:

- Kính mong Đấng Thiên Tôn dùng quyền phương tiện nói pháp đạo trí hư không cho họ để chư Thiên nhân và A tu luân, mỗi bên đều hòa hợp khởi tâm từ bi.

Khi ấy Thế Tôn bảo các vị trong hội:

- Đạo là vô hình nên cũng không thể thấy. Ba độc căn bản vĩnh viễn không có khởi đầu kết thúc. Ở thế gian tu tập đạo chỉ có tín là mạnh mẽ. Người tu tập tâm Từ thì thiện thần hộ vệ, chư Phật mười phương đều khen ngợi. Đời này, đời sau tích đức vô lượng. Các loại chúng sanhhình tướng bò, bay, máy, cựa trong cõi Diêm phù lợi này đều phải quy về pháp diệt tận. Sanh mạng như điện chớp cũng như ngựa hoang, ảnh trong gương, chùm bọt trên mặt nước, hội họp thì có chia ly, sanh chắc chắn phải có chết. Các vị dã nhận lãnh thân hình thì không tránh được nạn đó. Tuy thọ thân mạng trời nhưng vẫn ở trong tam đồ, cần phải tự cẩn thận cầu mong lìa khỏi đường ấy. Các vị hãy lắng nghe nhận lãnh lời Ta dạy!

Bấy giờ bốn bộ chúng im lặng vui mừng, mỗi vị đều tự khởi tâm cung kính muốn nghe Như Lai dạy đạo pháp. Lúc ấy Thế Tôn bảo bốn bộ chúng:

- Các ông hãy khéo lắng nghe! Khéo tư duy! Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tư duy tám pháp môn giải thoát. Tám pháp môn đó là gì? Các vị thiện nam, thiện nữ tôn trọng giữ gìn giới luật không thiếu sót, phòng hộ thân, khẩu, ý; thực hành bốn tâm bình đẳng: từ, bi, hỷ, hộ (xả), luôn nhớ nghĩ theo gần gũi thiện tri thức, kính tin Tam bảo, chí luôn nhớ nghĩ cầu đạo Vô thượng, đem Chánh pháp đã được nghe giảng nói cho người, đạo giáo đã giảng thì không nói pháp Tiểu thừa, khuyên chúng sanh tinh tấn tu hành đạo lớn. Có khi Bồ tát diễn nói pháp Đại thừa bình đẳng không hai, không thấy có người nhận lãnh giáo pháp. Cũng như hư không không có hình tượng, giáo pháp mà chư Phật đã truyền dạy không thê nghĩ bàn, bao trùm vạn hạnh, không sót pháp nào. Hoặc nói hạnh không vắng lặng, không không hư giả, hoặc nói năm phần Pháp thân. Ví như một người có ngọc ma ni Như ý ở trong đại chúng theo ý muốn dùng oai đức của ngọc biến thành các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng làm cho người trong chúng có màu sắc như vậy. Đại Bồ tát cũng như thế, tùy theo ý niệm suy nghĩ trong tâm của mọi người liền diễn nói pháp đạo trí vô cùng khiến cho mỗi người đều hoan hỷ, chí tôn sùng Phật đạo, cuối cùng mới chỉ bày rõ pháp môn trí tuệ, làm lợi ích chúng sanh khiến họ phát tâm đạo Đại thừa. Bồ tát phát tâm hoằng thệ như vậy, tế độ chúng sanh mà không thấy độ. Cũng như hư không qua lại vô ngại, Bồ tát phát tâm độ người cũng thế, cũng không thấy có chúng sanh được độ.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Sau khi ông bát Niết bàn, tất cả chúng sanh suốt trong mười hai trung kiếp đều sẽ đến để phụng thờ cúng dường Xá lợi. Người không có nhân duyên thì tạo nhân duyên, người chưa được cứu hộ thì được cứu hộ, người không được che chở thì được che chở. Khi ấy nhân dân đều sẽ cúng dường hương hoa, trổi kỹ nhạc, cúi đầu tự quy mạng. Mỗi viên Xá lợi đều phóng ánh sáng, biến hóa thần đức khiến người trông thấy hoan hỷ. Đó đều do phát hoằng thệ nguyện nên mới được sức oai thần biến hóa thù thắng như Phật. Ánh sáng ấy vòi vọi, cao xa chiếu khắp mọi nơi, hiện bày ánh sáng trí tuệ vô lượng, làm nhân duyên khởi phát tâm đạo vô thượng. Trong số chúng sanh đó, người phát tâm sai lầm hoặc thành tựu pháp Thanh văn, Duyên giác hoặc sanh lên cõi trời hay được thân người. Xá lợi phân bố khắp tám phương và hai phương trên, dưới. Trời, Rồng, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân cùng các loài hữu hình bò, đi, hít thở đều sẽ cúng dường năm loại nhạc vui tươi.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Khi ông thành Phật, đất đều màu hoàng kim đầy đủ bảy báu: vàng, bạc, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Hoặc có chúng sanh muốn được cúng dường toàn thân Xá lợi liền được như ý nguyện. Ngàn, vạn, ức toàn thân Xá lợi hiện khắp thế gian. Kinh pháp lưu truyền khắp suốt mười bảy trung kiếp.

Bấy giờ, trên tòa có một Bồ tát tên Vô Lượng Giác Tuệ, tâm tự nghĩ: “Bồ tát Tối Thắng để lại thân Xá lợi, phân bố khắp thế gian khiến chúng sanh phát khởi đạo tâm, độ bao nhiêu người? Có bao nhiêu người nghe theo?”. Đức Phật biết ý niệm trong tâm vị Bồ tát ấy bèn bảo vị ấy:

- Dừng lại! Này Hiền sĩ, chớ có nói lời đó. Chớ dùng trí tuệ hạn lượng của mình để đo lường trí tuệ tam muội định ý vô ngại của Như Lai. Ánh sáng của Xá lợi tiếp độ chúng sanh chẳng phải tâm có thể đo lường được, chẳng phải ý có thể quán sát được. Đạo trí thần đức của Như Laitự tại. Lại nữa, pháp phương tiện thị hiện biến hóa của chư Phật chẳng phải là pháp hàng Thanh văn, Bích chi Phật đạt được. Đại Bồ tát đắc Tịch định tam muội đều không ốc tưởng xa gần chấp trước định ý. Khắp nơi ở mười phương cõi nước, huyện ấp, cung điện chư Thiên, cung điện Long vương, cung điện của các tôn thần, ở trong quân binh, nơi đồng trống, trên cõi trời, năm đường qua lại, mỗi nơi đều thị hiện toàn thân Xá lợi. Mỗi thân Xá lợi đều phát ra ánh sáng sáu pháp Ba la mật giải thoát vô tỷ; pháp không, vô tướng, vô nguyện; đại từ, đại bi, pháp bốn ân, pháp trí tuệ sáng phân biệt hư tịch, diễn đạt tâm định, cúng dường Xá lợi, pháp bình đẳng không hai, tâm thí kiên cố không tăng giảm. Đó gọi là Đại Bồ tát nhập Tịch ý định tâm tam muội thì có thể phân biệt sáu tình trong ngoài. Vì sao gọi là sáu tình? Sáu tình đó là: Nếu mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc, ngộ rõ sắc là vật bên ngoài. Nếu khởi nhãn thức thì sẽ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp đó là gì? Mười lăm pháp thuộc Dục thức, mười lăm pháp thuộc Sắc thức, mười lăm pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng thức, mười lăm pháp thuộc Sanh ấm, mười bốn pháp thuộc trung ấm.

Đức Phật bảo vị Đại Bồ tát:

- Ở trong nhãn thức khởi các trần lao đó thì nhãn thức khởi. Lại nữa, này Đại Bồ tát, các vị Tộc tánh nam nữ, nếu tai nghe tiếng mà không khởi họa của tai, ngộ rõ âm thanh là vật bên ngoài, nếu khởi nhĩ thức thì sẽ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao: mười lăm pháp thuộc Dục nhĩ thức, mười lăm pháp thuộc Sắc nhĩ thức, mười pháp thuộc Hữu tưởng vô thức thức, ba mươi chín pháp thuộc trung ấmthọ hình ấm.

Đức Phật lại bảo vị Đại Bồ tát:

- Ở trong nhĩ thức khởi các trần lao đó thì nhĩ thức khởi. Lại nữa, này Đại Bồ tát, nếu mũi ngửi hương không khởi tỷ thức, ngộ rõ hương là vật bên ngoài, nếu khởi tỷ thức thì sơ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao: mười lăm pháp thuộc Dục giới tỷ thức, mười lăm pháp thuộc Sắc giới, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng, Tứ không định.

Đức Phật lại bảo vị Đại Bồ tát:

- Nếu vị Tộc tánh nam hay nữ khởi thiệt thức biết vị mà khởi họa hoạn của lưỡi, ở trong đó phân biệt đều là vô chủ, đều ở trong Dục, đều ở trong thức thì có thể khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp đó là gì? Mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng… cho đến trung ấm. Đại Bồ tát lại phải tư duy pháp khởi diệt, các pháp thô tế trần lao do thân xúc chạm pháp bên ngoài làm phát sinh cảm xúc, phân biệt mỗi pháp đều vô sở hữu thì ở trong cảm xúc đó khởi thân thức, chính là khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp đó là gì? Bảy mươi bốn pháp đó là mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng… cho đến trung ấm. Đại Bồ tát lại phải tư duy sự hành hoạt của ý pháp. Pháp sanh thì sanh, pháp diệt thì diệt cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt. Người ngu hoặc ở trong đó khởi tưởng ý thức thì sanh khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao ấy là gì? Mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởngtrung ấm.

Đức Phật bảo vị Đại Bồ tát:

- Thế nào là đạo trí? Đạo trí của Bồ tát với Dục giới thấy rõ mười lăm pháp. Mười lăm pháp đó gồm:

Quán thế gian có bảy loại: Một là phỉ báng đạo. Hai là tin tưởng lời dạy. Ba là nhận lãnh giáo pháp. Bốn là với chơn lý có tâm thoái chuyển. Năm là được quả báo thì tâm do dự. Sáu là ý tinh tấn nhưng thân ngăn ngại. Bảy là mắt nhìn nhưng tâm không nương tựa vào pháp đã thấy.

Pháp tạng thâm sâu của Phật có tám việc. Tám việc ấy là gì? Một là Phật pháp không hình tượng nhưng giả đặt có pháp trụ. Hai là hiện tại không trụ niệm chấp trước thường tồn. Ba là quá khứ mãi diệt không thấy lời thệ nguyện. Bốn là tương lai chưa đến nhưng ngôn giáo không sanh diệt. Năm là do duyên khổ đưa đến họa, tự nhận lấy đối tượng do duyên ấy đưa lại. Sáu là tu tập thực hành phương tiện, chưa diệt tận mà nói là diệt tận. Bảy là kiến đạo rồi xả đạo, từ xưa đến nay luôn tinh tấn chuyên nhất. Tám là Phật pháp không hai nhưng tâm ý tham thiềnsai biệt.

Đó gọi là đạo trí của Đại Bồ tát với Dục giới quán rõ mười lăm hạnh trần lao. Thế nào là mười lăm hạnh trần lao thuộc Sắc giới? Mười lăm pháp đó: Một là ân thấm nhuần. Hai là tâm không dao động. Ba là chấp trước thú vui cõi trời. Bốn là quên tội phước. Năm là chấp cho là vĩnh cửu. Sáu là không đau ốm. Bảy là ở nơi chơn chánh. Tám là thực hành bình đsẳng. Chín là pháp nhẫn bất khởi. Mười là đạo không biến đổi. Mười một là tưởng đầy đủ. Mười hai là chấp trước sắc. Mười ba là tự tại. Mười bốn là chiếu xa. Mười lăm là yết ma. Đó là mười lăm hạnh trần laoĐại Bồ tát khi đến cõi trời thuộc Sắc giới phải nhớ nghĩ tránh xa.

Thế nào là Đại Bồ tát với cõi hữu tưởng vô tưởngtrung ấm xa lìa bốn mươi bốn hạnh trần lao? Khi ấy Bồ tát nhập thần thông định ý vô hình tam muội, qua lại trong đó phân biệt bốn mươi bốn hạnh trần lao. Bốn mươi bốn hạnh đó là gì? Khi đó Bồ tát nói và phân biệt hạnh: Một là chấp thức ngã là vô bổn. Hai là chấp vô hình, xả bỏ hình sắc. Ba là chấp thọ báo ứngthống khổ. Bốn là tưởng không kiên cố. Năm là từ bỏ, không thực hành bổn mạt. Sáu là không có trí tuệ nương tựa Không. Bảy là dừng bỏ tâm định vắng lặng. Tám là không có tưởng tri diệt. Chín là chấp thức hiện tại không loạn. Mười là ý vọng, ý không chơn chánh. Mười một là ý cũng không trụ hiện tại. Mười hai là thức không trụ nơi đạo. Mười ba là ý cũng không trụ nơi pháp thế gian. Mười bốn là chấp tánh Không như thị. Mười lăm là chỉ nghe tiếng, không thấy hình. Mười sáu là nghĩ đạo là vô tận. Mười bảy là chấp mọi pháp là Không, không có pháp nào khác. Mười tám là chấp Niết bàn thanh tịnh. Mười chín là chấp cho rằng đã giác ngộ hoàn toàn đạo đưa đến tịch tĩnh. Hai mươi là tâm si mê chấp ân thấm nhuần. Hai mươi mốt là chấp vẫn còn thân trung ấm. Hai mươi hai là thấy có nhận lãnh thân trung ấm. Hai mươi ba là chấp thân trung ấm qua lại. Hai mươi bốn là chấp biết thân trung ấm từ đâu lại. Hai mươi lăm là chấp thấy chúng sanhthân trung ấm quan lại. Hai mươi sáu là chấp thấy thân trung ấm có sanh, có diệt. Hai mươi bảy là chấp tự thấy thân cảm thọ cảnh giới địa ngục. Hai mươi tám là chấp thân có nhận lãnh tội, thân không nhận lãnh tội. Hai mươi chín là thấy thọ thân Thiên ấm, có vị thọ phước, có vị không thọ phước. Ba mươi là thấy thọ thân Nhân ấm, có người thọ phước, có người không thọ phước. Ba mươi mốt là thấy thọ thân trung ấm ngạ quỷ có loài cao, có loài thấp. Ba mươi hai là thấy thọ thân Súc sanh ấm có loài nặng, có loài nhẹ. Ba mươi ba là có chúng sanh từ thân Thiên ấm trở lại thân Thiên ấm là do khi chết thức không loạn. Ba mươi bốn là có chúng sanh từ thân Thiên ấm sanh vào thân Nhân ấm là do thức của họ tuy mạnh mẽ nhưng không có trí tuệ. Ba mươi lăm là có chúng sanh từ thân Thiên ấm nhận lãnh thân Súc sanh ấm là do thức yếu ớt, ý khởi loạn tưởng. Ba mươi sáu là có chúng sanh từ thân Trời thọ thân Ngạ quỷ ấm là do khi chết ý tham lam không chán. Ba mươi bảy là có chúng sanh từ thân Trời thọ thân Địa ngục ấm là do thức có tưởng thệ nguyện phỉ báng Hiền Thánh. Ba mươi tám là có chúng sanh từ thân Nhân ấm trở lại thọ thân Thiên ấm là do (tu tập) pháp cấm giới thanh tịnh. Ba mươi chín là có chúng sanh từ thân người nhận lãnh thân Súc sanh ấm là do tu tập tâm ý không chuyên nhất. Bốn mươi là có chúng sanh từ thân Nhân ấm thọ thân Ngạ quỷ ấm do chấp rằng chỉ một mình tu thiện là tốt, không chịu phổ biến cho người. Bốn mươi mốt là có người từ thân Nhân ấm thọ thân Địa ngục ấm, trước nhận phước sau lãnh họa. Bốn mươi hai là có người từ thân Súc sanh ấm thọ thân Thiên nhân ấm là do đã tạo phước rồi nhưng không tiếp tục tạo phước mới. Bốn mươi ba là có người từ thân Súc sanh thọ thân Ngạ quỷ ấm và thân Địa ngục ấm là do tám tội vô gián không thể cứu. Bốn mươi bốn là chấp có thân ấm hiện hữu, thân ấm lãnh thọ, thân và thần thức không loạn. Đó là bốn mươi bốn họa hoạn trần lao thuộc Hữu tưởng vô tưởngtrung ấm của Đại Bồ tát.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát lại phải tư duy về thần thức trung ấm hư không, hoặc từ Không thức sanh Thức ấm, hoặc từ Thức ấm thọ bất dụng xứ ấm, hoặc từ Bất dụng xứ ấm thọ Vô sắc thiên ấm, từ Vô sắc thiên ấm thọ Lục thiên ấm, cho đến Cứu Cánh thiên. Từ Cứu Cánh thiên lại thọ Sắc vô sắc thiên ấm. Người thọ thân Thiên ấm, thân hình cao một nhận rưỡi, tìm chỗ để đi chứ không trụ trong thân đó. Người thọ thân Nhân ấm, thân hình cao ba khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là trong bảy ngày, hoặc sáu ngày, năm, bốn, ba, hai, một ngày. Người thọ thân Súc sanh ấm, chậm nhất là ba ngày rưỡi hoặc hai ngày hay một ngày rưỡi. Người thọ thân Ngạ quỷ ấm chậm nhất là khoảng thời gian nửa bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Người thọ thân Địa ngục ấm, thân cao ba nhận rưỡi, hoặc có kẻ sanh ra chưa đủ bảy ngày liền chết rồi, sanh đến thân đó. Đại Bồ tát đều theo người mà giáo hóa, vì họ mà nói pháp vi diệu. Người có tâm mau ngộ thì không thọ các thân trung gianđắc đạo.

Súc sanh thọ thân Nhân ấm, thân cao hai khuỷu tay rưỡi chậm nhất là trải qua bốn ngày, ba, hai, một ngày. Súc sanh thọ thân Thiên ấm, thân hình cao ba nhận rưỡi, chậm nhất là một ngày rưỡi, hoặc một ngày, nửa ngày; hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Súc sanh thọ thân Ngạ quỷ ấm, thân cao bảy nhận. Có loại xuất sanh chậm nhất là năm ngày, hoặc bốn, ba, hai, một ngày. Súc sanh thọ thân Địa ngục ấm, thân cao một nhận rưỡi, chậm nhất là trong khoảng thời gian nửa bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Ngạ quỷ thọ thân Thiên ấm, thân hình cao nửa nhận, chậm nhất là trải qua một ngày, hoặc nửa ngày, hoặc khoảng thời gian một bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Ngạ quỷ thọ thân Nhân ấm, thân cao hai khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là bốn ngày rưỡi, hoặc ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân Súc sanh ấm, thân cao bốn nhận rưỡi, chậm nhất là mười lăm ngày, mười bốn, mười ba, mười hai, mười một ngày, mười ngày, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân Địa ngục ấm, thân cao năm nhận rưỡi, chậm nhất là chín mươi ngày, hoặc có loài xuất sanh trong tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày cũng như vậy.

Lại nữa, Đại Bồ tát lại phải quán sát như vầy, chúng sanh địa ngục thọ thân Thiên ấm kia thân cao bốn nhận rưỡi, chậm nhất là trải qua năm tháng, bốn, ba, hai, một tháng. Nếu thân Địa ngục ấm thọ thân trung ấm cõi người thì thân cao hai khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là trải qua ba tháng, hai, một tháng. Địa ngục thọ thân Súc sanh ấm, thân cao tám khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là ba tháng rưỡi, hai, một tháng cũng như vậy. Địa ngục thọ thân Ngạ quỷ ấm, thân cao chín nhận, chậm nhất là trải qua ba ngày. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Nhân ấm, giữa chừng chưa tới nơi thì trở lại thọ thân Thiên ấm, loại thân đó lợi căn không trải qua khổ. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Súc sanh ấm, đột nhiên lại sanh vào thân trung ấm cõi người, loại thân đó không hủy giới độ. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Ngạ quỷ ấm, đột nhiên lại sanh vào thân Súc sanh ấm, loại thân đó vâng theo tu tập pháp đảnh nhẫn. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Địa ngục ấm, đột nhiên lại ở trong thân Ngạ quỷ ấm, loại thân đó quả báo đã thành thục sẽ sanh vào cõi người. Hoặc có thân Nhân ấm thọ sanh vào thân Ngạ quỷ ấm, chúng sanh đó đột nhiên lại ở trong thân Thiên ấm. Loại thân đó có là do tâm định không loạn. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân ấm trong ba đường ác đột nhiên lại thọ thân ấm trong cõi người, cõi trời. Loại thân đó có trí tuệ thông tỏ do tâm, tu quảng bác. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân trung ấm ở cõi Nhất Cứu Cánh thiên, đột nhiên lại hiện thânthân trung ấm cõi trời Quang Âm. Loại thân này là do tâm ý chuyên nhất. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân trung ấm ở cõi Biến Tịnh thiên, đột nhiên lại hiện ngay thân trung ấm ở cõi Hữu tưởng vô tưởng. Loại thân này là do có trí tuệ không đạt.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát ngồi dưới cội đạo thọ dùng Nhất thiết trí vô ngại, Đẳng trí, Chấp lục thông trí, Biện tài tuệ trí, Liễu âm hưởng trí, Vô thối chuyển trí quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới ai thọ hình, ai không thọ hình, ai thọ thân trung ấm, ai không thọ thân trung ấm; có bao nhiêu chúng sanhcõi người, có bao nhiêu chúng sanh ở trong thân trung ấm cõi người. bồ tát lại quán thân Nhân ấm của chúng sanh thọ thân Tứ đại ấm, số bao nhiêu đều biết tất cả.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát quán chúng sanh cõi trời ở trong thân trung ấm cõi trời, lại quán số chúng sanh cõi trời có hướng đi vào bốn đường bao nhiêu đều biết tất cả. Có khi Đại Bồ tát dùng sáu pháp thần thông, trí không thoái chuyển quán chúng sanh thọ thân súc sanh. Có bao nhiêu chúng sanh thọ thân trung ấmsúc sanh chuyển sang thọ thân trung ấm trong bốn đường, số bao nhiêu đều biết tất cả. Bồ tát lại quán chúng sanh thọ thân ngạ quỷ. Có bao nhiêu chúng sanhthân trung ấm ngạ quỷ phải thọ thân ở bốn đường đều biết tất cả. Có khi Đại Bồ tát quán chúng sanh thọ thân địa ngục. Có bao nhiêu chúng sanh thọ thân trung ấmđịa ngục hướng sanh vào bốn đường đều biết tất cả.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát dùng trí bất thoái chuyển quán khắp thân trung ấm của năm đường, có thọ hình hay không có thọ hình. Hoặc có thân ấm trụ tại cõi người đột nhiên lại hiện sanh thân Thiên ấm, ở trong Thiên ấm liền thủ diệt độ, cuối cùng không thọ thân trời, thân người. Hoặc có thân ấm trụ tại cõi trời đột nhiên lại hiện sanh thân Nhân ấm rồi thủ diệt độ, không thọ thân trời, thân người. hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi súc sanh, thân trung ấm ở cõi súc sanh đột nhiên lại hiện sanh thân trung ấm cõi người, ở thân trung ấm cõi người liền thủ diệt độ, không thọ thân người hay súc sanh. Hoặc có thân trung ấm trụ ở cõi súc sanh, thân trung ấm ở cõi súc sanh ấy đột nhiên lại hiện sanh thân trung ấm cõi trời, ở thân trung ấm cõi trời bèn thủ diệt độ, không thọ thân trời hay súc sanh. Hoặc có thân trung ấm trụ ở cõi ngạ quỷ, thân trung ấmcõi ngạ quỷ đột nhiên hiện sanh thân trung ấmcõi người, thân trung ấmcõi người ấy bèn thủ diệt độ không thọ thân ngạ quỷ, thân người. Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi ngạ quỷ, thân trung ấmcõi ngạ quỷ đó đột nhiên hiện sanh thân trung ấmcõi trời, ở thân trung ấm cõi trời ấy bèn thủ diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ, thân trời. Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi địa ngục, thân trung ấmđịa ngục ấy đột nhiên hiện sanh thân trung ấm cõi người, ở thân trung ấm cõi người bèn thủ diệt độ, không thọ thân ở địa ngục hay thân người. Hoặc có thân trung ấm trụ ở địa ngục đột nhiên hiện sanh thân trung ấmcõi trời, ở thân trung ấm cõi trời ấy bèn thủ diệt độ, không thọ thân hìnhđịa ngục. Đó gọi là Đại Bồ tát dùng trí không thoái chuyển quán khắp ba ngàn đại thiên thế giớichúng sanh thọ hình, chúng sanh không thọ hình, có tội, có phước đều biết tất cả.

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng và một vạn tám ngàn người, mười vạn Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chân đà la, Ma hưu lặc liền rời chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật:

- Lạ lùng thay lời pháp này! Vui thay pháp chưa từng có! Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn đã hoan hỷ giảng nói pháp về thân trung ấm vô hình vô hạn lượng không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi Phậtthể đạt được. Chúng con ưa muốn mong thấy hình chất thân trung ấm. Bạch Thế Tôn, cúi xin thương xót hàng chúng sanh hạ liệt để họ được đội ân tẩy trừ vĩnh viễn tâm cấu bẩn.

Lúc đó Thế Tôn bảo các vị trong hội:

- Lành thay! Lành thay nghĩa lý của câu các ông vừa hỏi. Ta nay sẽ vì các ông hiện thần túc để tám bộ chúng được thấy hình chất của thân trung ấm.

Khi ấy Thế Tôn liền nhập Vô hình quán tam muội thấy khắp thân trung ấm của chúng sanh trong năm đường, có thọ thân hình hay không thọ thân hình, có tội, có phước đều biết tất cả. Ngay lúc ấy chúng hội trên tòa cũng thấy được hình chất thân trung ấm trong năm đường đó, lại nghe Đức Như Lai nói đạo giáo cho các thân trung ấm ấy. Họ ngay khi đó tận trừ các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Hoặc có thân trung ấm phát tâm Đại thừa, hoặc có thân trung ấm nói lên hạnh chí bí mật. Các thân trung ấm tùy theo loại giáo hóa đều không bị nhiễm trước. Chúng hội lại thấy thân trung ấm ở năm đường đó từ Nhất trụ địa đến Thập trụ địa, thấy có thân trung ấm đắc Nhất sanh bổ xứ, ngồi dưới cội đạo thọ hàng phục vô số ức trăm ngàn quỷ, thân màu hoàng kim, đầy đủ các tướng, cũng có các vua trời Thích, Phạm Tứ vương đến thỉnh Bồ tát diễn nói pháp ấm vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy chư Phật Thế Tôn ở cõi khác thọ ký cho Bồ tát, nói rõ danh hiệu, cõi nước xa gần, hạnh thanh tịnh. Hoặc thấy Bồ tát ở trước Thế Tôn tán thán pháp mười hiệu của Như lai. Hoặc có Bồ tát ở trước Thế Tôn tán thán pháp mười hiệu của Như Lai. Hoặc có Bồ tát làm hưng thạnh giáo pháp, đến cúng dường, hoặc dùng tạp kệ tán thán công đức của Như Lai. Các vị trong hội quán thấy chúng sanh của cõi đó ở trong thân trung ấm có đủ loại thần túc biến hóa không thể nghĩ bàn, lại thấy Đức Như Lai hiện ánh sáng của tướng lưỡi; mỗi ánh sáng đều có Đức Hóa Phật và tám bộ chúng vây quanh sau trước, nói pháp vô úy, trí không thoái chuyển, đầy đủ các pháp thâm tàng, hoặc truyền pháp thọ ký riêng cho hàng đệ tử Duyên giác: “Ở đời tương lai ông sẽ thành Phật hiệu như thế này…”.

Lúc đó một vạn tám ngàn người và trăm ngàn vị Thiên tử ở trên tòa ngồi đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Bấy giờ Thế Tôn xả thần túc trở về tòa ngồi như cũ, bảo bốn bộ chúng:

- Thần đức của Như Lai không ai có thể biết hết, lại có bốn pháp không thể nghĩ bàn. Bốn pháp ấy là gì? Một là chí bí mật của Như Lai không thể nghĩ bàn. Hai là căn tánh của chúng sanh không thể nghĩ bàn. Ba là đạo tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn. Bốn là ý quán khắp của Như Lai không thể nghĩ bàn. Lại nữa, này Tối Thắng, lại có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bốn việc đó là gì? Một là nghi tắc của Như Lai không thể nghĩ bàn. Hai là pháp tòa của Như Lai không thể nghĩ bàn. Ba là giáo giới của Như Lai không thể nghĩ bàn. Bốn là định ý kim cang không thể nghĩ bàn. Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bốn việc đó là gì? Ở dưới cội đạo thọ ý như hư không không thể nghĩ bàn. Không thấy phải cũng không thấy quấy không thể nghĩ bàn. Lấy tiểu làm đại, lấy đại làm tiểu không thể nghĩ bàn. Nói pháp chắc chắnchúng sanh được tế độ cũng không thấy có tế độ không thể nghĩ bàn. Lại có bốn việc tương ưng với thực hành pháp mà không thể chấp trước là nói có ngô ngã, không thấy sanh cũng không thấy có diệt, không tạo tác cũng không chấp đoạn, căn tánh của tất cả chúng sanh đều thanh tịnh. Này Tối Thắng, đó gọi là pháp tương ưng mà khi Đại Bồ tát thực hành pháp không bị chấp trước. Thế nào Tối Thắng, Đức Thế Tôngiới hạn không?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Chẳng giới hạn.

Đức Thế Tôn lại hỏi ngài Tối Thắng:

- Các pháp chơn chánh hiện hữu từ pháp giới sanh vốn không có giới hạn thì có sanh ra pháp hiện hữu không? Là chẳng phải không hiện hữu chăng?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải từ hiện hữu mà có, chẳng phải từ không hiện hữu mà không có.

Đức Phật hỏi:

- Thế nào Tối Thắng, các pháp không giới hạn chẳng phải từ hiện hữu mà có, chẳng phải từ không hiện hữu mà không có thì sao lại có thành tựu Đẳng Chánh Giác?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng có sự thành tựu Đẳng Giác.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Như Lai ngồi dưới cội đạo thọ quán pháp vô tế, giáo pháp vô sanh diệt đều là hư tịch, tự nhiên vô trí cũng không có trí. Nếu không có trí thì có ai biết. Cho nên, này Tối Thắng, pháp ngô ngã là phương tiện giả đặt không thật, cũng không có kiến đạo. Đạo thì không có pháp kiến đạo. Không thấy, không nghe, không có trí tuệ, không có chấp trước kiến giảipháp giới cũng như vậy, không thấy khởi diệt là pháp tạo an trụ, có người nhận lãnh giáo pháp cũng không thấy văn tự, chương cú. Này Tối Thắng, như vậy là ngộ rõ các pháp hư không, không hình tướng. Nếu có kẻ ngu phu, vô trí thì kẻ đó an trụ hư không chăng?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Chẳng phải vậy.

Đức Thế Tôn dạy:

- Pháp tánh của tất cả các pháp là Như thị, pháp Chơn tế Bổn vô đều không sở hữu. Nay nói có đạo đại từ, đại bi, bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám hạnh Hiền Thánh, không, vô tướng, vô nguyện, sáu pháp tăng thượng, mười tám pháp bất cộng, không phải do các pháp này mà được thành đạo. Đạo là vô hình cũng không thể thấy, vì pháp cô hình nên mới gọi là đạo. Đạo không có đến cũng không có đi. Này Tối Thắng, đó mới chính là đạo. Giả sử Như lai từ pháp giới sanh, từ pháp giới diệt thì chính là hạnh sanh tử uế trước. Do không sanh diệt nên gọi là đạo.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Đại Bồ tát nhập Hư không quán tam muội, ở trong các cảnh giới tu tập, không chấp nhiễm thiền. Dùng pháp thiền định đó đạt đến tâm vô ngại cũng không sai loạn, chẳng có thân, chẳng có tâm, chẳng có pháp bình đẳng hay không bình đẳng. Tư duy Không định không thấy cương nhu, chí luôn đạm bạc, không tương ưng với pháp không tương ưng. Này Tối Thắng, đó gọi là Không định vô hạn lượng không thể nghĩ bàn của Bồ tát, chẳng phải là pháp hàng La hán, Bích chi Phật đạt được. Này Tối Thắng, ví như lửa thiêu đốt núi đồng, rừng cây, thảo mộc. Lửa chẳng phải rừng cây, rừng cây chẳng phải lửa. Lửa chẳng phải là lửa, cũng chẳng phải là lìa lửa. Nên biết kiết sử của Bồ tát cũng như vậy. Kiết sử chẳng phải là đạo, đạo chẳng phải là kiết sử. Kiết sử cũng không cách xa đạo. Ngộ rõ Không định, Vô hình tam muội cũng như thế. Các pháp Bổn vô thanh tịnh bình đẳng, hoặc dùng chánh định quán sát pháp tế mà đạt tâm bình đẳng, không nhiễm ô. Tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Tâm không trụ sắc cũng không thấy pháp trụ thì vượt qua tất cả điên đảo. Do phương tiện nói pháp vô hình nên gọi là đạo, hoặc dùng ngũ thông, tam đạt diệu trí đi khắp nơi muốn giáo hóa chúng sanh. Pháp giáo hóa tự thể hiện hữu giáo hóa nhưng cũng không thấy có giáo hóa. Đó gọi là đạo siêu việt ra ngoài pháp ngũ thông. Hoặc lìa khỏi tâm quán Không của Thanh văn, Duyên giác, tâm không hiện quán Không của hàng Duyên giác ngũ thông, đó gọi là đạo. Bồ tát lại dùng Định ý chánh thọ tam muội quán sát pháp bổn: Pháp từ đâu sanh? Pháp từ đâu diệt? Không thấy sanh cũng không thấy diệt thì mới gọi là đạo. Với pháp hữu vi của thế gian, pháp vô vi của đạo, không thấy thế gian cũng không thấy đạo thì mới gọi là đạo. Hữu lậutrần lao, vô lậuthanh tịnh, không thấy lậu cũng không thấy có pháp lậu. Với mười pháp thiện hạnh, mười pháp bổn ác, không thấy thiện cũng không thấy ác. Với lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc không thấy khổ cũng không thấy vui. Không thấy thành đạo cũng không thấy ở thế tục không thấy nói pháp Hiền Thánh tịch mặc. Này Tối Thắng, đó là Đại Bồ tát nhập Không định thì mới gọi là đạo.

Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát lại phải tư duy Hư không tạng tam muội, không thấy pháp giải thoát hữu dư trụ thọ mạng qua nhiều kiếp, không thấy giải thoát vô dư không có biến đổi thì mới gọi là đạo. Đó gọi là Đại Bồ tát tu tập thành tựu Không tuệ, dùng quyền phương tiện khéo léo từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường chư Phật, theo hầu chư Phật Thế Tôn, giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi Phật. Không thấy sắc tướng là sức tướng hiện tại. Thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc) thức cũng như vậy. Không thấy có độ, đắc pháp Niết bàn, không thấy pháp lưu chuyển trong sanh tử. Nếu vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, thọ trì, ghi nhớ mãi không quên thì hiện tại được tám phước công đức. Tám pháp đó là gì? Quán các pháp Không, có đức tin không do dự. Được pháp tạng sâu xa của Phật, ý không khiếp sợ. Ý thanh tịnh, không dơ uế, không bị nhiễm ô; tâm như kim cương không thể phá hoại. Các hạnh chơn chánh, không theo cõi ma. Làm thanh tịnh quốc độ Phật, độ người chưa được độ. Tâm Đại thừa rộng lớn, không ưa thích trí nhỏ hẹp. Gần gũi thiện tri thức, không theo ngoại đạo. Quán niệm mong cầu pháp chơn chánh, không có tưởng ngã, nhân. Đó gọi là Đại Bồ tát đạt được tám công đức, ngộ rõ pháp thế gian không có ngã, nhân, thọ mạng; tâm trụ pháp Bổn vô thì mới tương ưng với chánh định, luôn dùng thiền định đạt đến diệt độ, khai hóa chúng sanh mà không có tâm mệt mỏi. Đó là thấy phapst hì mới tương ưng với đạo. Đó là vì thấy các pháp vắng lặng, không hình tướng, không hành, không nơi chốn. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát ngộ rõ Không chẳng phải hữu, Không cũng chẳng phải là có pháp Không. Không chẳng phải là pháp Không nên vắng lặng, vô danh. Có khi Bồ tát quán các pháp, không nương tựa tam xứ, không chấp trước tam hữu. Bồ tát ở cõi thế gian trời, người phát tâm hoằng thệ độ chúng sanh mê mờ như vậy thì không thấy có chúng sanh được độ. Đó gọi là Đại Bồ tát tu tập thành tựu Không tuệ, vĩnh viễn không có tâm chấp trước. Tối Thắng nên biết, pháp Vô hình định ý mà Như Lai thể nhập chẳng phải là pháp hàng Nhị thừa có thể thấy được, chỉ có Phật mới thấy rõ. Trí tuệ Phật không ngăn ngại, không chấp trước, không bị nhiễm ô, không bị nhiễm chấp các cảnh giới. Nếu đạt pháp sâu xa không lấy đó làm vui, không chấp trước tám nghiệp không nhàn của thế tục, có bốn pháp biện tài vô ngại, không diệt, không thiêu đốt (phiền não), chẳng phải không thiêu đốt (phiền não); không khởi, không sanh, chẳng phải không có sanh. Quá khứ vĩnh viễn diệt, chẳng phải có quá khứ. Hiện tại không trụ cũng không có pháp trụ. Tương lai chưa khởi, không thấy pháp sanh. Đó gọi là Đại Bồ tát không chấp trước, không ngăn ngại, không chấp trước tam xứ, không nhiễm ô tam hữu.

Bấy giờ chín vạn chúng sanh, mười một na thuật Trời, Người và các Trời, Rồng, Quỷ, Thần từ chỗ ngồi đứng dậy, vén y bày vai phải, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật:

- Chúng con căn tánh thấp hèn được pháp thanh tịnh này mới có thể giảng nói pháp vô hình, pháp không danh tướng. Bạch Thế Tôn, ngưỡng mong Thế Tôn làm cho thân trung ấm trời người sanh đời tương lai được ở cảnh giới cõi Phật nhận lãnh, chứng đắc pháp vô vi trong cùng ngày, cùng lúc, cùng một quốc độ.

Khi ấy Đức Thế Tôn mỉm cười, miệng phát ra ánh sáng năm màu chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ánh sáng ấy nhiễu quanh thân ba vòng rồi nhập trở lại vào miệng Đức Phật. A Nan quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật:

- Con tự nghĩ con theo hầu Phật dã hơn ba mươi năm nhưng chưa từng thấy ánh sáng như thế này. Bạch Thế Tôn, ngưỡng mong Thế Tôn giảng nói để chúng sanh tương lai vĩnh viễn không còn sự si mê, không thông tỏ.

Lúc ấy Thế Tôn bảo A Nan:

- Ông nay có thấy chín vạn chúng sanh, mười một na thuật trời người kia không. Họ ở đây mạng chung, thân trung ấm đều sẽ sanh về thế giới Vi Trần. Thân trung ấm đã sanh về nơi đó, mỗi thân theo thứ lớp thành Phật đều đồng một hiệu là Vô Sắc Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn, toàn dùng Bồ tát để làm chúng tùy tùng. Thân trung ấmthế giới ấy trụ thọ mạng một kiếp, sau khi bát Niết bàn, pháp để lại truyền một kiếp. Lại tiếp theoĐức Phật ra đời không dứt tuyệt.

Khi Đức Phật nói pháp này, Bồ tátcõi trời Biến Tịnhvô số chúng sanh hối hận vì thọ nhận thân người và thân trời, ngồi trên tòa khóc lóc không thể tự kềm chế. Đức Phật biết như vẫn hỏi:

- Thiện nam tử vì sao khóc lóc bi thương quá lắm như vậy?

Các vị ở cõi trời Biến Tịnh thưa:

- Chúng con cũng muốn sanh về cõi đó nhưng vì không được dự phầân nên buồn khóc.

Đức Phật bảo các vị trời Biến Tịnh:

- Dừng lại! Chớ có nói lời đó! Các ông thuở xưa dã phát tâm thệ nguyện rộng lớn khác, nay vì sao lại muốn sanh về cõi đó. Trong Hiền kiếp có tên là Diệt, các ông sẽ tiếp nối nhau thành Phật hiệu là Biến Tịnh Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. 

 

 

 

Phẩm 25: THÂN KHẨU Ý

 

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:

- Tất các các pháp đều như ảo hóa. Trong pháp ảo hóa giáo hóa chúng sanh, thanh tịnh quốc độ như thế nào? Tịnh trừ ba tưởng ngã, nhân, thọ mạng như thế nào? Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác hầu cận cúng dường chư Phật Thế Tôn như thế nào?

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Chỉ ông mới có thể ở trước Như Lai cất tiếng sư tử rống. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo tư duy ghi nhớ. Ta nay sẽ giảng nói nghĩa đó cho ông. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ tát luôn nhớ tu tập thực hành pháp của thân, khẩu, ý; quán rõ các pháp như ảo, như hóa. Quá khứ, hiện tại, vị lai đều không nương chấp.

Lúc đó trên tòa có vị Bồ tát tên Hoan Lạc ở trước Đức Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn, nếu có chúng sanh ưa thích pháp bổn sâu xa, lại cúng dường; thân, khẩu, ý thanh tịnh, các căn thuần thục thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Đẳng Từ thưa:

- Vị nào thực hành tâm Từ thương xót tất cả chúng sanh, ngộ rõ văn tự, đều không bị chấp trước văn tự, không thấy pháp của thân, khẩu hành, ở trong đó đắc được pháp thanh tịnh thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Ngài Nhu Thủ Đồng Chơn nói:

- Nói tất cả các pháp bổn mà không thấy nói, không thấy pháp tưởng, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tất.

Bồ tát Viêm Quang nói:

- Phật pháp không hai cũng không thấy hai, dừng dứt các kiết sử chấm dứt không khởi diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Liên Hoa Kết nói:

- Có thể đi khắp nơi, đến cõi nước mười phương thấy cõi nước thanh tịnh mà khởi tưởng thanh tịnh, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Quang Minh nói:

- Tất cả các pháp đều quy về nơi không quy về, với thân, khẩu, ý cũng không khởi tưởng diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Pháp Tịnh nói:

- Tất cả các pháp đều quy về Không, nhập chánh định, thu nhiếp tâm ý không loạn, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Liên Hoa Hành nói:

- Ở trong pháp Bổnthực hành pháp vô tận, ở trong pháp vô tận thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Chánh Đẳng nói:

- Biết khổ, biết vui cũng không có khổ vui, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý hì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Trừ Nộ Tạng nói:

- Ngộ rõ tất cả các pháp nên không khởi tâm phẫn nộ, ở trong pháp không khởi tâm phẫn nộ thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Sư Tử Đồng Chơn nói:

- Với ba pháp căn bổn không dâm dục, giận dữ, si mê, cũng không thấy sắc có khởi, có diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thí Bảo nói:

- Ngã, nhân, thọ mạng có khởi, có diệt, ngộ rõ các pháp đều không khởi diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Dõng Tuệ nói:

- Pháp môn Tổng trì khong thấy có pháp quy thú, ở trong pháp không quy thú thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Hiền Hộ nói:

- Danh hiệuhư dối không nên giữ gìn. Kẻ phàm phu ngu muội cho là chơn thật, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Nguyệt Quang nói:

- Với tánh Như thị của pháp Chơn như Bổn tế tu tập phạm hạnh thanh tịnh, không thấy tánh Như thị của Chơn như, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thiện Lai nói:

- Dùng hương giới đức xông ướp khắp ba ngàn đại thiên thế giới, hương theo gió thổi đến khắp nơi nhưng không thấy có hương cũng không thấy có gió, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Bất Tư Nghị nói:

- Vô vi không lìa hữu vi, hữu vi không lìa vô vi, ngộ rõ hữu vi, vô vi đều vô sở hữu, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Khiết Tịnh nói:

- Các vị sanh ở cõi trời Tịnh Cư không thấy phước hạnh thanh tịnh cõi trời, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Chí Thành nói:

- Không thấy tâm chí thành sẽ phạm bốn pháp, không thấy tâm dối trá sẽ thọ nhận hậu báo, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thiện Quán nói:

- Ngộ rõ tất cả sắc tưởng là vô sắc tưởng, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Bảo Anh nói:

- Ở trong sanh tử quán thấy chúng sanh có khổ, có vui, lại quán tự thân cũng khổ, vui như họ; ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Vô Hủy Căn nói:

- Với các kiết sử biết rõ vốn là thanh tịnh, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thường Tiếu nói:

- Với các pháp căn bổn không thấy ngô ngã, lại cũng không thấy pháp tạo ngô ngã, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thường Bi nói:

- Thực hành bốn tâm bình đẳng từ, bi, hỷ, hộ (xả) biến khắp cõi Phật nhưng không thấy pháp bốn tâm bình đẳng đó cứu giúp chúng sanh, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Phạm Ý nói:

- Độ chúng sanh tà kiến an lập chánh kiến nhưng ở trong pháp chánh kiến không thấy chánh tà, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Bố Diễn nói:

- Tâm hoằng thệ kiên cố không nghiêng theo đạo Tiểu thừa, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Dũng Sĩ nói:

- Cứu độ chúng sanh không nhiễm tam hữu, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Tâm Thắng nói:

- Tu tập thành tựu trí tuệ nhẫn nhục, luôn tinh tấn tu tập, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Điện Âm nói:

- Với nguồn cội của các pháp thiện, quán pháp giới đó không tăng, không giảm, không thấy các pháp có chỗ nương trú, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Vô Yếm Hoạn nói:

- Lấy hằng sa kiếp làm một ngày, mười lăm ngày là nửa tháng, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một tuổi, trải qua suốt ức trăm ngàn kiếp mới có một Đức Phật xuất hiện soi sáng thế gian. Dùng phương tiện cúng dường hằng sa Đức Như lai, tu tập Phạm hạnh thanh tịnh sau đó mới được thọ ký. Tu đạo Bồ tát cohwa từng nhàm chán họa khổ sanh tử, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Trụ Thọ nói:

- Luôn dùng thần túc cải hóa sáu mươi hai kiến, ở trong sáu mươi hai kiến thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Tận Ý nói:

- Quán nguồn cội các pháp là Không, không sở hữu, pháp sanh tự sanh, pháp diệt tự diệt; pháp pháp cùng nhau sanh, pháp pháp cùng nhau diệt. Sanh, không biết sanh; Diệt, không biết diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Tâm Quảng nói:

- Tâm nghĩ nhớ hơi thở ra vào, phân biệt rõ ràng từng hơi thở không mất thứ tự, không thấy (hơi thở) ra, cũng không thấy (hơi thở) vào, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thiện Thắng nói:

- Phân biệt ba đời là từ đâu khởi, là từ đâu diệt, không thấy khởi cũng không thấy diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Trì Cấm nói:

- Không thấy trì giới và hủy giới, không thấy hủy giới sẽ vào địa ngục, không thấy trì giới sẽ nhận lãnh phước báo cõi trời, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Vô Úy nói:

- Tu tập bốn pháp thần túc, với bốn pháp ý chỉ không có tâm khiếp nhược. Tâm vốn không có nguồn gốc, không thấy nguồn cội của tâm, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Vô Lượng Tuệ nói:

- Nếu có vị nào phát tâm Từ thương xót tất cả chúng sanh, dạo đến vô lượng thế giới phương khác muốn độ chúng sanh mà không cho là mỏi mệt, không thấy pháp độ cũng không thấy người độ, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Bảo Thí nói:

- Làm phát triển bốn ân, gần gũi Tam bảo, tâm nhân từ thương yêu bố thí làm lợi ích cho mọi người nhưng không thấy nhận lãnh quả báo công đức của bốn ân, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Hủy Căn nói:

- Nhìn tất cả chúng sanh như con ruột, muốn tự gìn giữ thân phải hộ trì cho người khác, làm chúng sanh an ổn đến bờ giải thoát mà không thấy có người diệt độ đến bờ giải thoát, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Tịch Chí nói:

- Phật là Đấng Bất tư nghị, phước báo khó lường, các căn tịch định. Có đức tin như thế, không khởi tâm tham ganh, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Hộ Thân nói:

- Thành tựu Phật đạo, thân có tướng tốt. Sau khi nhập Niết bàn, Xá lợi lưu bố khắp nơi bốn phương, tám hướng và phương trên, phương dưới đều sung mãn. Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều tôn kính, phụng thờ nhưng cũng không thấy có ai nhờ Xá lợi mà được giáo hóa. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Hương Thủ nói:

- Mỗi lỗ chân lông tỏa ra vô lượng hương thơm. Mỗi mùi hương phát ra vô lượng ngôn giáo tế độ chúng sanh không cùng tận. Sức oai thần thần túc vòi vọi vô lượng đều làm cho chúng sanh phát tâm đạo vô lượng. Trong số chúng sanh đó, có vị không tương ưng với đạo chánh chơn, hoặc thành tựu đạo Thanh văn, Duyên giác, haowcj sanh lên cõi trời rồi sanh trở lại thân người, tâm khôngoán hận đạo Đại thừa cao quý cũng không có tâm hổ thẹn vì độ hạng người Tiểu thừa. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Hoằng Thệ nói:

- Ở trong chốn nhiễm ô không bị nhiễm ô, với tám pháp thế gian không khởi tưởng chấp trước, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Mẫn Cứu nói:

- Đạo là hai, vô đạo là một. Không thấy một cũng không thấy hai, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Vô Thượng nói:

- Có Phật, có pháp thì không thành tựu đạo giác ngộ. Không Phật, không pháp mới thành tựu đạo giác ngộ, nhưng không thấy thành tựu cũng chẳng thấy không thành tựu. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Phụng Đức nói:

- Chúng sanh hiện hữu tự lập danh hiệu là nam, là nữ, ngã, nhân, thọ mạng. Ngộ rõ bổn tánh đều không có nam nữ cũng không thấy từ chỗ này sanh đến chỗ kia, từ chỗ kia sanh đến chỗ này, phải biết pháp hợp hội giả dối, chẳng phải chơn thật. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Mục Kiến nói:

- Với các hình sắc hiện hữu ngộ rõ là không có hình sắc. Sắc ngã thức đó trong ngoài đều không hình tượng, ngộ rõ tánh của sắc là Không, đều không có sanh diệt. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khâ, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Diệu Cẩm nói:

- Nguồn cội của ngô ngã, thọ mạng tự thể là không chủ tể giống như có người với âm thanh bên ngoài dùng tai để nghe, dùng tai để nhận thức, suy tư âm thanh đó bản chất là vô hình. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Thường Trụ nói:

- Nếu với bảy pháp phân biệt rõ ràng từng pháp, không quan hệ với tam xứ, không cầu ngũ quả, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Huyền Thông nói:

- Tịch hay không tịch đều là dơ uế. Giới hay không giới đều là dơ uế. Nhẫn hay không nhẫn đều là dơ uế. Không thấy nhẫn cũng chẳng thấy không nhẫn. Ngộ rõ nhẫn nhục chẳng phải là tịch hay không tịch. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bồ tát Hương Huân nói:

- Không thấy ấm cái, bệnh thùy miên, xan tham, lời nịnh hót dụ dỗ, tâm hoảng loạn, phạm giới; ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật:

- Lành thay! Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn, con cũng ưa muốn nói trí tuệ của Bồ tát thanh tịnh thân, khẩu, ý. Hiện khắp tất cả, không có quá khứ, hiện tại, vị lai; thanh tịnh như thế trụ nơi vô trụ. Các pháp ảo hóa không thể truy tìm, ví như ánh sáng mặt trăng soi bóng trăng trong nước. Chư Phật Thế Tôn cũng như thế, cũng không sanh diệt, không thủ Niết bàn. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Thế nào Tộc tánh tử, ông quán nghĩa gì mà ở trước Như Lai nói nghĩa trụ nơi vô trụ đó?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Pháp mà Như Lai trụ là Chơn như, trụ trong pháp Chơn như giống như trụ chỗ chúng sanh.

Đức Phật hỏi:

- Thế nào là pháp mà Như Lai trụ là Chơn như, trụ trong pháp Chơn như giống như trụ chỗ chúng sanh?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Trụ chỗ chúng sanh giống như trụ pháp hữu vi, giống như không có pháp để trụ.

Đức Phật hỏi:

- Thế nào là trụ chỗ chúng sanh giống như trụ pháp hữu vi, giống như không có pháp để trụ?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Pháp mà Như Lai trụ, trụ mà không có pháp để trụ.

Đức Phật hỏi:

- Thế nào là từ đệ nhất nghĩa Không mà trụ?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải thế.

Đức Phật hỏi:

- Thế nào Tộc tánh tử, pháp mà Như Lai trụ giống như phàm phu trụ chăng?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải vậy.

Đức Phật hỏi:

- Chẳng trụ trong pháp Như Lai, chẳng trụ trong pháp phàm phu thì làm thế nào từ trong pháp đó thành tựu Chánh giác?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Không phải từ pháp Như Lai và pháp phàm phuthành tựu Chánh giác.

Đức Phật hỏi:

- Thế nào Tộc tánh tử, pháp Chơn như chí chơn so với pháp phàm phu địa có sai biệt không?

Ngài Tối Thắng thưa:

- Bạch Thế Tôn, (điều đó giống như) muốn làm cho hư khôngsai biệt vậy.

Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:

- Tất cả các pháp đều Không, đều vắng lặng, không có sai biệt.

Ngài Tối Thắng bạch Phật:

- Vì các pháp đó không thể hộ trì nên tướng không có tướng, trụ trong pháp Chơn như giống như không có pháp để trụ.

Khi ấy Bồ tát Tối Thắng hỏi ngài Nhu Thủ Đồng Chơn:

- Trụ như thế nào mới là trụ? Vô trụ như thế nào mới là vô trụ?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Pháp gọi là trụ đó chính là trụ pháp Chơn như, là trụ trong vô sở trụ. Ngộ rõ bốn đẳng tâm, trụ mà không có pháp để trụ nên gọi là trụ, tức trụ trong vô sở trụ.

Ngài Tối Thắng hỏi:

- Pháp trụ mà tôi hỏi chẳng phải bốn pháp đẳng tâm, cũng chẳng phải pháp cùng loại như thế. Hoặc ở chỗ nhàn tĩnh, hoặc ở trong xóm làng, hoặc ở nơi gò mả, hoặc ở dưới tàng cây có thể gọi đó là trụ không?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Pháp trụ mà tôi gọi là bốn đẳng tâm đó tức là tâm được định chỉ chơn chánh, vì kiểm soát tâm khiến niệm ác không khởi nên gọi là trụ.

Ngài Tối Thắng hỏi:

- Tâm được định chỉ chơn chánh là thế nào?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Tuệ nghĩa là gốc nên gọi là định chỉ chơn chánh.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Tuệ là vô bổn cũng không rốt ráo, có thể từ tri kiếnthành tựu định chỉ chơn chánh không?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngài nói, trước tự quán ngã sau mới thanh tịnh trí tuệ.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Thưa ngài Nhu Thủ, như thế nào là trước tự quán ngã?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Các pháp vô ngã đến tận pháp Chơn như, tự thể của ngã là vô ngã, chẳng khởi cũng chẳng phải không khởi. Đó gọi là ngã tự quán ngã.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Thưa ngài Nhu Thủ, nếu theo nghĩa mà đắc, không theo nghĩa mà đắc, tự quán ngã là quán hình tượng Phật thì giả sử có ngã thì có Phật sao? Tự thể của ngã là vô ngã sao lại có Phật? Không hiện ngôn từ, ngôn từ cũng vô ngã thì làm thế nào quán hình tượng Phật được?

Ngài Nhu Thủ nói:

- Các ngôn từ nói “Quán ngã” thì ngã đó tức là vô ngã. Đó gọi là quán ngã. Vì sao như vậy? Phàm quán ngã tức là quán các pháp, quán các pháp tức là quán Phật. Phật là vô hình nên cũng không thể thấy.

Ngài Tối Thắng hỏi:

- Phải chăngphương tiện đó thì khiến các pháp không thành tựu đạt đến chánh kiến?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Có phương tiện đó thì làm cho các cảnh hữu vi không thành tựu an lập chánh kiến.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Thế nào, thưa ngài Nhu Thủ, chánh phương tiện như vậy là chánh kiến chăng?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Không vì tận chứng cũng không có quả báo, cũng không chấp thủ quả báo nên gọi là chánh kiến.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Thấy như thế nào?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Không dùng mắt tuệ thấy các pháp, chẳng phải không dùng mắt tuệ thấy các pháp. Không dùng hữu vi, không dùng vô vi thấy các pháp. Vì sao? Phàm mắt tuệ cũng không thấy cảnh hữu vi, cũng không thấy cảnh vô vi. Không có mắt hữu vi thấy cảnh hữu vi, cảnh vô vi.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Thế nào, thưa ngài Nhu Thủ, phải chăngphương tiện mà từ cái thấy bình đẳng đó nên thành tựu các quả chứng của Tỳ kheo?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Không phải từ cái thấy bình đẳngthành tựu quả chứng đó, cũng không pahỉ lìa cái thấy bình đẳngthành tựu quả chứng đó. Ngài Tối Thắng nên biết, tất cả đều do dục mong cầu ngũ cấu mà thành tựu. Ngộ rõ nghĩa này mới thành tựu quả chứng đắc.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Thế nào là do dục mong cầu ngũ cấu mà thành tựu?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Cấu uế là gốc của tâm, tâm là gốc của đạo. Đạo là vô hình không thể thấy. Do vậy nên thành tựu quả chứng đắc.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Đạo là vô hình không thể thấy thì làm thế nào thành tựu quả chứng đắc?

Ngài Nhu Thủ đáp;

- Đạo mà tôi chứng được do quả chứng đó, thành tựu quả chứng thì chẳng phải là đạo. Kẻ phàm phu ngu si cho quả chứng là đạo. Chẳng nên nghĩ như vậy. Vì sao? Đạo chẳng phải là quả chứng. Quả chứng chẳng phải là đạo cũng không lìa đạo, cũng không lìa quả chứng.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Đạo và quả chứng không sai biệt chăng?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Đạo là vô vi nên không thể thấy. Quả chứng hữu vi cũng không thể thấy. Đó gọi là sai biệt.

Ngài Tối Thắng lại hỏi ngài Nhu Thủ:

- Theo lời Nhân giả nói phải chăng là từ hữu tế đạt đến vô tế?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Các pháp chưa sanh cũng không thấy sanh, chẳng phải không có sanh, sanh cũng là vô sanh. Không thấy đã sanh cũng chẳng phải không có đã sanh. Phàm đã snah cũng không phải là đã sanh. Các pháp không phải đang sanh, chẳng phải không có đang sanh. Ngộ rõ đang sanh đều vô sở hữu, đó gọi là từ hữu tế đạt đến vô tế.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Không từ hữu sanh đạt đến vô tế sao?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Từ hữu sanh đắc được vô tế.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Từ vô sanh đắc được vô tế chăng?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Đúng vậy! Từ vô sanh đắc được vô tế.

Ngài Tối Thắng hỏi:

- Thế nào, thưa ngài Nhu Thủ, từ hữu sanh đắc được vô tế, từ vô sanh đắc được vô tế có gì khác biệt?

Ngài Nhu Thủ đáp:

- Sanh cũng là vô sanh, vô sanh cũng là vô sanh. Đó gọi là khác biệt.

Ngài Tối Thắng lại hỏi:

- Sanh đã có hình tướng, vô sanh thì không tên gọi, khác biệt như thế nào?

Lúc đó ngài Nhu Thủ nói với ngài Tối Thắng:

- Tôi vì ngài mà nêu ví dụ, kẻ sĩ có mắt do ví dụ mà tự rõ. Thế nào, thưa ngài Tối Thắng, hư khônghình tướng chăng?

Ngài Tối Thắng đáp:

- Không có.

Ngài Nhu Thủ hỏi:

- Hư khôngchánh kiến không?

Ngài Tối Thắng đáp:

- Không có.

Ngài Nhu Thủ lại hỏi:

- Hư không thì thế nào?

Ngài Tối Thắng đáp:

- Hư không thì rỗng không.

Ngài Nhu Thủ lại hỏi:

- Hư không rỗng không thì thế nào?

Ngài Tối Thắng đáp:

- Các pháp hư không là rỗng không.

Ngài Nhu Thủ hỏi:

- Thế nào là các pháp hư không là rỗng không?

Ngài Tối Thắng đáp:

- Các pháp không nói, không thuyết rỗng không như hư không.

Ngài Nhu Thủ hỏi:

- Các pháp không nói, khong thuyết vì sao rỗng không như hư không?

Bấy giờ ngài Tối Thắng im lặng không trả lời. Lúc đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Này Tộc tánh tử, ngộ rõ vô một cách chơn chánh thì không có đạo của Niết bàn. Đạo là vô hình cũng không thể thấy, không nói, không dạy cũng không có người nhận lãnh.

Khi Thế Tôn nói pháp vô hình này, tất cả chúng sanh đều vui mừng chưa từng có. Chín ngàn vị Tỳ kheo giải thoát tâm hữu lậu, hai vạn bảy ngàn vị Thiên tử chấm dứt các trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Lại có một ngàn hai trăm vị trời và người thé gian phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Năm ngàn vị Bồ tát ngay tại chỗ ngồi đắc pháp nhẫn bất khởi. Lúc ấy, trên tòa có vị Quỷ vương Vô Úy tự thân dẫn chúng quỷ của mình đến trước Đức Phật thưa:

- Chúng con ngu hoặc mãi mãi ở trong chốn mê muội, hôm nay mới được nghe giáo pháp vô hình. Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, chúng con luôn luôn ủng hộ họ đến khi đạt rốt ráo thành Phật, để họ không bị nạn tai.

Lúc đó Quỷ vương đọc chú:

- Na la già la a tỳ ha ha. Con sẽ ủng hộ các vị thiện nam, thiện nữ trì tụng thần chú này khiến họ tụng đọc kinh điển ghi nhớ mãi trong tâm.

Khi ấy Phạm vương từ chỗ ngồi đứng dậy, dẫn các vị tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:

- Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, trong khu vực trăm do diên, ngàn do diên không để cho tà giáo ngoại đạo làm hại vị thiện nam, thiện nữ đó.

Phạm vương liền ở trước Đức Phật nói chú:

- Y la tỷ châu na tỳ gia xà lê da. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ đó đến rốt ráo thành Phật, không để họ bị nạn tai.

Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân cũng dẫn tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:

- Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, chúng con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để họ bị nạn tai.

Vị ấy nói chú:

- Lưu già da ma na na tăng cầu thời na tả. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng thần chú này đến rốt ráo thành Phật không để bị nạn tai.

Khi đó Thiên vương Đề Đầu Lại Tra ở phương Đông cũng dẫn chúng tùy tùng của mình từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật thưa:

- Chúng con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, diễn nói kinh điển này, sẽ luôn ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật.

Vị ấy đọc chú:

- Đế na tứ na đế na tứ. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.

Lúc đó Thiên vương Tỳ Lâu Lặc Già ở phương Nam liền cùng chúng tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:

- Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng dọc kinh điển này, chúng con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn ai.

Vị ấy đọc chú:

- Ma ha tứ đà na tứ. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.

Thiên vương Tỳ Lâu Ba Xoa ở phương Tây dẫn chúng tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:

- Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.

Vị ấy đọc chú:

- Y nật di nật xà di. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.

Lúc đó Thiên vương Câu Tỳ La ở phương Bắc cùng chúng tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:

- Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.

Vị ấy đọc chú:

- Đà thí đà la thí. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.

Bấy giờ Quỷ vương Vô Úy, Phạm Thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân và bốn vị Thiên vương, mỗi vị đọc thần chú xong, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đầu mặt lạy sát chân Phật rồi mỗi vị trở về chỗ ngồi.

 

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11695)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12642)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10184)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11949)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15158)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10950)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10394)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12346)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16280)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14134)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11645)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14648)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11908)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11478)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12626)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11233)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11931)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51769)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15328)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13862)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11356)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12666)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13105)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54046)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14282)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57630)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14356)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19982)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15290)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17365)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13219)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11827)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14556)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12366)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12044)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11962)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13232)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25379)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12100)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41948)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28176)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38582)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14616)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12590)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16115)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant