Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Lâm Niết BànPháp Trụ

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14278)
Kinh Phật Lâm Niết Bàn Ký Pháp Trụ


KINH PHẬT LÂM NIẾT BÀNPHÁP TRỤ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390

Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Đại Đường - Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang

Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết

Chứng nghĩa: Thích Đổng Minh, Thích Tâm Hạnh

--- o0o ---

 

Tôi nghe như vầy, một thời ở rừng Sa La, vùng đất Lực Sĩ thuộc thành Câu Thi, đức Thế Tôn cùng vô lượng Thanh Văn, đại Bồ Tátchư Thiên, Nhơn, A Tố Lạc,… Tất cả đại chúng đều vây quanh Ngài.

Bấy giờ sắp nhập Niết Bàn, vì thương tưởng chúng sanh, với lời từ hòa, đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan: Không bao lâu nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn, tất cả pháp hữu vi đều bị hư hoại, tất cả Phật sự đều viên mãn. Ta đã nói pháp thoát ly sanh tử, cam lồ vi diệu, tự tại tối thượng và cực kỳ an lạc. Các pháp ấy sâu xa, vi diệu, khó hiểu, khó biết, không thể suy luận, vượt khỏi phạm trù suy luận mà các bậc đại thánh đã tự chứng ngộ. Ta đã chuyển ba lần pháp luân vô thượng oai lực của pháp luân ấy đủ mưòi hai hành mà các Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma, Phạm, v.v…đều không thể chuyển pháp luân chân thật như vậy được, vì chư Thiênnhân loại ta thổi kèn pháp, đánh trống pháp để thức tỉnh họ khỏi giấc ngủ trong đêm dài vô minh; Ta dựng cờ pháp, đốt đuốc pháp soi khắp tất cả, trừ diệt tối tăm. Vì loài hữu tình, ta bắt cầu pháp lớn, làm thuyền pháp lớn để đưa tất cả vượt qua dòng nước dữ; Ta rót nước pháp, tuôn trận mưa pháp làm tất cả cây khô héo được tươi tốt; ta đã khai mở con đường giải thoát để dẫn dắt những người bị lạc đường trong thế gian. Nếu những hữu tình nào đáng được độ đã được ta độ rồi, còn những ai chưa được độ thì ta cũng tạo điều kiện cho được độ. Ta đã hàng phục tất cả ngoại đạo, đã bẻ gãy tất cả tà thuyết, đã lật đổ cung điện của các loài ma, đã phá tan trận ma quân, đã làm phật sự lớn bằng tiếng rống sư tử, đã thành tựu bổn nguyện của bậc trượng phu, giữ gìn pháp nhẫn làm cho không hủy hoại, giáo hóa thanh văn, thọ ký Bồ Tát, làm phật nhãn vô thượng chiếu đến đời vị lai, thường còn không đoạn tuyệt.

Này, A Nan! Đối với chánh pháp vô thượng này, các thầy phải nên nổ lực, hộ trì để không bị mai một.

Này, A Nan! Nay ta không còn việc gì để làm nữa, chỉ còn hướng đến Niết Bàn thôi.

Sau khi nghe Phật dạy, Ngài A Nan khôn xiết đau buồn, nghẹn ngào hồì lâu mới thưa :

Bạch Thế Tôn! Không biết rằng chánh pháp vô thượngNhư Lai đã vì loài hữu tình, trải qua vô số kiếp siêng năng, khổ nhọc mới đạt được. Vậy sau khi Ngài diệt độ chánh pháp này trụ thế bao lâu, để làm lợi ích cho Chư Thiên, Nhơn, A Tố Lạc, v.v…rồi mới bị suy tàn?

Một lần nữa với lời từ ái Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng:

Pháp mà chư Phật để lạI đều như vậy, A Nan chớ có lo buồn, sau khi ta diệt độ, chánh pháp vô thượng sẽ trụ thế một nghìn năm, làm lợI ích Chư Thiên, Nhơn, A Tố Lạc, v.v…từ đây về sau từ từ chấm dứt.

A Nan, ông nên biết sau khi ta diệt độ, một trăm năm đầu, trong giáo pháp của ta, thời gian chánh pháp vững chắc, các đệ tử của ta thông minh trí tuệ, đa văn, biện tài, vô ngại, có thể hàng phục các tà thuyết, đầy đủ thần lực, làm lợi ích cho các loài hữu tình.

Do sự kiện này, nên trời rồng hoan hỷ nỗ lực hộ trì, kể cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng biết phước điền, có lòng tin sâu xa, cúng dường, cung kính, tôn trọng tán thán đối với Phật, Pháp, Tăng. Cuối 100 năm sau đó, có một vị quốc vương tên A Du Ca (A Dục) xuất hiện ở đời, đầy đủ oai lực, làm vua cõi Thiệm Bộ Châu, xây dựng tám vạn, bốn ngàn tháp cao rộng trang nghiêm cúng dường xá lợi của ta, làm cho vô lượng chúng thấy nghe đều hoan hỷ, đều trồng thiện nghiệp sanh thiên giải thoát.

Vào 100 năm thứ hai, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ tịch tịnh kiên cố, các đệ tử của ta, thông minh, đa văn trí tuệ, đáng là bậc thầy của trời, người, đầy đủ oai đức làm lợI ích cho nhiều người. Do sự kiện này, nên trời rồng hoan hỷ, nỗ lực hộ trì, kể cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng hiểu rõ phước điền, có lòng tin sâu xa thanh tịnh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán đối với Phật, Pháp, Tăng.

Vào 100 năm thứ ba, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ chánh hạnh kiên cố, đệ tử của ta chứng huệ giải thoátcâu phần giải thoát (tâm giải thoáttuệ giải thoát) các bậc thân chứngkiến đạo số đến trăm nghìn. Do vì nhiều người chứng quả thánh nên được trời rồng hoan hỷ, nỗ lực hộ trì, kể cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng hiểu rõ phước điền, có lòng tin sâu xa thanh tịnh, cúng duờng, cung kính, tôn trọng tán thán đối với Phật, Pháp, Tăng.

Vào 100 năm thứ tư, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ viễn ly kiên cố, đệ tử của ta ưa thích ở chỗ thanh vắng siêng năng tu thiền định. Do sự kiện này, nên được trời rồng hoan hỷ, nỗ lực hộ trì, kể cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng hiểu rõ phước điền, có lòng tin sâu xa thanh tịnh, cúng dường, cung kính, tôn trọng tán thán đối với Phật, Pháp, Tăng.

Vào 100 năm thứ năm, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ pháp nghĩa kiên cố, đệ tử của ta ưa thích chánh pháp, siêng năng tu học, biết chọn lựa khi bàn luận. Do sự kiện này, nên được trời rồng hoan hỷ, nỗ lực hộ trì, kể cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng hiểu rõ phước điền, có lòng tin sâu xa thanh tịnh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán đối với Phật, Pháp, Tăng.

Vào 100 năm thứ sáu, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ giáo pháp kiên cố, đệ tử của ta đối với các giáo pháp của ta phần nhiều siêng năng đọc tụng, tâm không mệt mỏi, hay làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Do sự kiện này, nên trời rồng hoan hỷ, nỗ lực hộ trì kể cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng hiểu rõ phước điền, có lòng tin sâu xa thanh tịnh, cúng dường, cung kính, tôn trọng đối với Phật, Pháp, Tăng, nhưng phần nhiều có lòng nghi ngờ đối với nghĩa lý.

Vào 100 năm thứ bảy, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ lợi dưỡng kiên cố. Trời rồng Dạ xoa, A Tố Lạc, v.v…cúng dường, cung kính, tôn trọng tán thán đối với Phật, Pháp, Tăng, các đệ tử của ta phần nhiều tham đắm lợi dưỡng, cung kính, khen ngợi, không siêng năng tu tập tăng thượng học giới, định, huệ.

Vào 100 năm thứ tám, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời tranh cãi kiên cố, các đệ tử của ta phần nhiều ganh ghét, tật đố, kết cấu với kẻ ác, tụ hợp, phỉ báng, chê bai người trì giới, khinh chê bậc đa văn, không nhớ nghĩ pháp lục hòa, chỉ nhớ những việc tranh cãi, biểu hiện những xảo trá bất thiện, không cung kính sư trưởng, không sống theo chánh trí, dối trá siểm nịnh, nói lời thô bỉ như bọn chiên đà la, cậy vào thế lực của vua quan, trưởng giả bằng mọi cách tốn hao tài vật của Tam Bảo, kết cấu bạn ác, chia rẻ bạn hiền.

Vào 100 năm thứ chín, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời sự nghiệp kiên cố, đệ tử của ta phần nhiều nuôi sống bằng cách làm các việc thế tục như: kinh doanh, gieo trồng, buôn bán, giao dịch làm sứ giả, … xem thường vi phạm học giớp của Như Lai đã chế định.

Vào 100 năm thứ mười, sau Niết Bàn, giáo pháp của ta thuộc thời kỳ hý luận kiên cố, đệ tử của ta phần nhiều siêng năng học tập các thứ hý luận, xả bỏ chánh pháp xuất thế gian của chư Phật. Đó là: Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Biệt, Phúng Tụng, Tự Thuyết, Duyên Khởi, Thí Dụ, Bổn Sanh, Bổn Sự, Phương Quảng, Hy PhápLuận Nghị. Chỉ siêng năng học tập các hý luận thế gian. Đó là: Vương Luận, Tặc Luận, Chiến Luận, Thực Luận, Ẩm Luận, Y Luận, Xa Luận, Ngã Luận, Dâm Luận, Nam Luận, Nữ Luận, Các Quốc Đô Luận, Các Hà Hải Luận.

Do ưa thích các loại hý luận này, khiến các Sa môn, Bà La Môn khinh hủy, tránh xa thánh giáo ta. Trong pháp luật của ta sẽ có chúng Bí xô, Bí xô ni ác như đây không khéo tu tập giới, định, huệ, chỉ cùng nhau tranh luận mưu mô, hủy báng, tham đắm các thứ y bát, phòng xá, ngọa cụ tốt đẹp, cùng bạn ác tập hội. Tuy trải qua nhiều năm giữ gìn tịnh giới, nhưng trong phút chốc đều hủy phạm tất cả, cũng như nhiều năm tu tập các căn lành, nhưng do nhiều giận hờn, ưu não nên liền đánh mất. Do sự kiện này, trời rồng bị thương, áo não xả bỏ không hộ trì quốc vương đại thần, trưởng giả, cư sĩ không còn phát sanh tịnh tín, phỉ bánh khinh chê đối với Tam Bảo làm cho chánh pháp hoại diệt.

Từ đó về sau, các Bí xô tạo ác ngày càng sâu, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ càng không cung kính, nhưng oai lực Tam Bảo vẫn còn chưa mất, cho nên có những Bí xô, Bí xô ni thiểu dục tri túc, hộ trì cấm giới, tu hành thanh tịnh, ưa thích đa văn, thọ trì tam tạng giáo pháp của Như Lai, phân biệt giảng rộng cho bốn chúng, làm lợi ích an lạc vô lượng hữu tình. Lại có quốc vương đại thần, trưởng giảcư sĩ hâm mộ chánh pháp, cúng dường cung kính tôn trọng tán thán Tam Bảo, hộ trì kiến lập không có hối tiếc, nên biết đều là do các vị Bồ Tát không thể nghĩ bàn dùng bổn nguyện của mình trong thời này, hộ trì chánh pháp vô thượng của Như Lai và làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Lúc bấy giờ Ngài A Nan, các hàng Thanh văn, Bồ Tát, Thiên Long, Dạ Xoa, Nhơn, Phi Nhơn, v.v…tất cả đại chúng nghe Đức Thế Tôn huyền ký thời gian chánh pháp tồn tại ở trong tương lai phân biệt hành nghiệp sai khác của các Bí xô càng thêm khen ngợi, tin thọ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12271)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16418)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11727)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17883)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16514)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant