Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13217)
Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật


KINH PHẬT NÓI VỀ CÁC ĐỨC PHẬT


Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
--- o0o ---

 

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật an trú tại núi Linh Thứu, trong thành Vương Xá. Khi ấy, sắp đến giờ thụ trai, tôn giả Đại Mục-kiền-liên đắp y, ôm bát định đến thành Vương Xá thì chợt nghĩ: “Hôm nay trước hết ta nên đến cõi trời Sắc Cứu Cánh để hỏi chút nhân duyên, sau đó sẽ trở về thụ trai”.

Thế rồi tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nhập tam-ma-địa Đẳng dẫn, trong khoảng thời gian ngắn như người lực sĩ co duỗi cánh tay đã đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Khi đến, hai bên dùng nhiều lời hòa nhã thăm hỏi nhau. Sau đó tôn giả hỏi thiên chúng: “Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”? Lúc ấy, một trăm vị thiên chủ ở đây đồng lên tiếng đáp: “Hết một trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”.

Nghe xong, tôn giả Đại Mục-kiền-liên tin nhận. Thế rồi, tôn giả lại nhập tam-ma-địa, trong khoảng thời gian ngắn như vị lực sĩ co duỗi cánh tay đã về lại thành Vương Xá, rồi lần lượt đi khất thực giống như ngày thường. Sau khi thụ trai, chải răng, thâu dọn y bát xong, tôn giả liền đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đến ngồi bên cạnh cung kính chắp tay bạch Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Trước giờ thọ trai hôm nay, con đã nhập tam-ma-địa đi đến cõi trời Sắc Cứu Cánh và hỏi thiên chúng ở đó: ‘Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’? Một trăm thiên chủcõi trời Sắc Cứu Cánh đều lên tiếng đáp: ‘Khắp trăm nghìn kiếp đều có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’. Bạch Đức Thế Tôn! Tuy đã nghe như vậy, nhưng con không rõ việc này thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giảng nói để con được thấu rõ.

Bấy giờ Đức Phật nói với tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

- Nay ông hãy lắng nghe cho kĩ, Như Lai sẽ giảng nói. Này Đại Mục-kiền-liên! Các thiên chủ cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết rất hạn hẹp mới cho rằng mãn trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề. Lời này chẳng đúng, không thể tin nhận. Này Đại Mục-kiền-liên! Ta nhớ thuở xưa, đầu tiên là được gặp sáu mươi ức Đức Phật Như Lai hiện ra nơi đời, nhưng thời gian các Đức Phật ấy trụ ở đời để lợi ích chúng sinh thì lại có dài có ngắn, mỗi vị đều theo duyên mà lần lượt nhập diệt. Tiếp tục lại có tám mươi ức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Hoa. Ở trước mỗi một vị Phật ấy, Ta đều phát thệ nguyện lớn và giữ Phạm hạnh. Sau các Đức Phật này lại có năm trăm vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Chính Phạm. Tiếp đó lại có tám trăm Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiên Đăng.

Kế đó lại có một vạn năm nghìn vị Phật, đồng có tên là Tảm-ma-một, hiện ra nơi đời. Sau đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, tên gọi, dòng họ của mỗi vị đều khác nhau. Đối trước các Đức Phật này, Ta lại phát thệ nguyện tu trì Phạm hạnh. Sau các vị Phật này, lại có sáu nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Tô-bát-la-đa-ba. Sau đó lại có chín vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Ca-diếp. Sau các vị Phật này, lại có một nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Vi Nhật.

Tiếp đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiễm-một-dạ-dã. Tiếp đó lại có tám vạn vi Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Ê-la-phạ-đế. Kế đó lại có bảy vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Đế Thích. Kế đó lại có một vị Phật tên là Đức, hiện ra nơi đời. Đối trước vị Phật này, Ta cùng với các đệ tử thanh văn đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Cách nhiều năm sau, lại có tám mươi ức na-do-tha bích-chi-phật hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Đối trước Ta, vị Bích-chi-phật ấy phát thệ nguyện lớn. Lại có Chuyển luân thánh vương tên là Biến Chiếu, cũng ở trước Ta, lần đầu gặp được bốn mươi vị Phật đồng có tên là Vô Năng Thắng. Này Đại Mục-kiền-liên! Sau khi Phật Đức diệt độ, Ta lại gặp Đức Phật cũng có tên là Vô Năng Thắng. Trong đời vị Phật này, Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Bách Hiệu, cùng với các đệ tử thanh văn của Phật Vô Năng Thắng đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Trải qua nhiều năm, sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, Ta xây tháp bằng bảy báu để tôn thờ xá-lợi. Ta tu hành như thế, trải qua vô lượng thời gian, đến hôm nay Ta mới chứng được Vô thượng bồ-đề.

Lại nữa, này Đại Mục-kiền-liên! Chư thiêncõi trời Sắc Cứu Cánh ấy thấy biết hạn hẹp. Sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Thế. Tiếp đó lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Địa. Sau lại có Đức Phật tên là Năng Nhân hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Diệu Hiện hiện ra nơi đời. Kế đó lại có Đức Phật tên là Sư Tử hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Tối Thượng Hi Hữu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đoạn Nhất Thiết Ưu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Nhất Thiết Thắng Thành Tựu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đắc Thắng hiện ra nơi đời.

Nối tiếp theo thứ tự xuất hiện ở đời là các Đức Phật: Bảo Quang, Ý Xứng, Ô-ba-để-thất-la, Để-thất-la, Viên Quang, Nguyệt Quang, Thiên Quang, A-đề-bộ, A-đề-dã-du, Vô Diệt Thông, Tối Thắng, Để-thất-lỗ-đa-lỗ, Thượng Hoa.

Sau đó lại có: Đức Phật A-lí-sắt-tra, Đức Phật A-đề-bộ, Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Phật Hàng Oan, Đức Phật Kim Diệu, Đức Phật Kim Quang, Đức Phật Bảo Nhãn, Đức Phật Liên Hoa Nhãn, Đức Phật Tối Thượng Liên Hoa, Đức Phật Đại Liên Hoa, Đức Phật Liên Hoa, Đức Phật Tì-bà-thi, Đức Phật Thi-khí, Đức Phật Tì-xá-phù, Đức Phật Câu-lưu-tôn, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Đức Phật Ca-diếp, cho đến hôm nay có Ta là Thích-ca Mâu-ni hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Xưa kia Ta phát thệ nguyện là dùng hoa bảy báu để rải cúng dường các Đức Phật này, rồi mới thành Chính đẳng chính giác

Này Đại Mục-kiền-liên! Mỗi một vị Phật kia, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu Chính đẳng chính giác, đều phải trải qua vô số kiếp tu hành. Ta từ khi mới phát tâm cho đến ngày nay được thành Phật là đã trải qua vô lượng kiếp, không thể tính kể. Chư thiên ở cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết hạn hẹp. Ông chsinh nghi!

Khi nghe Thế Tôn nói kinh này rồi, tôn giả Đại Mục-kiền-liên trừ được mối nghi, vô cùng vui mừng, đỉnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11948)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11102)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11341)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10763)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9945)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15360)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12402)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14836)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16569)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19660)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10898)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13519)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11630)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12763)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13623)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12893)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9861)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11162)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24605)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant