Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14759)
Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến


KINH PHẬT NHẬP NIẾT BÀN MẬT TÍCH KIM CƯƠNG LỰC SĨ AI LUYẾN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394

Nguyên tác Hán ngữ [1]
Mất tên người dịch sang Hán. Nay căn cứ theo bản trong Tần lục.

Việt dịch: Lệ Nhã

--- o0o ---
 

Tại rừng Sa-la, thành Câu-thi-na, Thế Tôn nằm xoay đầu về phía bắc mà vào niết-bàn. Lực sĩ Mật Tích Kim Cương thấy Thế Tôn diệt độ, buồn khóc thảm thiết rồi cảm than: “Thế Tôn thành tựu mười lực[1] tối thắng vô thượng, vì sao nay bị vô thường biến hoại, khí lực suy yếu làm tổn hoại như thế? Như Lai bỏ con mà nhập niết-bàn. Từ nay con không có chỗ trở về, không nơi nương tựa, không ai che chở, không ai bảo vệ, lo sợ tai họa bỗng chốc ập đến. Mũi tên độc buồn phiền đã trúng vào tim con!”.

Nói xong, lực sĩ Mật Tích Kim Cương luyến mộ không muốn rời xa Thế Tôn, lửa buồn đau càng cháy mạnh, cắt đứt cả ngũ tạng, nghiền nát tận tâm can, đến nỗi ngất xỉu té xuống đất như núi lở, hồi lâu mới tĩnh, liền đứng dậy rồi ngồi xuống nghẹn ngào buồn khóc, rồi sụt sùi nói: “Lạ thay, lạ thay! Tử ma thật đáng sợ! Thế Tôn đã chứa nhóm vô lượng công đức ba-la-mật mà còn bị tử ma kia hoại diệt!”.

Lực sĩ Mật Tích Kim Cương than khóc xong, lại nói: “Xin Chân Tế[2] vì con mà tỉnh thức. Nay con phúc mỏng, không có chỗ nương tựa, vì sao Thế Tôn bỏ con một mình mà nhập niết-bàn? Từ nay về sau, con mãi mãi xa lìa dung nhan của Như Lai, không nhìn thấy ba nghiệp thân, khẩu, ý vắng lặng của Ngài, lại không thấy Phật Bà-già-bà[3] nhập Phật trụ”.

Khi xưa, Như Lai vào tam-muội Phật trụ, ánh sáng uy đức của Ngài tuyệt diệu gấp bội. Khuôn mặt Ngài tươi sáng hơn hoa sen mới nở, như mặt trời mới mọc toả sáng buổi ban mai. Khuôn mặt của Người như thế mà con lại không còn thấy được. Lại không thể nghe âm thanh như sấm lớn, âm thanh vi diệuNhư Lai phát ra giữa đại chúng. Con cũng không nghe được lời nói chân thật không hai của Như Lai, lời nói xa lìa sai lầm tai họa, lời nói không dua nịnh, lời nói dễ hiểu, lời nóimọi người ưa thích. Pháp có thể trừ diệt các việc ác thế gian, đưa đến thành Cam lộ, không pháp nào hơn Phật pháp. Ôi thay! Đấng Chân Tế mãi mãi nhập niết-bàn, khiến các chúng sinh không có ai cứu giúp, ở giữa cánh đồng sinh tử mà mù mắt, lại lìa xa bậc thầy thì ai chỉ đường đây?

Như Laiđám mây lớn dày để có thể rưới nước cam lộ, nhưng lại bị gió vô thường thổi tan. Tất cả chúng sinh bị ngọn lửa ái dục đốt cháy, mà nay Như Lai nhập niết-bàn thì ai rưới mưa pháp để dập tắt ngọn lửa ái dục kia? Nay Như Lai đã diệt trừ pháp hữu vi, chứng đạo vô thượng, làm Đại y vương cho chúng sinh. Tất cả chúng sinh ở trong thế giới đều bị bệnh phiền não làm đau khổ, nay Như Lai nhập niết-bàn thì ai thương xót dùng chính pháp giáo hóa để chữa trị bệnh kết sử cho các chúng sinh? Như Lai là người biết ân và nhớ ân, từ khi còn trong bào thai cho đến nay, con luôn theo Như Lai như bóng theo hình, hòa thuận, kính vâng theo, chưa từng làm gì sai trái. Vì sao Như Lai không cảm nghĩ đến lòng chí thành của con, lại bỏ con một mình, như người quên ân vậy?

Ôi, kì lạ thay! Ôi, đau khổ thay! Chày kim cương này dùng để bảo vệ ai đây? Nên lập tức ném bỏ chày kim cương này thôi! Từ nay về sau con sẽ hầu hạ ai? Ai sẽ xót thương dạy bảo cho con? Đến bao giờ con mới được nhìn thấy dung nhan của Như Lai? Vua bảo hộ thế gian[4] tuôn cam lộ, nên sai con đến bảo vệ Như Lai, nhưng nay Ngài lại bỏ con nhập niết-bàn? Mạng sống của con tồn tại là nhờ vào Như Lai, nay bỗng chốc Ngài bỏ con, con sẽ nương tựa vào ai để được tồn tại tính mạng này?

Ôi! Như Lai xót thương tất cả chúng sinh nên thường nói pháp vi diệu để giáo hóa, vì sao hôm nay Như Lai nhập niết-bàn mà không nói một lời?

Nhất thiết chủng trí, sở tri của Như Lai vượt trên tất cả trí, nên đối với chúng sinh có duyên, Như Lai luôn nghĩ muốn giáo hóa, giúp họ được lợi ích. Thế thì ngày nay Như Lai phải đi đâu mà nhập niết-bàn, lại không giáo hóa cứu giúp chúng sinh? Các ma, kẻ ác thấy Như Lai nhập niết-bàn đều rất vui mừng. Như Lai là thuyền trưởng trong biển sinh tử, nhưng ngày nay Như Lai mãi mãi bỏ việc cứu vớt chúng sinh. Vô lượng kiếp đến nay, các chúng sinh này trôi theo dòng sinh tử, chỉ có Như Lai mới có thể dùng chính đạo khiến các chúng sinh thoát dòng sinh tử này. Như Lai mãi mãi đoạn trừ phiền não, vì chúng sinh ngu muội nên Ngài hiện ánh sáng lớn. Nhưng nay Như Lai nhập niết-bàn, chúng sinhthế gian càng thêm tăm tối, mãi mãi bị vô minh che lấp.

Lực sĩ Kim Cương Mật Tích xót thương, sầu não, lại nói: “Như Lai đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân trăm phúc[5], thì làm sao hủy diệt, mãi mãi không thể trông thấy?

Buồn thay, bậc phá dẹp ác ma! Buồn thay, bậc chuyển pháp luân! Buồn thay, bậc hay diệt tắt ánh sáng đom đóm ngoại đạo! Buồn thay, bậc hay phá hoại thân hữu lậu! Buồn thay, bậc làm toà thành trí tuệ. Buồn thay, đèn chính pháp bị gió vô thường thổi tắt! Buồn thay, mặt trăng chính pháp bị La-hầu A-tu-la nuốt mất”.

Lực sĩ Mật Tích Kim Cương lại nói: “Đại Tịch Chân Tế, xin nói cho con biết, hôm nay Ngài đi đâu? Đến phương nào? Đến nước nào? Hay Như Lai đến Xá-vệ và thành Vương Xá, đến Ca-tì-la-vệ, hay đến Ba-la-nại? Như Lai ở đâu tại các nước này? Ở rừng nào, là vườn tre Ca-lan-đà, rừng Kì-đà hay rừng Am-bà-la? Như Lai ở nơi đâu trong các rừng này? Là ở núi nào, ở núi Bạch Thiện, núi Tì-hê hay núi Kì-xà-quật? Trong các núi này, Như Lai ở núi nào? Xin Ngài nói cho con biết chính xác nơi đâu?”.

Tám bộ chúng, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già v.v… đều thấy con thường đi theo Phật. Nếu họ có hỏi con Như Lai đi đâu thì con sẽ trả lời họ như thế nào?

Khi xưa, Thế Tôn giáo hóa chúng sinh, nếu thân thể có chút mỏi mệt thì Ngài nghỉ ngơi trong chốc lát. Ngài để tâmviệc làm lợi ích cho chúng sinh, vì sao hôm nay Như Lai bỏ tất cả họ mà nhập niết-bàn, không làm lợi ích nữa?

Xin Như Lai vì chúng con mà thức dậy. Lửa buồn đau đốt cháy trong tâm con, tính mạng sắp không giữ được nữa rồi! Cúi xin Ngài ban cho con một lời, giống như gáo nước lạnh dập tắt ngọn lửa trong lòng con. Nay con bị rắn độc buồn đau cắn, xin Ngài ban cho con thuốc A-già-đà[6] để trừ chất độc đó. Mũi tên độc buồn đau bắn trúng tim con, xin Ngài ban cho con chiếc kiềm lời nói để nhổ nó ra. Như Lai thường nói pháp để tất cả chúng sinh đoạn trừ ái biệt li khổ. Vì sao Như Lai không thương xót, diệt trừ các khổ này cho con?

Như con ngày nay, trong lòng buồn đau, nên tâm trí mờ mịt, không thể suy tìm nghĩa lí để tự chữa lành căn bệnh buồn đau trong tâm và các lời nói dua nịnh. Vì sao Thế Tôn không an ủi con? Tâm cung kính, tùy thuận không biết mõi mệt của con thích nhìn dung nhan của Như Lai mà không chán. Dù té ngã xuống đất thì con cũng nguyện được chiêm ngưỡng dung nhan của Như Lai. Vì sao Như Lai không thương xót con? Ngưu vương diệt kết thường cưỡng ép con, vì sao Thế Tôn không dẫn con nhập niết-bàn mà bỏ con lại một mình? Con mất Như Lai thì có vô lượng vô số nỗi khổ bức bách, không thể chứng ngộ chân lí, vì sao Như Lai bỏ con lại một mình mà nhập niết-bàn?

Lạ thay! Lạ thay! Như Lai ngủ luôn không thức dậy sao? Như Lai đi rồi không trở lại sao? Như đèn tắt thì không sáng trở lại, như lầu báu sụp đổ thì không dựng lại được, như kho báu bị mất thì không thể xuất hiện lại.

Mật Tích Kim Cương lại giơ tay, kêu gào khóc lóc, như sợi dây giữ cây cờ của Đế Thích bị đứt, ngã xuống đất không dựng lên được. Gào khóc một hồi lâu, ruột gan, cổ họng, môi lưỡi của lực sĩ đều bị khô nứt, mê man ngã xuống đất, hồi lâu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh lại, vì quyến luyến thân công đức của Như Lai nên ông nắm chặt bàn chân luân tướng[7] của Như Lai mà không buông và nói: “Bàn chân của Như Lai như hoa Ưu-bát-la, như mặt trời mới mọc trong sáng và mát dịu. Bàn chân đứng vững, bàn chân có thiên bức luân tuyệt đẹp và tinh xảo, không ai có thể vẽ được. Chuyển luân thánh vương có tướng này nhưng không rõ ràng. Còn tướng bức luân nơi bàn chân của Như Lai thì hiện đầy đủ và rõ ràng, từng ngón thon dài, đều đặn khít nhau, không có khe hở, móng hồng như đồng nguyên chất. Giữa các ngón tay, ngón chân của Như Lai đều có màng mỏng như bàn chân ngỗng. Bàn chân đầy đặn, không nổi gân mạch, da không nhăn. Bấy giờ vua cõi trời, vua cõi người, các quỉ thần vương và long vương đều đội mũ trời đến đỉnh lễ dưới chân Phật. Như Lai dùng bà chân tướng luân đi khắp thế gian để giáo hóa tất cả chúng sinh có duyên, nhưng nay chân của Như Lai không còn dùng nữa!”.

Khi xưa, tâm con thường vui vẻ, chỉ trong chốc lát Như Lai nhập niết-bàn thì tâm con không còn vui vẻ. Vô thường này rất đáng sợ, có thể phá hoại sắc thân vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Uy lực của Như Lai có thể làm cho người thấy thân tâm được vui vẻ, vô lượng phúc lực có thể giữ gìn thân Như Lai, nhưng lực vô thường thật lớn lao, có thể làm cho thân Như Lai đi vào chỗ chết. Như Lai dù có lực nuôi dưỡng của cha mẹ, lực thiền định, lực trí tuệ, lực thần thông, nhưng không thể tự thoát khỏi lực vô thường.

Ngày xưa, A-nan khuyến thỉnh Thế Tôn trụ lại đời thêm một kiếp, vì sao Như Lai không nhận lời thỉnh cầu đó? Khi xưa trong ba a-tăng-kì-kiếp, Như Lai đã tu trăm nghìn hạnh khổ, đã bỏ tất cả những việc khó bỏ. Trải qua vô lượng kiếp, Như Lai làm thị giả các Đức Phật, tôn thờ cúng dường, cầu Nhất thiết trí để hóa độ chúng sinh. Nhưng mới trải qua một thời gian ngắn, Như Lai độ chưa được bao nhiêu người thì liền nhập niết-bàn. Khi xưa, Như Lai còn làm bồ-tát đã giáo hóa chúng sinh mà không biết mỏi mệt, nhưng nay Như Lai có thể mỏi mệt sao? Chúng sinh ở trong pháp uế như con nghé mới sinh được mười hai tuần, thì sao có thể không cho bú mà bỏ đi? Thế nên, xin Ngài vì con mà thức dậy để ban cho những chúng sinh trong pháp uế được no đủ sữa ngọt.

Đế Thích và vài ức chư thiên đến gạn hỏi, vì sao Như Lai không nói pháp cho họ nghe? Phạm thiên vương, chủ nghìn thế giới chắp tay thỉnh Ngài giảng pháp, nhưng hôm nay vì sao Như Lai không nói đầy đủ pháp yếu để thỏa mãn những ước nguyện của họ? Thiên vương Tì-sa-môn thống lĩnh mấy nghìn vạn dạ-xoa, đề-đầu-lại-trá, càn-thát-bà, tì-lưu-lặc-xoa, cưu-bàn-trà, tì-lưu-bác-xoa và các loại rồng vây quanh Như Lai. Họ vì muốn được uống pháp cam lộ mà đến chỗ này, nhưng vì sao Như Lai không lấy thuốc hay chữa trị các bệnh cho họ? Các chúng ngoại đạo đang phỉ báng Phật pháp, vì sao Như Lai không mau thức dậy để hủy diệt tà luận kia? Chủ cõi Dục phá hoại khắp nơi, vì sao Như Lai không hàng phục họ? Các bậc thanh văn trí tuệ thấp kém, không siêng năng tu tập, nhàm chán đa văn, vì sao Như Lai không mau thức dậy lược nói pháp yếu để cho họ biết chính đạo? Đến như A-nan là người gần gũi Đức Phật, làm thị giả Ngài mà chưa đoạn trừ gốc rễ kết sử, vì sao Như Lai không giảng dạy để A-nan đoạn trừ hết kết sử?

Than ôi, kì lạ thay! Như Lai là người đại phúc đức chắc thật như thế, nhưng bị vô thường hoại diệt trong một sớm. Vô thường này như voi Hộ Tài tàn hại vô số, thân của nó to lớn như núi. Khi xưa Như Lai còn có thể hàng phục voi lớn như thế, vì sao nay lại bị vô thường điều phục đến nỗi phải diệt tận?

Như rồng A-bà-la có thể phá hoại nước Ma-kiệt-đà, nổi sấm sét, kéo mây đen dày, tuôn mưa đá phá hoại cây cối mà Như Lai có thể hàng phục được, nhưng ngày nay ngược lại Như Lai bị vô thường chế phục.

Như Ương-quật-ma-la tàn bạo, hung ác và có sức mạnhNhư Lai còn có thể điều phục được. Mâu-ni Thế Tôn điều phục được những kẻ không thể điều phục, nhưng lại bị vô thường hoại diệt. Như ác quỉ nơi đồng trống giết hại mọi người, khiến cho trong nước trống vắng, Như Lai còn có thể hàng phục khiến chúng thụ trì giới, nhưng nay lại bị sợi dây vô thường hủy diệt.

Như ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp chấp ngã nên bị chìm đắm trong rừng tà kiến không thể ra khỏi. Vậy mà Như Lai vẫn xót thương hiện mười tám loại thần túc biến hóa để hàng phục tà kiến đó, nhưng nay thân Như Lai bị vô thường xô ngã. Tất cả chúng sinh phúc mỏng, biển trí tuệ bị mặt trời vô thường làm khô cạn. Tu-di chính trí bị chày kim cương vô thường đập nát. Cây công đức Phật thường trổ hoa pháp và quả đạo đã bị rìu vô thường chặt đứt. Ánh sáng trí tuệ rộng lớn, danh tiếng vang khắp thế giannăng lực đốt cháy củi hữu sinh, nhưng nay bị dòng nước vô thường dập tắt. Sức mạnh vô thường không có pháp nào ngăn chặn, không thể bị người trí chế ngự. Cho dù sức mạnh của tâm siêng năng dũng mãnh, của thế lực vững mạnh, của tâm nhu hòa vang khắp, của tịch định điều phục các căn cũng không thể thoát khỏi.

Ôi! Vô thường hung bạo như thế! Nó không phân biệt người tốt kẻ xấu, người có đức hay không có đức v.v… tất cả đều bị nó hủy hoại.

 Mật Tích Kim Cương nói lời này xong, mặt đất chấn động, đỉnh núi sụp đổ, sao lớn rơi rụng, lửa cháy bốn phía, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao đều mất ánh sáng, tất cả trời, người đều không vui mừng. Mật Tích lại than tiếp: “Hôm nay thân thể con không thể tự đứng dậy, sắp vùi vào lòng đất, trước mắt tối đen, tâm ý hổn loạn, không nhớ được gì, môi lưỡi khô rát, ngôn từ lộn xộn, giọng nói khàn đặc, cái chết đã gần, mạng sống sắp tuyệt. Thế mà Như Lai mãi mãi bỏ con mà nhập niết-bàn! Mật Tích dùng nhiều lời đau xót và bao nhiêu ngôn từ để bày tỏ lòng luyến mộ Như Lai như thế.

Khi ấy Đế Thích nói:

- Thôi, thôi, cũng đã đủ rồi! Nay ông không thể nhớ lại một vài lời nói của bậc Đại Tiên[8] sao? Đức Phật đã dạy các tì-kheo: “Các hành vô thường, không thể trụ lâu, không nên tin chắc, đó là pháp biến đổi. Tất cả những sự nhóm họp sẽ tan hoại. Như người trên cao ắt rơi xuống đất, có nhóm họp ắt có chia li, có sinh ắt có tử. Tất cả các hành như cây bên bờ sông thẳm, cũng như vẽ trên nước, như bọt nước, như sương trên cành không tồn tại được lâu, như thành Càn-thát-bà tạm hiện ra trước mắt. Mạng người qua mau, bay nhanh hơn tên bắn, vượt nhanh hơn thiên hạ, di chuyển nhanh hơn mặt trăng-mặt trời. Các ông nên phải hiểu rõ vô thường hủy hoại như thế. Nếu Phật sự chưa xong thì Như Lai chưa vào niết-bàn, Phật sự đã xong thì Ngài vào niết-bàn, phó chúc Phật pháp cho trời người. Ngài cũng trao việc quan trọng này cho các đệ tử thanh văn để đi đến chỗ tịch diệt vô úy; Ngài đã diệt các hữu khổ, sẽ không còn thụ sinh”. Vì thế các ông chớ nên quá đau buồn!




[1] Thâp lực 十力: Chỉ mười lực về trí lực của Như Lai . Đó là: 1. Tri giác xứ phi xứ trí lực; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực; 4. Tri chúng sinh tâm tính trí.; 5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6. Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tư nhất thiết chí sở đạo trí lực; 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.

[2] Chân tế 真濟: Chỉ cho Đức Phật.

[3] Bà-già-bà 婆伽婆: Cg; Bạc-già-phạm, Bà-già-phạm, Bà-già-bạn, Bạc-a-phạm. Là một trong các danh hiệu của chư Phật.

[4] Vua hộ đời 護世之王: Tứ thiên vương.

[5] Trăm phúc 百福: Cg:Bách tự trang nghiêm, Bách phúc đức trang nghiêm. Trăm phúc trang nghiêm. Trong ba mươi hai tướng hảo của Như Lai, mỗi tướng đều do trăm phúc trang nghiêm mà thành.

[6] A-già-đà dược 阿伽陀藥; Hd: Kiện khang, Trường sinh bất tử, Vô bịnh, Phổ khử, Vô giá, Bất tử dược. Vị thuốc hay có giá trị vô cùng, uống vào có thể trừ hết các thứ bịnh tật.

[7] Tướng luân 相輪: Cg; tướng bức luân: bàn chân Phật có hình bánh xe nghìn căm

[8] Đại Tiên: 大仙: Kinh Niết-bàn gọi Đức PhậtĐại Tiên.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22254)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16000)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15014)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18924)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14399)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13561)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13540)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11805)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13919)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15013)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16438)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11883)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17578)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13690)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14843)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13118)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12071)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12749)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12877)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12756)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14151)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14092)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16447)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12369)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11013)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13181)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13147)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12990)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13483)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13953)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10210)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13687)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16249)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12957)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12651)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10926)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11864)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12736)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12604)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11300)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant