Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ Tư

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9016)
Quyển Thứ Tư


KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0402

Nguyên tác: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

- Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Ba La Pha Mật Ða La - Ðời Ðường

 - Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

---o0o---


Quyển thứ tư. 

 

PHẨM THỨ BA (Tiếp theo): MA VƯƠNG QUI PHỤC 

Lúc bấy giờ, Ma vương thấy tất cả ma chúng sở hữu kia đều cùng quyến thuộc qui y đức Như Lai. Lúc đó Ma vương càng thêm sân giận hơn trước, kinh sợ mê loạn, cất tiếng buồn khóc, nói kệ như vầy:

Ta mất thẳng uy đức

Không có ai đỡ đần.

Sa môn thần thông thắng

Ðoạt cõi ma ta liền.

Nên lại tìm phương tiện

Sau này nghĩ việc làm

Căn hoa sen chặt đứt

Khiến chúng tan các phương

Căn hoa sen đã đoạn

Khiến đại chúng mê loàn

Nếu chúng đã mê loạn

Sau này ta thỏa nguyền.

Bấy giờ,, khi Ma vương nói kệ đó xong thì như điều suy nghĩ, giống như gió bão, từ trên không mà hạ xuống, đến con đường có hiện hoa sen kia, liền tiến tới trước, muốn nhổ bật hoa sen lên. Do lực của đức Phật nên hắn còn chẳng thể chạm đến hoa huống gì là nhổ bật được. Ðã chẳng thể nhổ bật ma lại muốn tóm lấy cánh hoa sen và gây tổn hại đài hoa, nhưng lại chẳng thể tổn hại được. Ma liền muốn cất tay từ xa tát (đánh) vào hoa đó. Lúc đó, Ma vương thấy hoa sen đó như chớp, như bóng (hình), tuy đối trước mắt mà căn hoa sen chẳng thể chạm đến làm tổn hại. Bấy giờ, Ma vương bằng hết thần lực của mình cũng như việc làm của mình mà đối với hoa sen kia rốt cuộc chẳng thể tổn hại được. Ma lại muốn kinh động tất cả đại chúng nên liền phát ra tiếng to lớn đáng sợ nhưng tiếng cũng chẳng phát ra được. Ma lại hiện uy mãnh, dùng lực thế lớn, liền đưa hai tay vỗ xuống đại địa khiến cho đất chấn động. Khi đó đại địa giống như hư không, thậm chí chẳng thể dùng tay sờ chạm huống là có thể khiến cho lay động. Khi đó Ma vương thấy đại địa này chẳng thể chạm được, lại sinh ý niệm này: “Chúng sinh có trong đại hội này hôm nay, ta sẽ đánh họ, khiến cho lòng họ rối loạn”. Khi khởi lên ý niệm đó thì thậm chí ma chẳng thấy có một chúng sinh để có thể được có thể chạm, huống gì là có thể gia hại, bức bách. Nhờ lực của đức Phật nên có tướng như vậy. Lúc đó, Ma vương càng trở nên ưu não, toàn thân lắc lư lay động như cây gặp gió lớn, phát ra tiếng gào khóc bi hận, rơi nước mắt, quan sát khắp bốn phương nói kệ như vầy:

Sa môn dùng huyễn lực

Nhiếp lấy các thế gian

Ta nay lòng say tối

Trong giây lát mê loàn.

Cảnh giới, lực công đức

Mà ta đã có được

Kia dùng huyễn lực nên

Tất cả xâm đọat hết.

Ta nay bị bỏ mặc

Phải mau trở về cung

Nếu chẳng đi, thậm chí 

Thọ mạng ta kịp nữa.

Lúc bấy giờ, Ma vương liền muốn trở về cung. Tuy sinh ý niệm đó nhưng lại chẳng thể đi, Ma vương càng thêm kinh sợ khóc lóc mà khởi ý niệm này: “Ta nay đối với thần thông này đã hết vì sức tự tại của ông Cù Ðàm vậy. Không lẽ lại ở trước kẻ oán gia đó khiến cho ta tận mạng?” Ma lại khởi ý niệm này: “Ta nay có thể lén ra ngoài cõi Phật Ta Bà này. Ta thà chết ngoài đó chứ không cho, ở cõi Phật này, có một chúng sinh thấy ta chết”. Khi khởi lên ý niệm đó thì thậm chí chẳng thể rời khỏi phương hướng này, huống là có thể lén đi, ma tức thời tự thấy bị năm trói buộc, lại trở nên kinh sợ, sân giận, cất cao tiếng buồn khóc. Ma vương lại nói lên lời này:

- Hỡi các con yêu và các thân thuộc! Ta lại chẳng thể thấy rồi!

Bấy giờ, có ma tên là Trí Thanh, liền tự biến thân làm hình dáng vua Chuyển Luân, hướng về Ma vương nói kệ như vầy:

Ý ông sao lo lắng

Sinh bi não gào than

Bậc thế gian tối thượng

Như Lai là trên cùng.

Phật là vô sở úy

Phải mau cầu về nương (qui y)

Cứu hộ các cõi thế

Như đèn soi các đường.

Kẻ qui y nhờ cậy

Thoát ba khổ rốt cùng

Như Lai, nếu thân cận

Sẽ được vui Niết bàn (Tịch diệt).

Lúc bấy giờ, Ma vương khởi lên ý niệm như vầy: “Nếu ta theo lời nói của Trí Thanh đó, đối với Sa môn Cù Ðàm nên phải qui y thì sự ràng buộc của ta sẽ được giải thoát”. Lúc đó, Ma vương hướng về đức Phật, cúi thân, chắp tay nói lên như vầy:

- Nam mô đấng trượng phu Vô thượng trong loài người! Ðức Phật có thể giải thoát già bệnh chết! Con nay xin qui y!

Khi đó, Ma vương dùng kệ tụng rằng:

Trói này rất hiểm đáng sợ lắm

Con cầu Thiện Thệ mau về nương

Về nương Như Lai được giải thoát

“Chúng đệ nhất” nay mới về nương.

Con do si mù giận Chánh Giác

Ðã tạo tội lỗi đến cực cùng

Nay y lời ngài con sám hối

Tôn ngài hiện tiền làm chứng minh.

Lúc bấy giờ, Ma vương theo lời của Thiện trượng phu Trí Thanh liền ở trước đức Phật qui y đức Thế Tôn. Ngay tức thời Ma vương tự thấy thân mình được cởi trói. Ðã được giải thoát, Ma vương lại tự nghĩ: “Muốn trở về chỗ ma, trụ ở cung” liền tự thấy thân lại bị năm trói buộc, phải ở lại trong chúng này không thể đi về chỗ của mình. Ma vương tức thời lại qui y đức Như Lai. Khi phát sinh ý niệm này, Ma vương liền ở bên đức Phật, lại được giải thoát. Ma vương tác khởi ý niệm muốn đi thì liền thấy bị trói buộc. Ma vương phát sinh ý niệm trụ lại thì liền thấy giải thoát. Cứ như vậy, như vậy cho đến bảy lần trói buộc, giải thoát. Ma vương tự biết không thể làm gì được, liền ở bên đức Phật, mặc nhiên an tọa.

 

PHẨM THỨ TƯ: ÐẠI TẬP

Bốn vị đại Thanh văn kia vào đại thành Vương Xá khất thực, gặp các đồng tử ma nắm tay các Thanh văn chạy trong đường lớn. Chúng mời bốn vị Sa môn ca múa phi pháp. Các vị đại Thanh văn nhân trong tiếng ca vì chúng nói câu đạo tương ứng với Niết bàn. Bấy giờ, ở trong khoảnh khắc một sát na, đại địa chấn động. Như vậy vô lượng trăm ngàn trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già... trước ở trong Phật giáo được niềm tin thanh tịnh, diện mục rơi lệ mà nói kệ như vầy:

Ðạo sư tối thượng hiện tại thế

Ở trong Thánh, ác quái khởi lên

Nhục Thanh văn kia khiến đời thấy

Làm sao chúng sinh có niềm tin?

Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn câu chỉ nadotha trời, rồng, dạ xoa, la sát... diện mục rơi lệ kéo nhau đến chỗ đức Phật. Ðến rồi, ở trước đức Phật, họ nói kệ như vầy:

Thánh giáo hiện tại đây

Phải khéo quán hôm nay

Kẻ trí chớ buông bỏ

Vì hộ chánh pháp này.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Ta nay tự đến chỗ ma đó

Khiến chúng ma quân đều phục hàng

Phải làm đạo sư mọi cõi thế

Dạy họ hướng về thành Niết bàn.

Khi ấy, tất cả đại chúng, khác miệng đồng âm, nói lên như vầy:

- Kính thưa đức Thế Tôn! Chớ đi đến! Chớ đi đến! Ðức Thế Tôn trước đã nói, chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới ma chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới rồng chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp và cảnh giới nghiệp chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy trong tất cả các cảnh giới chỉ có cảnh giới của Phật là tối thắng không gì có thể bì kịp! Nguyện xin đức Thế Tôn chớ đứng lên khỏi chỗ ngồi này mà khiến cho vô lượng câu chỉ nadotha các chúng ma quân tự nhiên hàng phục, lại còn có thể khai thị vô lượng trăm ngàn nadotha các pháp ấm, giới..., làm khô kiệt biển phiền não, hoại tan các lưới kiến, có thể khiến cho vô lượng nadotha chúng sinh vào biển trí tuệ. Thưa đức Thế Tôn! Ngày hôm nay chẳng phải là lúc ra đi!

Ðức Phật dạy rằng:

- Chúng sinh của cõi chúng sinh đã có mà tất cả chúng sinh đó đều biến làm ma hết... cho đến cả đại địa đều thành vi trần hết. Rồi mỗi một vi trần lại biến làm ma. Lực của tất cả ma đó muốn đến hại ta thì thậm chí chẳng có thể động đến một sợi lông của ta, huống là có thể làm tổn hại một phần thân thể này của ta. Ta ngồi ở tòa này có thể thắng vô lượng câu chỉ nadotha ma, lại có thể điều phục chúng, chỉ đặt quyến thuộc của ma này khó có thể điều phục. Tuy nhiên, ta nay sẽ đi đến! Sở dĩ vì sao? Vì ma này dùng sức thần thông, ở thành Vương Xá, đã biến làm đủ thứ đồ nghiêm sức cúng dường ta. Thương xót chúng nên ta nay sẽ thọ lấy, khiến cho lòng ma đó có thể phát khởi sự vui mừng đệ nhất hiếm có và sinh ra niềm tin thanh tịnh, sẽ gieo hạt giống căn lành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói lời đó xong, ngài muốn đứng dậy thì vị trời hộ trì rừng trúc tên là Ðoan Chánh, đi đến chỗ đức Phật, rơi lệ chan hòa mà nói kệ rằng:

Hôm nay, thưa đức Phật!

Chẳng phải lúc vào thành.

Thành này rất rộng lớn

Ma chúng đều đầy tràn.

Mỗi một ma như vậy

Mang ác nặng trong lòng

Ðều cùng ức ngàn chúng

Muốn vây quanh Thế Tôn

Lửa sân đều rực cháy

Ý độc chuyển loạn cuồng

Giành cầm binh khí nhọn

Tranh não hại Thế Tôn.

Nguyện xin Thích Sư Tử

Cẩn thận chớ nên sang (đi đến)

Hoặc sẽ bị mất mạng

Chúng con mất chỗ nương!

Ðức Thế Tôn nghe xong, mặc nhiên chẳng đáp, liền đứng lên khỏi pháp tòa. Có vị trời hộ Già Lam tên là Trì Tuệ, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà nói kệ rằng:

Có năm trăm ác ma đại tướng

Ðều giành cầm binh khí tinh ròng

Thuần mang ác tâm đứng chờ Phật

Thưa đấng Mâu Ni, nay chớ sang!

Ðức Thế Tôn nghe rồi, lặng lẽ chẳng đáp, sắp ra khỏi Già Lam thì có vị trời coi về thuốc tên là Thành Tuệ, đầu mặt lễ dưới chân Phật mà nói kệ rằng:

Ô hay! Mất Chánh giác!

Sẽ phá hoại pháp môn

Thuyền pháp chốc lát đắm

Ðèn tuệ chợt tối đen (chẳng soi)

Thế gian pháp vị giảm

Giặc phiền não đầy tràn.

Ở trong các cõi hữu

Tự tại con không thiếu

Pháp tối thượng hoại tan

Sao có thể gìn giữ

Quân ma kia rất đông

Trụ ở trong pháp ác

Dao gậy bén chúng cầm

Lòng độc tranh hại Phật

Thiện Thệ nghe lời con

Vì lợi cho cõi thế

Nguyện xin Thập Lực Tiên

Chớ bước vào thành đó!

Ðức Thế Tôn nghe rồi, mặc nhiên chẳng đáp, sắp rời khỏi Già Lam thì bên trong cửa lớn có một vị Thọ thiên (trời cây) tên là Trì Thế liền ở trước đức Phật cả buồn khóc lóc, đem thân gieo xuống đất, hướng về đức Phật làm lễ mà nói kệ rằng:

Mắt nương cậy ba hữu sẽ mất

Sở dục đầy ý sắp hoại tan

Trong không dao, tên như rắn độc

Dò tìm hại Phật, nguyện chớ sang (đi sang).

Ðức Thế Tôn nghe rồi mặc nhiên chẳng đáp. Bấy giờ, trời giữ cửa lớn tên là Thủy Quang cất tiếng gào khóc, đầu mặt sát đất, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà nói kệ rằng:

Trong thành lừng danh Ðại Phạm Chí

Cầm Nguyệt đao chờ đức Thế Tôn

Cùng hai vạn kẻ mang độc hại

Ở tại thành này, xin chớ sang!

Ðức Thế Tôn nghe rồi, lặng thinh chẳng đáp lại. Khi Phật sắp vào cửa thành Vương Xá thì trời giữ cửa của thành đó tên là Ða Ma La Thọ Diệp Kiên Cố, ở trong hư không, cất tiếng gào khóc, chạy nhay đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật mà nói kệ rằng:

Ðường này sư tử, voi vây kín

Khởi dũng tâm tranh hại Thế Tôn

Và não Tỳ kheo tạo chướng ngại

Xin chớ đi! Thương xót trời rồng.

Nhân Ðà La, bốn đường trong chúng

Thấy Phật giáo diệt ưu khổ sinh

Cùng nhau vân tập chung một chỗ

Sợ sệt run rẩy nói nhau rằng:

Như Lai đã đẩy lùi ma đó

Ma nay biến mặt ác cực cùng

Sợ Ðại pháp diệt, nạn đời khởi

Nhật, nguyệt mất độ (lạc quỉ đạo), sao bị ngăn (che)

Ðều lắc đầu nhìn tướng ác hiện

Lạ thay! Thiện Thệ có thoái tướng!

Ðuốc pháp diệt, mắt mặt trời tan

Dày xéo Chánh Giác, cạn nước pháp

Ðến lúc hoại diệu pháp thế gian

Chúng ma ác đẳng dần xí thạnh.

Ðức Thế Tôn nghe rồi, lặng thinh chẳng đáp. Vị trời cửa thành đó can gián, đức Phật chẳng quay về nên buồn khóc rơi lệ, lại nói kệ rằng:

Khắp xem thế gian Mâu Ni Tôn

Người nói tối thượng đi sẽ chết

Chớ gần thành con mà chết oan

Con bị ba cõi luôn hủy báng!

Nguyện nghe con nói đấng vững bền (kiên cố)

Hôm nay chớ vào trong thành diệt

Ðợi chỗ này thương xót chúng sinh

Giải thoát chúng sinh sinh khổ sợ

Như Lai phải nhớ vốn thề nguyền:

Ðược Ðại Bồ đề độ sinh chúng

Vô lượng chúng sinh khổ đốt tan

Thầy thuốc vô thượng an sinh chúng

Vô lượng kiếp trụ ở thế gian

Vì những phàm phu đắm trước dục

Nói pháp khiến họ được Niết bàn (Tịch diệt)

nghĩa không tướng vào tự tánh.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lặng thinh chẳng đáp, sắp vào cửa lớn thì vị địa thiên cùng trời Ðại tư vị cùng với một vạn trời đồng loại, xỏa tóc che mặt, cùng đến chỗ đức Phật, đứng chắp tay mà nói kệ rằng:

Phật nhớ xưa bố thí

Cho máu, bốn bể hơn

Ðầu xương như núi Thiết(núi Thiết vi)

Mắt... như cát sông Hằng

Và đủ thứ diệu bảo

Voi ngựa cùng vợ con

Y, thực, phòng, ngọa cụ

Tùy bệnh cho thuốc thang

Cúng dường đấng Tối thượng

Hộ giới chẳng buông lung

Tập quen nghe nhiều nhẫn

Hiếu dưỡng mẹ cha luôn

Tu hạnh khó, hạnh khổ

Giải thoát khổ chúng sinh.

Ngài xưa đã phát nguyện

Thành Phật nói đạo trên (đạo Vô thượng)

Cứu biển khổ cõi thế

Nói pháp vì chúng sinh

Khiến cạn kiệt biển khổ

Cho vào Vô úy thành

Ðặt ở Bồ đề đạo.

Ðầy khắp cõi chúng sinh

Người làm ác mất đạo

Sám hối hủy giới (cấm) Văn (đa văn)

Sở nguyện xưa tùy thuận

Nói pháp kiếp không lường ( Câu chỉ kiếp)

Tắm bằng nước tám giới (cấm)

Khiến qua sông não phiền

Chúng sinh trong ba cõi

Lại không như Thế Tôn

Mình đã được giải thoát

Lại giải thoát thế gian

Vận chuyển độ sinh chúng

Ở biển “Hữu” mênh mông

Chỉ Phật được như vậy

Ðệ Nhất Giác thế gian

Chỉ Phật thân cõi thế

Pháp cam lộ nguyên ban!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã vào thành, trong khoảnh khắc sát na, có vô lượng ức nadotha trời, rồng, dạ xoa... tám bộ quỉ thần, ở trong hư không, mỗi mỗi đều rơi lệ mà nói kệ rằng:

Con thấy xưa Thiện Thệ

Khi điều chúng bình an

Nói pháp làm lợi ích

Không như vậy não loàn (loạn)

Ðại sư ra đời ác

Ðại giác tự nhiên thành

Nói pháp phiền não chướng

Ðể thành thục thế gian

Thường làm sư tử hống

Ác ma nhiều không lường

Muốn diệt pháp như vậy

Phật nay chớ vào thành!

Có vị trời khác lại nói kệ rằng:

Chư Phật chuyển pháp luân

Trụ một phương lợi ích

Nay Phật chỗ chỗ sang (đi đến)

Không khiến được gặp ác?

Bấy giờ lại có vị trời khác, đồng nói kệ rằng:

Vì thương làm thầy dẫn (đường)

Thương làm lợi chúng sinh

Chỉ một mình vào thành

Như con thấy có tổn (hại).

Lúc đó, lại có vô lượng trăm ngàn câu chỉ nadotha trời, rồng, dạ xoa, la sát, A tu la, Ma hầu la già.v.v.. diện mục mưa xuống nước mắt, từ trong hư không tạo tác hành động mà hạ xuống trụ ở trước đức Phật với vô lượng thứ hình dạng khác lạ. Hoặc có loài mặc tóc, hoặc mang chuỗi ngọc có một không hai, hoặc có bảo cái tràng phan đều nghiêng ngã, hoặc lại toàn thần gieo xuống đất, hoặc nắm lấy chân đức Phật, hoặc gào lớn bi ai, hoặc đưa hai tay đấm ngực áo não, hoặc ở dưới chân đức Phật lăn lộn buồn khóc uyển chuyển dưới đất, hoặc ở trước đức Phật chắp tay khen ngợi, lễ bái, hoặc tung lên đủ thứ hoa đẹp tạp sắc, bột thơm, hương xoa, vòng hoa cài tóc, lụa là sô ma năm màu... đồ nghiêm sức, hoặc tung lên dệt thành y phục báu, chân châu... đồ nghiêm sức hoặc tung lên dệt thành y phục báu, chân châu, chuỗi ngọc, đủ thứ vật lạ... Thiên chúng đó cúng dường đức Phật xong, đồng thời cất tiếng mà nói kệ rằng:

Ðức Phật hành hạnh khổ

Vì lợi ích thế gian

Khi sinh đời mạt thế

Vì chúng chớ đi sang.

Làm chưa nhiều Phật sự

Ðược chứng ít nhân thiên

Ở lâu khai thị pháp

Ðộ ba cõi thế gian

Có hành hạnh thanh tịnh

Ðồ đựng cam lồ thành

Dạy con từ bi khởi

Cứu khổ bức thế gian

Trong sáu đường khoáng dã

Sinh tử mất đạo chân (chính)

Vì họ bày đường thiện

Giải thoát, pháp thánh nhân

Bi này tối hy hữu

Nguyện Ðại Giác trụ bền (lâu)

Chuyển pháp luân Vô thượng

Chớ khiến đời không nương (cậy).

Các vị trời khác lại nói kệ rằng:

Ðạo sư nếu diệt hết

Thế gian đều tối tăm

Tám thánh (đạo) ba giải thoát

Ở đây thẩy đều không

Chúng con đã gieo thiện

Ba nghiệp chẳng buông lung

Tất cả lạc đầy đủ

Trụ lâu công đức tàng.

Lúc bấy giờ, lại có chúng của trời Tịnh Cư cùng với quyến thuộc của họ nhiều vô lượng vô biên hàng ức nadotha tập họp ở một chỗ. Họ đều chung gọi nhau mà nói kệ rằng:

Các ông chớ sợ, Phật không bại!

Ứng với Ðại giác phải rõ ràng

Ta nhớ thuở xưa thân cận Phật

Cõi dục có câu chỉ ma quân

Ðầy khắp ba mươi sáu do tuần

Búa bén, kiếm sắc cùng dao kích

Thổi mạnh nhanh chóng như mây tuông

Ma chúng hùng mạnh tiếng đáng sợ

Ðến cây Bồ đề đều chạy tan

Ở trong giây lát đều kinh sợ

Huống nay quả tròn, danh vang lừng

Bọn chúng làm sao tạo chướng ngại.

Có các trời khác cùng nhau buồn khóc mà nói kệ rằng:

Xưa một quân ma không lực lớn

Nay ma thế lớn ức trăm ngàn

Ðến hại Như Lai định không nghi

Phật nếu diệt mất tối thế gian.

Bấy giờ, Phạm vương, Ðế thích, các trời hộ thế gian đảnh lễ dưới chân đức Phật mà nói kệ rằng:

Do con tiểu trí khuyên Phật trụ

Theo lời chúng con mà xót thương

Vô lượng chư thiên do lửa đốt

Nay vì bọn họ mưa pháp tuông.

Lúc ấy, đức Thế Tôn dùng mắt đại bi quan sát khắp tất cả thiên chúng đồng đến, phát ra tiếng diệu phạm, rũ lòng an ủi khắp mà nói kệ rằng:

Các ông chớ sợ nay vô úy

Tất cả ma chúng nhất thời sang (đến)

Bọn chúng chẳng thể động hại Phật

Chỉ một sợi lông huống là thân.

Ta nay an ủi tất cả chúng

Thường nói diệu phápthế gian

Ta đối như vầy, người mất đạo

Sẽ rộng phân biệt bày đạo chơn (chánh).

Xưa ta đã làm việc làm khó

Rộng thí chúng sinh đồ uống, ăn

Phòng, nhà, thuốc thang chẳng thiếu thốn

Ta nay ai có thể não loạn?

Ta bỏ xe cộ cùng voi ngựa 

Cũng như vậy, đồ báu trang nghiêm

Nô tỳ, thành quách và tụ lạc

Ai hay cùng ta gây não loàn?

Thê thiếp, trai gái cùng quyến thuộc

Ái trọng tự tại ngôi vị vương

Ta cho chúng sinh nhiều lợi ích

Sao nay thân ta phải hoại tan?

Ðầu, mắt và tai, mũi

Tay, chân, da, máu, thân

Ðem mạng cho sinh chúng

Ta, ai hay não loàn?

Vô lượng câu chỉ Phật

Tự tay ta cúng dường,

Thường ưa đa văn, giới (cấm)

Ta, ai hay hoại tan?

Làm vô lượng việc khó

Rất hay nhiếp phục lòng

Cắt khắp thân chẳng giận

Ta nay, ai não loàn?

Phiền não đã lui, thành Chánh giác

Với chúng sinh từ tâm ngang bằng (bình đẳng)

Mãi không ganh ghét và uế nộ (giận)

Không có người như ta hiện tiền.

Ta nay sức phá ma đã có

Hay đẩy lui ma nhiều không lường,

Quyết định cùng ông làm giải thoát

Vì sao sợ sệt chẳng vào thành?

Ðất này và mười phương sở hữu

Những đất nước Phật trụ ở trong

Ta thỉnh tất cả những vị đó

Và chúng Bồ tát đại thần thông.

Nguyện khiến thế gian đều đầy khắp

Và dùng phước trí xông thế gian

Trụ cùng họ như pháp thức (phép) Phật

Cũng trì thuận khả (thuận cho) của Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, vô lượng trăm ngàn vạn ức nadotha Atăngkỳ trời, rồng, Dạ xoa, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người.v.v... cùng với đại chúng tụ đến nhất thời đồng thanh xướng lên rằng:

- Hay thay!

Họ lại nói lên rằng:

- Nam mô! Hy hữu chưa từng có vô số tinh tấn cụ túc như đức Thế Tôn hôm nay! Nam mô! Nam mô! Ðại hy hữu, chưa từng có vô số tinh tấn cụ túc như đức Thế Tôn hôm nay! An ủi tất cả trời, người và các loài chúng sinh đều nhờ được độ thoát, đánh lùi các ma chúng, diệt tan cấu bẩn phiền não của chúng sinh, phá tan núi ngã mạn, chặt đứt cây thọ sinh, đập nát mặt trời sinh tử, trừ diệt bóng tối vô minh, khởi sinh niềm tin cho ngoại đạo, làm cạn nước bốn dòng chảy, thắp lên đuốc chánh pháp, bày ra đường Bồ đề, trao cho chúng sinh nhẫn nhục nhu hòa, du hí tam muội, sống với niềm vui thiền định, khắp khiến cho giác ngộ tứ Thánh đế đạo, đạo sư đại bi rộng độ chúng sinh, ở trong biển sinh tử, dẫn những trời, người vào thành vô úy!

Những trời, người, A tu la.v.v... đều dùng đủ thứ hương hoa vi diệu của trời, hương xoa, bột thơm, tạp bảo, vòng hoa cài tóc... đồ trang nghiêm tung lên trên đức Phật. Vì cúng dường đức Phật nên họ quét dọn, trang hoàng đường lớn, hẽm nhỏ, dùng áo báu trời, diệu hoa trời, the lụa trời che khắp trên đường. Họ lại mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ba lô sa, hoa Ca lô già, hoa đại lô già, hoa Ưu bát la, hoa Câu vật đà, hoa Phân đà lợi.v.v... đủ thứ hoa sen theo bước đi của đức Phật mà bày ở dưới chân. Hai bên con đường ấy hóa ra cây trời với cành lá hoa trái đều dùng thất bảotrang nghiêm. Trên cây thất bảo lại hiện ra đủ thứ áo trời báu diệu, mũ trời, vòng ngọc đeo tai, vòng báu đeo tay... đồ trang sức nghiêm trang. Vùng những cây đó có ao hoa trời, giáp vòng bốn bờ ao ấy toàn là bảy báu, trong ao nước trong mát ngon lành, đầy đủ tám đức. Mọi thứ hoa sen báu và những loài chim kêu tiếng vi diệu, đủ màu... xen lẫn tràn đầy trong ao ấy.

Những thiên chúng đó cúng dường đức Phật nên ở trong hư không đều cầm tràng phan bảy báuhoa cái, trang hoàng bằng đủ thứ dây vàng, lụa bóng, chân châu, chuỗi ngọc. Họ lại mưa xuống mạt (vụn) vàng, mạt bạc, mạt tỳ lưu ly và tung lên tất cả hương bột trầm thủy, hương bột đa già la, hương bột hắc chiên đàn, hương lá đa ma la. Họ lại mưa xuống hương thơm ngưu đầu ưu la già chiên đàn.v.v... đủ thứ hương bọt khắp ở trên đường. Họ lại mưa xuống dây vang đan nối với chuỗi ngọc chân châu, chuỗi ngọc ma ni, chuỗi ngọc như ý... phơi bày rực rỡ ở trong hư không, theo gió xoay vần. Trên những con đường, trong ngoài thành ấy, đều dùng đủ thứ đồ trang nghiêm của trời mà trang sức. Cho đến trong thành ma và quyến thuộc cũng dùng đồ trang nghiêm diệu bảo của trời mà nghiêm sức các con đường. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh nên liền vào tam muội Thủ Lăng Nghiêm, tâm ngài chánh thọ. Vì đã vào định nên đức Phật bước đi từ từ ở trên đường, hiện ra nơi sắc thân đủ thứ vi diệu, tướng tốt uy nghi quanh minh hiếm có. Ở giữa đường bên trong thành ấy, ngài đứng ngay thẳng khiến cho tất cả chúng sinh trên đường đó đều thấy thân Phật. Nếu có người thờ Phạm thiên, ứng dùng thân Phạm mà được giải thoát thì đức Thế Tôn liền hiện thân Phạm mà hóa độ họ. Nếu có người thờ Ðế thích, ứng dùng thân Ðế thích mà được giải thoát thì đức Thế Tôn liền hiện thân Ðế thích mà hóa độ họ. Nếu có người thờ Na la diên, ứng dụng thân Na la diênđược giải thoát thì đức Phật liền hiện thân Na la diênhóa độ họ. Nếu có người thờ Mê ê thủ la, ứng dùng thân Ma ê thủ la mà được giải thoát thì đức Phật liền hiện thân Ma ê thủ la mà hóa độ họ. Nếu có người thờ trời Tứ thiên vương, ứng dùng thân trời Tứ thiên vươngđược giải thoát thì đức Phật liền hiện thân trời Tứ thiên vươnghóa độ họ. Nếu có người thờ Chuyển Luân Thánh Vương, ứng dùng thân Chuyển Luân Vươngđược giải thoát thì đức Phật liền hiện thân Chuyển Luân Vươnghóa độ họ. Nếu có người thờ các tiểu vương, ứng dùng thân các tiểu vươngđược giải thoát thì đức Phật liền hiện thân các tiểu vươnghóa độ họ. Nếu có người thờ bậc đại thần thông, có người thờ Sa môn, có người thờ đồng nam, đồng nữ, phụ nữ... thì đức Phật đều hiện những thân đó mà hóa độ họ. Thậm chí có người thờ sư tử, thờ rồng, thờ voi, thờ thỏ, thờ A tu la... đủ loại thân. Những chúng sinh đó ứng dùng uy nghi sắc tướng của những thân đó mà được giải thoát thì đức Như Lai đều hiện những hình tướng đó mà hóa độ họ. Khi đức Thế Tôn thị hiện đủ thứ như vậy thì tất cả chúng sinh đi trên đường đó thấy việc đó rồi đều chắp tay, đầu mặt sát đất, lễ bái, khen ngợi, vây quanh đức Như Lai, được điều chưa từng có. Nếu có người thờ voi, thờ rồng, thờ A tu la... cho đến nếu có người thờ thần thỏ thì những chúng sinh đó liền thấy đức Như Lai đồng hình tướng với thỏ đang uy nghi ở trên đường mà đi. Nếu có chúng sinh thờ Phật thì những chúng sinh đó liền thấy đức Như Lai đúng như uy nghi của đức Phật đang ở trên đường mà đi. Những chúng sinh đó đều chắp tay khen ngợi, lễ bái, cùng nhau nương theo đi sau đức Phật.

Lúc bấy giờ, tiên nhân Quang Vị ở núi Tuyết cùng năm trăm đồ chúng của ông bị sự điều khiển của ma, đi đến thành Vương Xá, đến chỗ đức Phật. Khi đó Quang Vị ở bên trong cửa thành, đứng đợi đức Như Lai, thấy thân Phật giống như người tiên, uy nghi hình tướng hiển phát trang nghiêm và thấy vô lượng trăm ngàn câu chỉ chư thiên vây quanh cúng dường. Thấy việc đó rồi, ông lại khởi ý niệm này: “Như người này quả là đại tiên nhân, có sự gia hộ lớn, đáng thọ sự cúng dường tối thượng của người trời và hiện ra tất cả thân phận trang nghiêm giống như bậc thánh trí. Hai người chúng ta, ai là tôn thắng? Trí tuệ ai hơn? Ta hôm nay làm sao rõ biết? Ông lại khởi ý niệm này: “Ta nên đến gần mà hỏi, do loài nào sinh ra? Do dòng họ nào? Thọ trì những gì? Do chí nguyện gì? Do những hạnh nào?” Tiên nhân Quang Vị tự quan sát đồ chúng, nói kệ như vầy:

Nay thấy đa văn phước đức lớn

Người trì đại hạnh ứng cúng dường

Tối Mâu Ni hay trì thiện đạo

Trí đại nhẫn nghĩa pháp đầy đủ

Các ông, tất cả lòng ân cần

Dùng đại phương tiện cúng dường luôn

Ta phải đến người công đức ấy

Nghe ngài giảng nói qua bờ kia.

Bấy giờ, tất cả đồ chúng ma na bà của Quang Vị đều cùng đồng thanh nói lời như vầy:

- Ðúng vậy! Thưa đại sư! Ngài nên làm như vậy!

Tiên nhân Quang Vị cùng các quyến thuộc kéo đến chỗ đức Thế Tôn. Ðến trước đức Phật rồi, họ chắp tay đứng mà nói như vầy:

- Nay ngài là ai?

Ðức Thế Tôn đáp rằng:

- Ta là Bà la môn!

Tiên nhân lại nói:

- Họ ngài là gì?

Ðức Thế Tôn đáp rằng:

- Họ ta là Cù Ðàm.

Tiên nhân lại nói:

- Chí ngài ưa gì?

Ðức Thế Tôn đáp rằng:

- Ba cửa giải thoát!

Tiên nhân lại nói:

- Ngài làm những hạnh nào?

Ðức Thế Tôn đáp rằng:

- Ta hành Chân-như tế!

Tiên nhân lại nói:

- Ngài xuất gia bao lâu rồi!

Ðức Thế Tôn đáp rằng:

- Lâu như sự khởi lên của vô minh kia! Ta nay xuất gia cũng lại như vậy!

Tiên nhân lại nói:

- Như vậy đại tiêntinh tú ứng hiện như điều minh ký (ghi sáng) đều tụng vậy chăng?

Ðức Thế Tôn đáp rằng:

- Như đó bình đẳng, ta chẳng quên vị trí. Ðó sở hữu gì? Có gì kiên cố? Như tướng này thì trí thế gian biết.

Tiên nhân lại nói:

- Vì muốn khiến cho những người trí tuệ, lòng sinh hoan hỷ nên nói lời nói này.

Ðức Thế Tôn hỏi rằng:

- Sao gọi tên là câu tinh tú?

Tiên nhân đáp rằng:

- Hai mươi tám vì sao, mặt trời, mặt trăng đã nương theo chuyển động mà đi và đều y theo tám chỉ (ngón tay) tay ngang của người đó lấy làm phép đo lường. Mười hai lần tám chỉ đó dùng làm đo lường thân. Dùng một lần tám chỉ để đo lường đảnh. Dùng một lần tám chỉ để đo lường bàn chân. Như vậy là mười bốn lần tám chỉ. Ngài nên biết rằng, đó là câu phép đo lường tinh tú. Nếu giải như thế này lại không phép khác thì đều tùy theo người ấy có chỗ ghi núm vào để làm định pháp. Nếu chẳng vậy thì xin Ðại Mâu Ni lắng nghe! Tôi nay sẽ nói về câu tinh tú. Người sinh nhằm sao Mão thì ở bên mặt phải xuống chừng bốn chỉ có núm đỏ, đen, trên núm có lông. Người ấy trí tuệ vang lừng, kết tụ tài lộc, thế lực tương ứng xí thạnh. Người sinh nhằm sao Mão có tướng như vậy. Người sinh nhằm sao Tất thì trên thân có vết chừng độ bốn chỉ. Người ấy sáng suốt trinh thật, lòng thường giữ pháp, trí tuệ, tàm quí (xấu hổ), kết tụ tài lộc đầy đủ. Ở mọi lúc, lòng thường dũng kiện, có thể đánh thắng oán địch. Người sinh nhằm sao Sâm thì dưới cổ trước, trong bốn chỉ có vết đen. Tính người ấy dũng kiên, kết tụ tài lộc đầy đủ. Người sinh nhằm sao Chủy, thì từ đỉnh trở xuống độ một gang rưởi tay bên trái có núm. Người ấy tính nhiều sân si mà có kết tụ tài lộc. Người sinh nhằm sao Phú-na Bà-Tô thì ở dưới hông trái có vết đen. Người ấy của cải, lúa gạo đầy đủ và ít trí tuệ. Người sinh nhằm sao Phú Sa (Sao Quỉ) thì có tướng tối thượng, tướng luân trong tay giống như vừng mặt trời, thượng diệu đoan chánh, tướng tóc xoắn về bên phải, tất cả nương trụ thân trên viên mãn, có thể phá phiền não, làm đại đạo sư. Người sinh nhằm sao A Thất Lệ Sa (sao Liễu) thì ngực có vết đen, ưa đấu tranh, phạm giới, khó cùng ở chung, tính nhiều dâm dục (bảy sao trên là sao ở phương Ðông). Người sinh nhằm sao Mạc Già (sao Tinh) thì hoặc ngực, hoặc lưng mà có bứu nhỏ. Người ấy là thiện trượng phu có thể theo đúng pháp hạnh mà nhiều của cải. Người sinh nhằm sao Sơ Phá Cầu (sao Trương) thì bên phải hoặc bên trái rốn ắt phải có vết. Người ấy nhiều keo kiệt, chết yểu (đoản mạng). Người sinh nhằm sao Ðệ Nhị Phá Cầu (sao Dực) dưới rốn bốn chỉ nếu thấy có núm thì kết tụ tài lộc, trì giới đều mất hoại. Người sinh nhằm sao A Tát Ða (sao Chẩn) thì hông dưới cửa rốn phải có núm đỏ. Người ấy tính ưa làm giặc, dua nịnh, ít trí thông minh, phước mỏng. Người sinh nhằm sao Chất Ða La (sao Giốc) thì trên âm căn trai hay gái sẽ có cái núm. Người ấy, tính thuần trực mà nhiều ái dục lại ưa ca múa. Người sinh nhằm sao Tát Bà Ðể (sao Cang) thì hoặc là đầu nam căn hoặc ở dưới căn có núm vàng sinh. Người ấy, thọ tính nhiều tham, sân, làm não đại chúng mà không trí tuệ. Người sinh nhằm sao Tô Xá Khư (sao Ðê) thì từ háng trở xuống độ tám chỉ, bên trong tùy chỗ mà có núm đỏ sinh. Người ấy quyến thuộc đầy đủ, có nhiều đồng bộc (tôi tớ), ở địa vị khánh tướng, thông minh, tàm quí, dũng kiện, mưu lược, quả quyết, có thể thoái lui được oán địch, thường thọ an vui, mạng chung sinh lên trời (bảy sao trên thuộc phương Nam). Người sinh nhằm sao A Nô La Ðà (sao Phòng) thì từ đầu gối trở lên tám chỉ, bên trong nếu có bướu nhỏ thì người đó trì giới có pháp, kết tụ tài lộc đầy đủ. Người sinh nhằm sao Thệ Sắt Tra (sao Tâm) thì bên trong bắp vế có núm. Người ấy chết yểu, ngèo cùng, phạm giới, ít lòng từ, bị người ganh ghét. Người sinh nhằm sao Mộ La (sao Vĩ) thì trên vế phải có vết nhỏ. Người này có phước đức mà chóng diệt môn (cửa). Người sinh nhằm sao Sơ A sa trà (sao Ky) thì đầu gối có núm. Người này tính ưa xả thí, có thể biết đạo pháp, mạng chung sinh lên trời. Người sinh nhằm sao đệ nhị A sa trà (sao Ðẩu) thì ở trên cẳng chân phải có núm xanh. Người này tính ưa đấu tranh với người, chẳng nương cậy mà chẳng tín thọ. Người sinh nhằm sao Thất la bà (sao Ngưu) thì ở trên cẳng chân phải nhất định phải có hai núm. Người này thường giàu có, kết tụ tài lộc, thọ thân không bệnh, được sự yêu thích của mọi người, mạng chung sinh lên trời. Người sinh nhằm sao Ðà Nhĩ Sắt Tra (sao Nữ) thì trên cẳng chân có núm. Người này nhiều sân, ít tham, tuy có trí tuệ mà không kết tụ tài lộc (bảy sao trên thuộc phương Tây). Người sinh nhằm sao Xá Ða Tỳ Sa (sao Nguy) thì từ gối trở xuống mười sáu chỉ, bên trong có núm đen. Người này, tính ngu si, bị chết chìm. Người sinh nhằm sao Ðệ nhất Bạt Ðà La Bạt Ðà (sao Thất) thì từ chỗ gối cong trở xuống tám chỉ, trên xương đùi bên trong phải có vết. Người này làm cho người sân não, ngu si, bần cùng, ưa làm đạo tặc (trộm cướp). Người sinh nhằm sao Ðệ Nhị Bạt Ðà La (sao Tích) thì ở bên trong hổ khẩu phải có núm con. Người này ưa bố thí, trì giới, sức nghĩ nhớ lâu, có trí tuệ, có từ bi, tính không sở úy. Người sinh nhằm sao Lệ Bà Ðể (sao Khuê) thì người đó hạ tiện, tự nuôi sống. Người sanh nhằm sao A Thấp Tỳ Ni thì vùng ngón chân cái có núm xanh, thân không bệnh não mà thường có sức mạnh lớn. Người sinh nhằm sao Bà La Ni (sao Vị) thì ở dưới bàn chân có núm con. Người này thọ tính không bi, ưa làm tay đồ tể, phá giới, hành động ác, chết vào địa ngục (đây là nhóm sao phương Bắc). Như trên đã nói, đây tức gọi là câu tinh tú. Nhờ đây mà được biết tính hạnh của con người, giàu nghèo, tốt xấu. Nếu biết điều này thì có thể khiến cho chúng sinh đến với bờ kia.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Tiên nhân rằng:- Ðây là sự thấy của kẻ phàm phu ngu si, nương lòng theo chấp trước, trụ ở hạnh phân biệt. Sự thấy hư vọng của phàm phu nóng nẩy bệnh hoạn như loài chó, rắn, cá, rùa kia. Nếu trong số đủ loại chúng sinh còn lại kia mà sinh nhằm sao Phú Sa này họ chẳng phải lạc phận (bằng lòng với thân phận). Như thần thông của ông được định giải thoát, ta lại có thể vì tất cả chỉ vẽ điều ấy. Ông nay vì sao chẳng hỏi ta?

Tiên nhân Quang Vị phát sinh đại hoan hỷ liền dùng kệ mà khen ngợi, thỉnh rằng:

Tiên nhân hình tướng người

Con thấy tướng tối thượng

Chẳng biết dòng họ ngài

Là trời, là người vậy?

AÂm thanh phép nói ngài

Giống như trời ÐạiPham

Sắc tướng, trì hạnh trì

Tương tợ tiên xa lắm.

Xưa đã chẳng thấy nghe

Tướng Mâu Ni đầy đủ

Thấy ngài đã nói gì?

Và nói tính ngài vậy.

 

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền dùng kệ đáp Tiên nhân rằng:

 

Chẳng biết bờ đây đó

Nên có tưởng lập nên

Bị buộc tất cả khổ

Pháp khí chẳng phải ông

(Ông chẳng phải là đồ chứa pháp giải thoát)

Tánh ta là lục độ

Lục thông (của) Bà la môn

Nói sáu hòa kính đó

Phân biệt tu sáu căn

Ba pháp, ba giải thoát

Biết vô ngã ngang bằng (bình đẳng)

Khi tâm Bồ đề phát

Lúc đó ta xuất gia

Tướng ta chẳng thể được

Với vô tướng khéo tu

Không người, không thọ mạng

Biết vô ngã cũng rỗng

Ba thọ, ba pháp hành 

Phân biệt tu rỗng không

Ta qua bờ trí đó.

Ðây nói không ai bằng (vô đẳng)

Không sở trước như không

Tâm Bồ đề tạo tác

Kia đầy đủ nhẫn lực

Sẽ được trí như trên.

Chẳng chấp trước các pháp

Người được báo (quả) cũng không

Giải thuận Như như vậy

Bồ đề (được) chẳng khó khăn.

Chẳng đứng ở các pháp

Và đây, đó chẳng nương

Phân biệt tu chân tế

Ðây sẽ được Thế Tôn (Như Lai)

Không tướng, không tướng tưởng

Có sở đắc xa luôn

Các pháp phi hòa hợp

Ðây sẽ được Thế Tôn (Như Lai)

Ông bỏ những tướng ấy

Hoặc lòng mình bỏ luôn

Ông giác bằng hư không

Như vậy sẽ được Phật.

Bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói bài kệ này thì trong lúc không gián đoạn, tiên nhân Quang Vị cùng các quyến thuộc liền thấy hình tướng uy nghi của đức Thế Tôn trở lại như đức Phật trụ, lại được sự nghĩ nhớ. Họ tự nghĩ ra thuở xa xưa nhờ gieo trồng thiện căn mà được hiện tiền. Tiên nhân Quang Vị liền được Bồ tát tam muội tên là Bảo Tinh. Sự sở đắc tam muội đối với Bồ tát tam muội, tất cả quan sát thấy như ở tại cao tràng, quan sát thấy tất cả tam muội, sở đắc tất cả cảnh giới tự tại không có sự ràng buộc, lệ thuộc, chẳng nương theo sự thấy của người khác, không người có thể hủy hoại, không người có thể đoạt lấy. Tiên nhân Quang Vị liền ở trước đức Phật chắp tay mà đứng, hai tay dâng hoa, dùng kệ khen rằng:

Vô biên khen nói thật

Thế gian khéo cậy nương

Như Lai mắt tuệ sáng

Soi tất cả chúng sinh.

Vượt lên trên sinh chúng

Tinh tấn từ bi luôn

Cúi lạy đấng kiên cố

Ðạo sư, trước (chấp) tận cùng.

Ánh sáng màu vàng tía 

Chạm chúng sinh thanh lương (mát mẻ)

Giác tất cả sinh chúng

Là nhờ Bồ đề công (đức).

Phật chuyển bánh xe pháp

Hay phá núi não phiền

Làm xong việc tối hậu

Trí Bồ đề mau thành.

Thầy thuốc trong sinh chúng

Tướng chân thật trang nghiêm

Nói ta sẽ đắc Phật

Ðạo sư trong chúng sinh.

Cắt hoại những lưới ái

Ðộ mình, độ chúng sinh

Từ lâu được Phật ký (Phật thọ ký)

Sẽ làm “Thương Trung Nhân”

Chúng sinh khổ trôi nổi

Biển Hữu khiến đưa sang

Chỗ Niết bàn yên ổn

Ðạo Vô Lậu đặt lên.

Sở hữu mười phương Phật

(Công) Ðức như biển mênh mông

Ðó vì con làm chứng

Hồi hướng Bồ đề tâm

Tất cả các sinh chúng

Ác não, khổ cực cùng

Ba đờiphước đức

Do thân, miệng, ý con

Và tất cả sinh chúng

Khổ diệt, Phật lạc thành

Chúng sinh khắp đầy đủ

Ðược thường trụ Niết bàn.

Bịnh chúng sinh tịch diệt

Nước phiền não khô khan

Các căn được trí tuệ

Tự tính thường vững bền.

Chúng sinh đến xứ chết

(sát xứ: chỗ làm cho chết)

Và chịu khổ buộc ràng

Ðức sáng của con sẽ

Khắp khiến giải thoát liền.

Mỗi một chúng sinh giới(cõi chúng sinh)

Ðược công đức vô cùng (như biển)

Ðược phước trí vô lượng

Tất cả vui đầy tràn (đầy đủ)

Bỏ những ác kiến đó

Chánh kiến mau thân gần

Nghĩ nhớ chỗ sinh trước

Chúng sinh được pháp hành.

Tất cả được thuyền pháp

Biển hữu, bờ kia sang

Ðã qua đến bờ đó

Ðược mọi pháp Thế Tôn.

Trụ lâu vô lượng kiếp

Mưa pháp vũ khắp cùng

Nước thanh tịnh mây pháp

Rửa sạch các chúng sinh

Nếu mọi việc làm ác

Của thân, miệng, ý con

Con phát lồ tất cả

Xin đức Phật chứng minh.

Con sinh lòng kính trọng

Nghiệp ác lại không làm

Chẳng thể nghĩ bàn Phật

Thường được thấy hiện tiền

Nếu có một phước đức

Hồi hướng Bồ đề liền.

Con nhân các sinh chúng

Nhẫn chịu mọi khổ nàn

Con khuyên các sinh chúng

Bồ đề thượng đạo hành (tu hành)

Các cõi, kiếp thanh tịnh

Và biển trí chúng sinh

Con được cõi thanh tịnh

Theo đó Bồ đề thành (chứng)

Ðược đồ chúng thanh tịnh

Trụ Ðịa, nhẫn sạch trong

Quyết định năm thần đạo (ngũ thần đạo)

Con được sư tử khen

Hiện bày trí vô trước

Ðạo sư thọ ký con!

Nếu khi định đắc Phật 

Mọi pháp điều ngự xong

Hoa con tung lên cúng 

Thành hoa cái trong không.

Những chúng trời, người, rồng... 

Tất cả đến làm chứng

Con đảnh lễ Thế Tôn 

Khiến đất đai chấn động.

Lúc bấy giờ, hoa của Tiên nhân Quang Vị tung lên đều trụ ở không trung, gần trên đảnh đức Phật, hợp làm một lọng hoa. Tiên nhân Quang Vị thấy việc này rồi thì vừa ý bội phần, không hy vọng gì khác nữa. Ông phát sinh ái lạc đệ nhất, hoan hỷ vô cùng, liền cúi đầu, hai gối quì xuống đất, làm lễ dưới chân đức Thế Tôn. Khi đại tiên Quang Vị lễ dưới chân đức Phật thì ngay tức thời, không gián đoạn, tất cả ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn độngsở hữu vô lượng Atăngkỳ chúng sinh, trăm ngàn câu chỉ nadotha.v.v... của những thế giới đó đều đến tập hội, đều bi hỷ phát sinh cả kinh, kêu lên lạ chưa từng có.

Lúc đó, đức Như Lai tùy theo sự ưng thấy của các chúng sinh đó mà thị hiện đủ thứ thân. Kẻ ưng dùng hình voi mà giáo hóa thì liền thấy đức Như Lai như hình voi đó mà sinh lòng yêu thích. Họ lại thấy hoa của vị đại tiên nhân đã tung lên, trụ trên hư không biến thành lọng hoa và đất đai chấn động. Ðã thấy điều này rồi thì họ bội phần phát sinh lòng hy hữu, đi đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân đức Phật. Có chúng sinh ưng dùng thân Phật mà giáo hóa thì họ thấy đức Như Lai như thân tướng của Phật mà phát sinh lòng hy hữu. Lúc đó, đức Thế Tôn liền ra khỏi định, ngài từ tam muội Thủ Lăng Nghiêm an tường mà khởi lên. Vô lượng chúng sinh đã được giáo hóa đều thấy đức Thế Tôn thì không hy vọng gì khác nữa, đều rất vui sướng phát sinh lòng yêu thích, đều như sở đắc. Họ mang vòng hoa cài tóc (hoa man), y phục, hương bột, hương xoa, các đồ trang nghiêm... tung lên cúng dường.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền vì tiên nhân Quang Vị nói kệ thọ ký rằng:

Mau dậy nghe thọ ký

Ðạo sư nay vì nói

Ðại tiên được Bồ đề

Ðất động, hoa một lọng

Trong hư không trụ lại

Gia hộ không ai bằng

Ông được Lưỡng Túc Tôn

Lợi thế gian tự tại

Phật có phước vô biên

Biên lượng ngang hư không

Kiên cố trong ba cõi

Ðèn pháp soi thế gian.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Vị liền ở trước đức Phật cung kính mà bạch rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Con được cõi Phật giống tướng cõi nào? Con ở cõi đó chuyển bánh xe đại pháp?

Lúc đó, đức Thế Tôn bảo ngài Quang Vị rằng:

- Ðời vị lai, qua vô lượng atăngkỳ kiếp, ở địa phận phương Bắc có thế giới tên là Khai Phu Hương, có đầy đủ các tướng trang nghiêm như thế giới An Lạc ở phương Tây. Này thiện trượng phu! Ông sẽ ở cõi Phật đó được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hiệu là Vô Cấu Hương Quang Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ðức Phật đó thọ mạng chừng mười trung kiếp, chỉ gồm có các Ðại Bồ tát, không có Thanh văn Bích Chi Phật thừa, thuần nói về Ðại thừa thanh tịnh vô thượng.

Ðại chúng nghe đức Thế Tôn thọ ký cho tiên nhân Quang Vị xong thì đều đem đồ cúng dường mang theo cúng dường cho tiên nhân. Năm trăm ma na bà.v.v... và chín mươi hai nadotha trăm ngàn câu chỉ chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác và được tam ma đề Bồ tát Chẳng Quên Tâm Bồ đề.

KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI

- Quyển thứ tư - hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15186)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13044)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11051)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10587)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant