Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ Năm

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9367)
Quyển Thứ Năm


KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0402

Nguyên tác: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

- Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Ba La Pha Mật Ða La - Ðời Ðường

 - Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

---o0o---


Quyển thứ năm.


PHẨM THỨ NĂM: TƯỚNG 

Lúc bấy giờ, hàng trăm ức những ma của ba ngàn đại thiên thế giới phát sinh ý niệm như vầy: “Nay đức Phật Thế Tôn vào cửa thành Vương Xá, chúng ta nên dùng sự trang nghiêm tối thượng để nghiêm sức bên trong cửa thành này và địa phương đó như sự trang nghiêm của trời, rồng, dạ xoa... ở bên ngoài thành đó”.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn dùng trí tha tâm, biết được ý niệm trong lòng của trăm ức ma. Ngài muốn dùng sức thần thông sắc tướng tối thượng để trang nghiêm chỗ đức Phật. Lúc đó, đức Thế Tôn dùng sức thần thông, ở bên trong mười hai hai cửa của thành Vương Xá, trong mỗi một cửa đều có đức Như Lai và các đại chúng, cùng đi vào cửa thành. Trăm ức ma dùng thần thông đem Atăngkỳ những đồ trang nghiêm tối thắng trong đủ thứ thắng trang nghiêm để mà nghiêm sức cửa thành và địa phương. Tường thành, những cây cối, trên đất, trong hư không các ma cũng dùng đồ trang nghiêm thắng diệu mà trang nghiêm. Có hàng trăm ức ma cùng các quyến thuộc, hoặc có ma, hóa làm hình thể Phạm thiên... cho đến hóa làm hình dáng Ðại tiên, trụ ở trong cửa sổ, cửa của trùng các, công sự chống địch, rừng cây, đất trong các chỗ và trong hư không... Họ dùng đủ thứ hoa, hương bột, hương đốt, hạt vàng, hạt bạc... dùng Ma ni chơn châu và đủ thứ y phục trang nghiêm cùng những tơ dệt ngũ sắc, đồ trang nghiêm.v.v.. mưa xuống khắp nơi để cúng dường. Họ lại dùng đủ thứ âm nhạc trời, đánh trống, vỗ tay, đủ thứ khen ngợi, ca vịnh công đức không lường của đức Như Lai. Hết thảy đều tụ tập lại cúng dường đức Thế Tôn với những hình tướng rất hy hữu, trang nghiêm tối thắng đệ nhất, chưa từng có, chưa từng nghe như vậy.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đứng ở dưới cửa thành, dùng ngón bàn chân phải chạm vào ngưỡng cửa thì ngay tức thời liên tục tất cả ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động khắp và Ðế thích, Phạm vương, mặt trời, mặt trăng, chúa trời Hộ Thế, chúa trời Ðại Tự Tại, chúa của trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Già lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già.v.v... địa thiên, thủy thiên, trời biển cả, trời các núi, trời của thành ấp.v.v... và các nam nữ, đồng nam, đồng nữ chúng thiên tiên.v.v... cho đến cung trời A Ca Ni Sấc trong ba ngàn đại thiên thế giới, cũng đã đến. Chúng sinh sở hữu được vị thêm nhuận, sắc mạo mơn mởn. Tất cả chúng đó thấy đất đai động, ánh sáng chiếu đều giác ngộ. Ở đại thành Vương Xá và trên hư không, họ vây quanh mà đứng... cho đến họ dùng hương hoa, bột thơm hắc chiên đàn tung lên cúng dường đức Phật. Lúc đó, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức thần thông khiến cho hoa tung lên đó cho đến hương bột phổ biến khắp những cõi nhiều như vi trần trong mười phương. Mỗi một phương sở hữu các cõi Phật thanh tịnh và chẳng thanh tịnh, không và chẳng không.v.v... đều cúng dường cung cấp hoa hương cho các đức Phật ở đó. Những hoa tung lên này cùng các hương bột, đồ trang nghiêm.v.v... ở từng cõi Phật đó đều phát ra tiếng của câu kệ như vầy:

Các ngươi mau giác ngộ

Quán hạnh chẳng buông lung

Nhân Bồ đề tối thượng

Lưu chuyển lậm tử sinh

Ngươi nay ta cứu vớt

Mau bỏ việc thế gian.

Nhớ thuở xưa thệ nguyện

Thành thục đến tương ưng

Ðều được Bồ đề

Mâu Ni thiên đế vương

thế gian lợi ích

Nay vào Vương Xá thành.

Ðại tiên Vô Ưu Thắng

Trăm ức ma đã hàng (phục)

Chuyển pháp luân thanh tịnh

Nên phải rất vui mừng.

Thế gian lợi như vậy

Bày khắp việc dũng cường

Giải thoát thế gian khổ

Nay vì “ma lợi sa” (?)

Sẽ được đạo Bồ đề

Nay trao các ngươi ký

Mau đến đất nước kia

Thấy trang nghiêm diệu hảo

Như vậy được tự nhiên

Vào thành Vô ưu đó

Hành Bồ đề dần dần

Quyết định sẽ đắc Phật.

Bấy giờ, từng đại chúng của tất cả các cõi Phật nhiều như vi trần trong mười phương, nhờ Phật lực nên đều thấy đại chúng Bồ tát Mahatát nơi rừng trúc của Phật này, mỗi mỗi đều tư lương tam muội. Lúc đó các vị Ðại Bồ tát có trong rừng trúc tư duy an trụ cùng với các Thanh văn, Ðại Thanh văn đều thấy đức Thế Tôn ở cửa thành Vương Xá điều phục đứng đợi. Những đại chúng đó theo đức Thế Tôn đứng sau. Họ nghe thấy trong đồ đại trang nghiêm phát ra các kệ rồi thì đều đầy khắp tất cả cõi Phật không chẳng không, tịnh chẳng tịnh nhiều như vi trần trong mười phương. Những vị Ðại Bồ tátThanh văn có trong những cõi Phật đó nghe tiếng kệ này rồi thì khởi lên ý niệm như vầy: “Chỗ nào có tiếng pháp này mà đầy khắp tiếng vừa ý như vậy, mỹ diệu như vậy, đáng yêu như vậy, đáng vui như vậy, đáng mừng như vậy, khuyến phát như vậy, tiếng xưng dương công đức lớn như vậy”. Và họ thấy hoa, hương bột mưa xuống, mưa xuống khắp mười phương vô lượng đồ trang nghiêm, mưa xuống vô lượng bột mịn hoa hương. Các vị Ðại Bồ tát và Ðại Thanh văn đó bỏ hết nghiệp đã làm, đều rất kinh ngạc, ngợi khen.

Bấy giờ, đức Thích Ca Như Lai liền vào tam muội tên là Y Phật Trang Nghiêm Nghiêm Sức tam muội. Ðức Phật vào tam muội rồi thì ngay tức thời, không gián đoạn, tất cả đại chúng đã có trong thế giới Ta Bà và tất cả cõi Phật nhiều như vi trầnmười phương đều thấy tướng đại trang nghiêm như vậy trong cõi Phật này. Như trong đời vị lai kia đều thấy đức Như Lai thanh tịnh vô nhiễm gom công đức của thế giớitrang nghiêm. Chỉ có một việc là vách thành.v.v.. mà tự nhiên trang nghiêm. Tất cả các đức Phật Thế Tôn của thế giới nhiều bằng vi trần của các cõi Phật trong mười phương, đều thấy đức Thích Ca Như Lai trụ ở thành Vương Xá, quang minh, hiển hách rất là đoan nghiêm. Ðại Bồ tát Mahatát và Ðại Thanh văn có trong các cõi Phật đó, nghe bài kệ này rồi, từng người đều nhớ nghĩ, quan sát bốn phương, thấy thế giới này như đối diện trước mắt, nhờ lực cảnh giới của tất cả chư Phật và thấy đủ thứ trang nghiêm của chư thiên. Các vị Ðại Bồ tát và Ðại Thanh văn đó khởi lên ý nghĩ như vầy: “Chúng ta quyết định đi đến cõi đó, chỗ trang nghiêm trong đại tập hội và quan sát khắp cõi Phật công đức trang nghiêm đó. Thấy đức Thích Ca Như Lai rồi, tu hành, cúng dường, chúng ta ở chỗ đức Phật đó, được thọ ký Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Các vị Ðại Bồ tát và Ðại Thanh văn của những thế giới nhiều bằng vi trần của tất cả cõi Phật trong mười phương đó nhờ thần lực của đức Thích Ca gia hộ nên đều ở cõi Phật của mình, chừng trong khoảnh khắc một sát na, họ biến mất ở đây, hiện đến thế giới Ta Bà. Mỗi một phương của mười phươngvô lượng vô số cõi Phật với số Ðại Bồ tát nhiều như vi trần, tất cả đều đi đến cõi Phật này, đứng đầy khắp trên đất và trong hư không. Các vị Ðại Bồ tát đó đều nương ngần ấy lực của đủ thứ thiện căn của Bồ tát để chuẩn bị cúng dường đức Thích Ca Như Lai. Ðể thiết trí việc này, hoặc có Bồ tát, ở cõi Phật này, mưa xuống đủ thứ hoa, đầy khắp tất cả, để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có Bồ tát mưa xuống đủ thứ chơn châu... cho đếnBồ tát mưa xuống vàng, bạc, tỳ lưu li, pha lê, thạch tạng bảo mộ tát la, ngưu đầu chiên đàn, long kiên chiên đàn, đa ma la diệp... đều dùng bằng bột mà mưa xuống đầy hư không làm đồ cúng dường để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có Bồ tát mưa xuống đủ thứ những đồ trang nghiêm để nghiêm sức, y phục, lụa dệt ngũ sắc... làm đồ cúng dường để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có Bồ tát dựng lên những tràng phan, lọng hoa, làm đồ cúng để cúng dường đức Thế Tôn.Hoặc có Bồ tát đốt đủ loại hương thơm, hoặc tung lên đủ thứ vòng hoa cài tóc, hoặc tấu lên đủ thứ kỹ nhạc. Hoặc có Bồ tát thị hiện đủ thứ ca múa, hoặc có Bồ tát dùng đủ loại nước thơm mưa xuống đất phương này mà tưới cho thấm nhuần. Hoặc có Bồ tát dùng đủ thứ bảo khí đựng đủ loại báu ở trước đức Thế Tôn dâng lên cúng dường. Hoặc có Bồ tát dùng đủ thứ bảo khí đựng đầy nước thơm trang nghiêm bằng hoa, trái và lá cây rồi ở trước đức Thế Tôn dâng lên cúng dường. Hoặc có Bồ tát dùng đủ thứ cây báu, đủ thứ thiên y trang nghiêm bằng hoa quả, cất tay dâng lên ở trước đức Thế Tôn, làm đồ cúng dường. Hoặc có Bồ tát hóa làm thân trời Ðại Phạm chắp tay ở trước đức Phật... cho đến nói rộng ra như trước đã làm. Hoặc có Bồ tát hóa làm hình tướng sư tử ở trước đức Thế Tôn lễ bái như vậy. Những chúng sinh đó nhờ thần lực đức Phật và sức thiện căn của mình gia hộ hỗ tương quan sát nhìn thấy mà ở nhãn căn của mình chẳng thủ lấy các sắc. Do đức Thế Tôn hiện ra tướng như vậy và sự tạo tác đại cảnh giới của ma vương, sự tạo tác ngần ấy cảnh giới của trời. Và do đức Như Lai tự niệm xứ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác đạo, mười tám pháp bất cộng của chư Phật mà biến hiện ra ngần ấy cảnh giới. Tất cả theo sau đức Thế Tôn vào đại thành Vương Xá, hướng về chỗ của hoa sen ở giữa đường lớn đó. Ðức Thế Tôn đến rồi, dùng bàn tay phải xoa cánh hoa sen mà kéo lại trụ. Hoa sen đó nhân bị kéo động nên ở cõi Phật này nơi chỗ ngồi của tất cả ma cung đều chấn động. Chỗ cư trú của nam nữ quyến thuộc của ma và của các đồ chúng đều phát sinh sợ hãi kinh ngạc mà trụ. Chúng tự nói với nhau rằng:

- Không nhân, không duyên mà cung thất này của ta chấn động như vậy? Không lẽ cảnh giới ma vương chúng ta tự mất địa vị sao? Không lẽ pháp tiêu diệt cung thất, chỗ ở của chúng ta ở sự khởi động này sao? Hôm nay chúng ta quyết phải quan sát!

Các ma đó thấy việc như vậy rồi thì khởi lên ý niệm như vầy: “Ðất nước Phật này xưa là ngũ trược, hôm nay ai có thể lại khiến cho trang nghiêm vi diệu rất đáng yêu thích như vậy?” Các ma đó ở chỗ cư trú của cảnh giới mình, cùng với quyến thuộc đều biến mất, chỉ thấy đức Thích Ca Như Lai với ba mươi hai tướng, tướng của bậc đại nhân, đầy đủ trang nghiêm, quang minh rực rỡ, hiển chiếu rất lớn. Ở tất cả ba ngàn đại thiên thế giới và tất cả cõi Phật này có đủ thứ hình tướng, sắc mạo chúng sinh hiện trú khắp cùng mà không một chúng sinh có thể nhận thức. Tất cả vô lượng chúng sinh đó, ở trước đức Thế Tôn, đều thấy chuẩn bị làm việc cúng dường. Các ma đó khởi lên ý niệm như vầy: “Chúng ta quyết định đi đến chỗ đức Thích Ca Như Lai. Thấy ngài rồi, lễ bái đồng thời thỉnh vấn ngài, Ma vương chúng ta cùng các quyến thuộc, ngày hôm nay đều đi về đâu vậy?” Bấy giờ, hàng trăm câu chỉ ma thế giới Phật này cùng các quyến thuộc đi đến chỗ đức Thế Tôn. Ðến rồi chúng cung kính trụ ở trước đức Phật. Ma vương hướng về đức Phật cúi mình, chắp tay cung kính nói kệ như vầy:

Con đem lòng thanh tịnh

Qui y đức Thế Tôn

Mau thả con đi khỏi

Pháp hạnh từ nay làm.

Bấy giờ, đức Thế Tôn

dùng kệ đáp lại rằng: 

Một người ta chẳng ngăn

Lai giả và khứ giả

Nếu đạo người biết thông

Ra đi theo ngươi muốn.

Bấy giờ, Ma vương lại nói kệ rằng:

Như muốn đi của con

Niềm vui tự cung thất

Nay thấy năm thứ buộc

Trói buộc của Cù Ðầm.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:

Ta đoạn các phân biệt

Tự giải thoát thế gian

Ta đã mở trói buộc

Khiến người lìa não phiền.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền dùng Phật nhãn xem thấy chúng sinh đầy khắp đất và hư không của tất cả cõi Phật này, mà nói kệ rằng:

Các ngươi nay nghe kỹ

Tất cả người có mặt

Xả bỏ các nghi hoặc

Vừa đều trụ mặc nhiên.

Thế gian Phật khó gặp

Cũng khó gặp Pháp, Tăng

Khó đầy đủ tịnh tín

Hành Bồ đề khó khăn.

Thân cận ở trước Phật

Nghe pháp rất khó khăn

Hay tu hành các nhẫn

Nhất thời cũng khó khăn.

Ðiều phục tâm là khó

Và tu ở hạnh “không”

Hay đoạn các phân biệt

Tất cả ác thế gian.

Hạnh Bồ đề khó được

Như hạnh ta trước tiên

Ta sẽ vì ngươi nói

Chỉ có một hoa phần (một phần tinh hoa).

“Ấm” tối khiến diệt hoại

Thị hiện đạo không trên (Vô thượng)

Bồ đề, người sở đắc

Ba cấu, nay đoạn liền.

Nghe đại sư khéo nói

Qua bờ kia các dòng

Bỏ các đại khát ái

Ba giải thoát lập nên

An lập ở ba hộ...

Ba cõi, các não phiền

Diệt tan không còn nữa.Tam Bảo, ngươi cúng dường

Lại vì pháp nên đến

Ma, trời và Thế Tôn

Ba đời đều gia hộ,

Ba đời hoặc che lòng

Ðều được Tối Thắng đoạn (dứt)

Giải thoát ba cõi thành.

Nhẫn diệt tan phiền não

Và bốn thứ đảo điên

Các phàm phu điên đảo

Thể tính phân biệt không.

Ðó chẳng phải nhẫn khí(đồ chứa nhẫn)

Mắt... đắm trước sắc hình

Thân, miệng, ý che lấp

Ðó không có bốn Thiền (định).

Thân cận với sinh tử

Người trí tuệ thông minh

Hay tu hành thiền định

Giải thoát nay chứng thành.

Lìa khỏi bốn điên đão

giải thoát chúng sinh

Cứu bốn dòng tự tại

Các khởi, diệt biết thông.

Kẻ nhu hòa đã có

Bờ kia sẽ được sang

Bồ tát đủ bốn hạnh (?)

Vô sở úy kèm thêm

Chánh trí đều hay đoạn

Các hữu trói chúng sinh (trói buộc của hữu)

Hay hiểu biết năm ấm

Không lậu, lìa buộc ràng

Chẳng lại thỉnh thoảng sinh

Ðến bờ kia biển Hữu.

Các ngươi trước Thế Tôn

Mau phát lộ các ác

Các ác đoạn không còn

Ðến bờ vô úy đó.

Sở hữu sinh tử khổ

Người theo thọ hữu vi

Thường thường sinh các hữu

Ðuổi theo với ác hữu (bạn ác).

Bạn ác phải xa lìa

Ðoạn trừ các ác kiến

Nhớ nghĩ khổ tử sinh

Tu tập Ðệ nhất nghĩa.

Nên uống nước vô thượng

Nên tu tập pháp không

Thể đệ nhất nghĩa không

Không thật cũng không tướng

Sáu căn giống như không

Trong này không tác giả.

Phân biệt tướng như trên

Chỉ phân biệt không pháp

Sáu thọ, sáu ái cùng

Sáu xúc là gốc ấy.

Sáu xúc vào như vậy

Cùng cần hiểu biết không

Quan sát không tất cả

Như pháp tự tánh thể.

Không khởi, không diệt tan

Trong này thấy không thật

Các pháp, pháp tánh đồng

Ba đời không một vật.

Nếu biết nhiệt não không

Ðạo này tối vô thượng

Lìa mười ba ngã tướng

Chúng sinh tưởng phân biệt

Tu Sàn đề như vậy

Ðó được giải thoát liền.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, do phước lực vô ngại mà không sở úy, nương theo sự gieo trồng thiện căn nên có thể biến hiện, phát ra âm thanh đại viên mãn vang khắp mười phương, nói kệ như trên.

Bấy giờ, mười phương vô lượng a súc tỳ hằng hà sa thí dụ những thế giới ngũ trược không chẳng không (rỗng) đều nghe diễn nói viên âm này. Nghe âm thanh này rồi, trong khoảnh khắc sát na, vô lượng vô số trăm ngàn câu chỉ na do tha chúng sinh sở hữu của mỗi một vô lượng cõi Phật đều không sở dục, chỉ có lòng yêu thích thanh tịnh. Vào thuở xưa, họ đã được bất thoái chuyển Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hoặc đã được đủ thứ Tam ma đề, Sàn đề Ðà la ni. Vô lượng vô số chúng sinh đã tập họp ở chỗ đức Phật này nghe được câu nghĩa văn tự này rồi liền được Bất thoái chuyển. Lại có vô lượng vô số chúng sinh đối với pháp ba thừa đều theo được độ.

Lúc bấy giờ, đại Bồ tát Quang Vị dùng thần lực của mình hóa làm thềm bảy báu, dùng hoa trải khắp lên thềm ấy làm tòa hoa sen. Muốn cho đức Như Lai thăng lên tòa này nên Bồ tát hướng về đức Phật cung kính cúi mình chắp tay, nói kệ như vầy:

Phật, trăng Nhất thiết trí

Quán bịnh tử thế gian

Ưu hoạn bị chìm đắm

Ðộng chẳng động thế gian.

Vì họ làm cầu pháp (pháp kiều)

Phật thấy cõi đầy tràn

Chúng sinh nhiều vô lượng

Chắp tay đợi Thế Tôn.

Phân bố thí pháp hội

Thị hiện sở đắc mình

Phá chúng sinh phiền não

Trí phương tiện tuyệt vời

Ở đây thị hiện khắp

Phật lên tòa hoa sen

Mưa khắp mưa đại pháp

Tất cả Phật mười phương,

Và Ðại Tiên trí khác

Cùng Phật làm chứng minh

Ðấng Mâu Ni Thiên Ðế

Hàng phục đại ma vương

Tự tính không, không có

Biết pháp như hư không

Nhớ nghĩ xưa thệ nguyện

Chuyển vô thượng pháp luân.

Nay phải cứu sinh chúng

Ðang trụ ở bốn dòng 

Vua sư tử trong người (loài)

Pháp này, Phật biết thông.

Khiến qua biển ba hữu

Phật nói pháp thâm diệu

Trừ tội cấu sinh chúng

Ðại trí tuệ Thế Tôn.

Lợi ích các sinh chúng

Ðạo Thiện Thệ đặt yên.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thăng lên đài hoa sen của tòa ngồi Bát Ðầu Ma trên thềm báu như đã hóa ra ấy. Ðức Như Lai ngồi rồi, quan sát khắp tất cả đại chúng mười phương, bảo ma vương rằng:

- Ông nay ở đây nên sinh vui mừng. Do nhân duyên ông nay được pháp môn Ðại Tập chỗ này! Khi nói pháp này, vô lượng vô số chúng sinh sở hữu đời nay và đời sau đều được giải thoát. Bốn dòng, ở thai, ương ngạnh, già chết khắp đều được độ, trụ ở đạo cát Tường. Lại nữa, pháp này khiến cho họ được trí ngang bằng hư không. Này Ma vương! Nay ông đứng đầu ở xứ này, khiến cho các chúng sinh tăng trưởng căn lành. Này Ma vương! Ông có thể thỉnh ta nói pháp, khiến cho chúng sinh cao mạn trong chúng hội này qua được các dòng mà ta sẽ vì họ nói pháp.

Lúc đó Ma vương nói kệ như vầy:

Cù Ðàm nếu không lỗi

Và không mạn không sân

Sao làm ta kinh động?

Nay nói Ðại pháp chân.

Như ông có mạn sân

Thì sao được giải thoát?

Ta nay chưa xét biết

Mâu Ni nói vì ta!

 

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ tụng đáp ma vương rằng:

 

Ta ở thai mười tháng

Việc đó đồng thế nhân

Ta mà ngươi muốn hại

Ta đều không ghét hờn.

Ta nhẫn độ các ác

Ác bẩn đều không còn

Ta đã sinh cõi thế

Ông lại lay đất rung.

Hại ta, mưa đá xuống

Lại muốn sữa ta tan

Khiến sữa mau khô kiệt

Việc chẳng yên không lường.

Giống gì mà chẳng tạo

Khi ta trụ ở Thiền

Sai ma nữ não hại.

Khi ta đi xin ăn

Ngăn người chẳng cho thí

Thỉnh ta làm quốc vương

Cho ta bị sinh tử.

Khi xuất gia vượt thành

Lại khiến đêm hắc ám(đen tối)

Binh chúng vây quanh thành

Ðều do ông tạo tác

Ta cưỡi thần thông sang

Ông lại tuông mưa gió

Khiến đất thành hầm hố

Cát đá chất đầy đường

Ta trụ rừng tịch tịnh

Ngươi tạo úy ác thanh

Ta ở chỗ khổ hạnh

Ngươi thổi gió rét run.

Tại sông muốn qua khỏi

Dòng nước dữ, ngươi tuông

Hiện làm mãnh sư tử

Ngươi muốn giết ta liền.

Khi ta muốn ăn uống

Ngươi bỏ độc thức ăn.

Ta đến Bồ đề thọ

Tuông mưa đá Kim cương

Mưa dao tên, binh khí.

Cà say phục

Ngươi đều muốn làm bẩn.

Ta ngồi tòa Kim Cương

Lợi ích các sinh chúng

Lúc đó ngươi cũng đem

Con gái đến não hại.

Ngươi cùng chúng tướng quân

Khi hại ta chẳng nhớ

Ý ta không vi trần (mảy may)

Ðối với ngươi tác loạn

Ðạo Vô thượng ta thành

Ngươi từng bị hàng phục

Ngươi nay không thẹn thùng

Lại nói lời ác đó.

Phương tiện ác lại dùng

Ðể não hại Ca Diếp

Chúng sinh thiện không lường

Ngươi đều đã diệt hoại.

Ngươi đã không buồn thương

Nay lại muốn hại ta.

Ta vào thành xin ăn

Lại thả voi say dữ.

Ðá lớn, Ðiều Ðạt lăn

Ba tháng ăn đại mạch (lúa đại mạch)

Tôn đà la ác thanh

Hầm lửa, đồ ăn độc

Là đều do ngươi làm

Nhất định nghiệp ác nặng.

Xưa ông hướng đạo tràng(đạo thọ)

Uy lực cùng quân chúng

Dùng vô lượng dao, tên

Muốn hại ta mang đến.

Chẳng động ta sợi lông

Vì sao còn ở đấy?

Như bị say độc hại

Câu chỉ ma dấy lên

Na do tha sinh chúng

Cõi Phật này đầy tràn

Chứng biết ta như vậy.

Ta trụ Từ bi tâm

Xót thương đến tất cả

Mà ngươi với ta luôn

Tạo chướng ngại cực ác.

Các đấng tôn Tịch Mặc (Mâu Ni)

Nhân Ðà La Ngưu vương

Vì ta hiện chứng biết.

Ta nay ở thời ác

Làm công việc Thế Tôn.

Ta đã vì sinh chúng

Trụ ở giải thoát tâm.

Giả sử ngươi gia (thêm) ác

Nhẫn nhục ta chẳng buông

Ta không ý tật đố (ganh ghét)

Uế ác, các lỗi lầm.

Ta theo ngươi nhiếp độ

Cần lao như vậy luôn.

Ta muốn ngươi tịch diệt

Nên thỉnh ta tuyên dương

Pháp cam lộ đệ nhất

Khiến ba cõi tịch nhiên (diệt).

Vì ngươi trừ nghiệp ác

Ý ngươi mau sạch trong(thanh tịnh)

Ở ta sinh nương cậy

Lòng ta luôn sạch trong

Muốn khiến ngươi giải thoát

Ông thường mang ác tâm

Nên phải bỏ ác kiến

Ý tạo tin sạch trong.

Ông nay phải hiểu biết

Ðược thọ ký rất gần (chẳng lâu).

Lúc bấy giờ, Ma vương ở chỗ đức Phật lại càng thêm sân hận. Từ việc muốn đi mà tự biết năm trói buộc này, ma liền muốn phát ra tiếng đáng sợ nhưng lại chẳng thể phát ra được. Do sức sân của mình phát ra khí nhiệt độc. Khí ấy của ma mạnh nhiều muốn hại đức Như Lai. Khi đó, đức Thế Tôn dùng lực từ thiện biến ác khí này thành lọng hoa Tô Ma Na che khắp tất cả cõi Phật trong mười phương. Ở tất cả các cõi Phật thọ mạng yên ổn hiện đang nói pháp thì lọng hoa Tô Ma La, ở trong hư không, trụ gần đỉnh Phật. Các Ðại Bồ tát có trong các cõi Phật đó, mỗi mỗi đều thỉnh vấn rằng: “ Nay lọng hoa này từ đâu mà đến? Là sự biến hóa của thần lực người nào?” Các đức Phật đó đều đáp câu hỏi của các Bồ tát rằng: “ Này các thiện nam tử! Nơi kia có thế giới tên là Ta Ha, cõi ngũ trược bất tịnh. Nơi đó có đức Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Như Lai A La Ha Tam Miệu Tam Phật Ðà, do bổn nguyện lực nên đã thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp, vì muốn tiêu diệt cảnh giới lực của các ma, kiến lập tất cả các Phật lực, cảnh giới Phật vô sở úy, kiến lập đèn Tam Bảo Chủng, giáo pháp của tất cả chư Phật... khiến cho trụ thế lâu dài. Ngài muốn cho tất cả thiện căn tăng trưởng nên dùng thần lực tinh tấn biến hóa hàng phục tất cả oán địch ngoại đạo. Tất cả đều kinh sợ, chẳng vui mừng tranh luận. Ác mộng, ác tướng, oán địch, trong ngoài, đấu tranh trói buộc, nói năng chẳng hòa, nước, hạn, phóng túng, tằn tiện, mưa chẳng phải lúc, lạnh, nóng, gió, ẩm, bệnh khí, dịch lệ, tiếng ác... đều tiêu diệt hết. Tất cả trời, rồng, dạ xoa, người, chẳng phải người.v.v... đều khiến cho quay lại hướng về. Tất cả sát lợi cũng khiến cho quay lại hướng về (hồi hướng). Răn bảo bốn họ ngài dùng pháp nghĩa. Ngài thắp đuốc trí tuệ, bày ra đường chính. Chúa người của tất cả nhà cửa, thành ấp, tụ lạc đoạn dứt việc. Vương cung quốc vương, chỗ quán chợ nhân dân đều khiến cho quay lại hướng về. Tất cả ánh sáng tinh tú, ngày đêm vận hành, nửa tháng, một tháng, thời tiết hàng năm.... đều vận hành chính đáng. Tất cả ngũ cốc, hoa trái, dược thảo.... đều thành thục. Tất cả công xảo sanh nghiệp nơi nào cũng không tán thất, đều thành tựu. Tất cả tội lỗi của nghiệp thân, miệng, ý đều được tiêu diệt. Trù lượng khéo làm, niệm tuệ tổng trì, dũng mãnh vô úy, sắc tướng lạc thuyết... đều tăng trưởng. Tất cả pháp không chướng ngại, minh giác pháp bốn Thánh chủng, tạo tác thọ trì, quang hiển Ðại thừa, tăng trưởng Ðại Bồ tát, an ủi Bất thoái chuyển địa. Lòng Kim cương làm hộ trì, làm mười địa (thập địa) một vị (mùi vị). Hiểu vô sinh pháp nhẫn, thọ chức Phật, kiến lập Bồ đề. Chúng sinh đã được hóa độ như đã theo nhiếp lấy mà chuyển bánh xe đại pháp. Ðại bi che khắp tất cả chúng sinh. Trụ ở Ba la mật. Trụ ở đạo Vô thượng. Mưa xuống pháp vũ. Dùng pháp thêm vị làm sung túc chúng sinh. Thỏa mãn việc của tất cả chư Phật. Giải thoát tất cả cảnh giới bốn ma. Kiến lập cõi Vô dư Niết bàn. Ðức Phật đó có ấn Ðà la ni tên là: “ Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Nhập Sai Biệt Ký” muốn nói. Tất cả đức Như Lai A La Ha Tam Miệu Tam Phật Ðà đời quá khứ gọi là Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký, thọ trì hỗ tương tùy hỷ. Và các đức Phật hiện tại mười phương đang trụ thế nuôi dưỡng thọ mạng. Tất cả các đức Phật cũng nói Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký, hiện nói, thọ trì hỗ tương tùy hỷ. Ở đời vị lai, các đức Như Lai A La Ha Tam Miệu Tam Phật Ðà khác của thế giới mười phương, nếu có các đức Phật sẽ ra đời thì cũng nói Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký cũng sẽ nói, thọ trì, hỗ tương tùy hỷ”.

Bấy giờ, Bồ tát sở hữu của các cõi Phật đó, mỗi mỗi đều thỉnh đức Phật rằng: “ Ðây là pháp gì? Từ xưa, con chưa nghe Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký có thể tạo tác vô lượng lợi ích như vậy, có thể đầy đủ pháp lợi chẳng thể nghĩ bàn như vậy, có thể tạo tác ánh sáng không chướng ngại của tất cả pháp... cho đến tịch diệt. Khi các đức Phật Thế Tôn nói Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký này thì tất cả cảnh giới ma lực bị tiêu diệt... cho đếnVô dư Niết bàn đó mà Bát Niết bàn, đối với các chúng sinh lợi ích không lường, an lạc không lường. Vì thương xót thế gian nên gom lại cho chúng sinh, người trời lợi ích, an lạc không lường”. Các đức Phật đó bảo các Bồ tát kia bằng lời như vầy: “ Này thiện nam tử! Ta cũng cùng với ông đi đến thế giới Ta Bà đó, trụ xứ của đức Thích Ca Như Lai A La Ha Tam Miệu Tam Phật Ðà. Ðã có Thế Tôn hiện tại trong mười phương nuôi dưỡng thọ mạng. Các đức Thế Tôn đó của các thế giới khác cùng với tất cả Bồ tát vây quanh trước sau và tăng Thanh văn theo hầu ở trước. Các đức Thế Tôn đó cũng sẽ đi đến chỗ đức Thích Ca Như Lai kia mà tập hội lớn. Ðức Thích Ca Như Lai kia cùng với chư Phật cũng sẽ nói Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký này, sẽ chung thọ trì sẽ hỗ tương tùy hỷ. Vì lợi ích chúng sinh, ngăn ngừa hạnh nghiệp ác, làm đầy hạnh hiền, đầy trí Vô thượng, nên tất cả chư Phật hôm nay đều vân tập ở chỗ đó cùng với các Bồ tát, tăng Thanh văn.v.v... vây quanh theo hầu. Hôm nay tất cả đều hiện tiền ở chỗ đức Phật đó. Nếu các ông muốn được Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký này thì nên đi đến đó nghe và muốn cúng dường các đức Phật Thế Tôn của tất cả cõi Phật nhiều ví như cát sông Hằng vô số vô lượng, nhất thời muốn thấy những đức Phật đó. Cái mà xưa chưa thấy như cảnh giới chư Phật, cảnh giới Bồ tát, cảnh giới chư thiên, cảnh giới các ma, sự trang sức của cõi Phật trang nghiêm... và muốn thấy những cái đó, xưa chưa thấy vô lượng đức Phật tập hội thì hôm nay chính là lúc chúng ta hãy cùng đi đến thế giới đó, trú xứ của đức Thích Ca Như Lai mà đại tập pháp hội (tập họp lớn mở pháp hội)”. Các vị Ðại Bồ tát kia đều bạch đức Phật đó rằng: “ Ðúng vậy! Ðúng vậy! Thưa đại đức Thế Tôn! Chúng con sẽ cùng với đức Như Lai đi đến xứ đó, thế giới Ta Bà, chỗ của đức Thích Ca Như Lai mà tập họp pháp hội. Ở chỗ đức Phật đó, nghe được cái từ xưa chưa nghe là nghe pháp Kim Cương Tồi Toái Tâm Cao Duyên Pháp Ðẳng Cú Ðà La Ni Ấn Nhập Sai Biệt Ký đó. Chúng ta đối với vô lượng vô số các đức Phật Thế Tôn nhất thời tập họp một chỗ, trụ thế nuôi dưỡng đó là được cúng dườngnghe pháp đó. Chúng tathế giới Ta Bà, được thấy bốn thứ cảnh giới thần thông, việc nghiêm sức khắp trang nghiêm đó và thấy đại tập pháp hội trang nghiêm đó. Chúng ta nếu khi đi đến cõi Phật nói Ðà la ni đó có được chỗ dừng chân chăng? Và có được thừa sự cúng dường đức Phật đó và nghe pháp chăng? Lại ở đó, sự tập họp đồ chúng Ðại Bồ tát như vậy có được cúng dường chăng?” Các đức Phật đó mỗi mỗi đều bảo các Ðại Bồ tát Ma ha tát và Ðại Thanh văn bằng lời như vầy: “Này các thiện nam tử! Các ông chớ nghi ngờ, ở thế giới đó có chỗ dừng chân không? Vì sao vậy? Vì cảnh giới chư Phật nhập vào trí xảo bình đẳng vô biên, chúng sinh thành thục vô biên, chỗ trống không rộng rãi vô biên. Này các thiện nam tử! Ðức Thích Ca Như Lai đó đầy đủ phương tiện đại xảo. Này thiện nam tử! Ðã nhiếp lấy hết chúng sinh có trong cõi chúng sinh thì chỉ vào cõi là đã có chỗ nương. Những chúng sinh ở đó, nếu mỗi một chúng sinh, giả sử thân to bằng núi Tu di, thì đức Thích Ca Như Lai có thể khiến cho tất cả vô lượng chúng sinh thân to như vậy vào trong một hạt cải mà chỗ cư trú của mỗi một chúng sinh đó đều được trống không rộng rãi, xa đến nỗi tất cả địa giới đó vào trong một hạt bụi rất nhỏ nhoi. Ðại địa và hạt bụi đó cũng chẳng hay biết có tướng tăng giảm. Ðó gọi là Trí phương tiện khéo của Như Lai đầy đủ như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử! Tất cả bến bờ, hang sâu của thủy giới, đức Thích Ca Như Lai đều có thể khiến cho tất cả thủy giới đó vào trong một sợi lông rất nhỏ mà một sợi lông và tất cả thủy giới đó cũng chẳng hay biết có tướng tăng giảm. Lại nữa, này thiện nam tử! Tất cả tướng nóng ấm của hỏa giới, đức Thích Ca Như Lai đều có thể khiến cho tất cả hỏa giới có trong ba đời vào trong một hạt bụi rất nhỏ nhoi mà hỏa giới đó vào hạt bụi nhỏ nhoi đi trong cảnh giới của mình giống như chỗ hư không rộng rãi. Lại nữa, này thiện nam tử! Phong giới sở hữu mà ta có thể biết được thì đức Thích Ca Như Lai đều có thể khiến cho tất cả phong giới đó vào trong một lỗ chân lông mà tất cả gió đó ở trong một lỗ chân lông đi trong cảnh giới của mình giống như chỗ hư không rộng rãi. Lại nữa, này thiện nam tử! Tất cả chúng sinhbốn đại đó trong cõi Phật mười phương, đức Thích Ca Như Lai đều có thể khiến cho chúng vào bên trong một hạt bụi rất nhỏ nhoi mà tất cả chúng sinh cùng bốn đại đó đi trong cảnh giới của mình và việc sở dụng giống như hư không chẳng nhiễu loạn nhau, cũng chẳng hay biết một vi trần đó có tướng tăng giảm. Ðó gọi là trí phương tiện khéo léo đầy đủ như vậy của Như Lai. Lại nữa, này thiện nam tử! Cho đến ba đời chúng sinh đã nhiếp lấy sáu nhập, hành thủ, nguyện trì, ngữ ngôn, âm thanh, văn tự, ngôn thuyết, ba hạnh, tác nghiệp, ấm, giới, phân biệt, trưởng dưỡng... đủ thứ sở tác. Tất cả chúng sinh đó từ thuở xưa đến nay, ba đời đã nhiếp lấy sáu đường sinh tử, khởi diệt... Cho đến tất cả chúng sinh ba đời đều nhiếp hết, qua sát na, la bà, mâu hốt đa... Tất cả chúng sinh ba đời đều nhiếp hết, thậm chí tất cả chúng sinh ba đời đều nhiếp thọ, chỗ hiểu biết khổ, lạc, tất cả trong một khoảnh khắc, đức Thích Ca Như Lai kia cũng đều hiểu biết. Ngần ấy các tướng đều biết một cách đầy đủ mà đức Như Lai chẳng phân biệt, không phân biệt, không suy nghĩ mà ngài đều biết những tướng này như thật tế của ba đời. Này thiện nam tử! Các đức Phật vào phương tiện trí cảnh giới, phương tiện bình đẳng thành thục chúng sinh đầy đủ”. Bấy giờ, khi các đức Phật nói tướng này của đức Thích Ca Như Lai thì ở đủ thứ các phương hướng, các đức Như Lai đó và đồ chúng của từng vị, vô lượng vô số trăm ngàn Bồ tát với cảnh giới thắng diệu thần thông nguyện trí đều qua bờ kia.

KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI

- Quyển thứ năm - hết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11597)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11212)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12054)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16500)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19586)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11811)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12577)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15621)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13572)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17953)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11124)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12139)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19627)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant