Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ Bảy

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9638)
Quyển Thứ Bảy


KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0402

Nguyên tác: [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]

- Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Ba La Pha Mật Ða La - Ðời Ðường

 - Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

---o0o---


Quyển thứ bảy.


PHẨM THỨ SÁU: ÐÀ LA NI

II- Lúc bấy giờ, trong chúng có một vị Ðại Phạm thiên vương tên là Diệu Âm, địa vị ở vào Thập trụ đại địa, nếu ở trong hàng Phạm là bậc tôn quí trong các Phạm. Nếu ở trong hàng ma là bậc tôn quý trong các ma, nếu ở trong hàng Ðế thích là bậc tôn quí trong các Ðế thích... cho đến Tỳ Sa môn, Tỳ lâu trà, Tỳ lâu bác xoa, Ðề đầu lại tra, Ðại tự tại, Na la diên, A tu la.v.v... đối với các chúa trời ấy là đấng tôn quí trong các chúa trời. Lúc đó Phạm vương Diệu Âm biến làm hình sắc đệ nhất nữ nhân với tướng hảo viên mãn, uy nghi đầy đủ, dùng đồ trang nghiêm thắng diệu mà tự trang nghiêm, ở trước đức Thích Ca Như Lai chắp tay mà ngồi, dùng hai tay bưng ngọc báu Như Ý cúng dường đức Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan đức Phật, mắt chẳng nhìn chỗ khác, các căn tịch nhiên chẳng dùng các tướng mà quan sát đức Như Lai.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Phạm thiên Diệu Âm rằng:

- Ông nay vì sao mắt chẳng tạm chớp (nháy), thậm chí dùng dùng vô tướng quan sát ta vậy? Này thiện nam tử! Vả có một pháp tên là Phật sao? Vả có một vật có thể là tên (danh) sao? Như tham, sân, si, vô minh phiền não... có danh vật duyên tướng, tướng duyên vô minh, vô minh duyên hành... cho đến nói rộng tướng diệt, vô minh diệt, hành diệt cũng lại như vậy.

Phạm thiên Diệu Âm thưa:

- Quả thật đúng như lời nói của đức Thánh! Vì sao vậy? Vì vô minh chẳng thể được! Thưa đức Thế Tôn! Nếu vô minh chẳng thể được thì mười hai “hữu chi” đó từ đâu mà khởi lên? Có thể từ hư không sinh ra sao? Mà hư không lại chẳng thể được.

Ðức Phật dạy rằng:

- Ðúng vậy! Ðúng vậy! Này thiện nam tử! Tất cả pháp như hư không. Sở dĩ vì sao? Vì hư không không vật, không tướng, chẳng phải tối, chẳng phải sáng, chẳng phân biệt, không phân biệt, không thành, không hoại, chẳng thể nói, không một vật, không phân đều, đoạn tất cả vật. Ðúng vậy! Ðúng vậy! Này thiện nam tử! Phật pháp chân tế đoạn. Phật pháp Như Như. Phật pháp chẳng chọn lấy bờ này bờ kia. Phật pháp chẳng giảm chẳng tăng. Phật pháp chẳng phải ấm, giới, nhập. Thể không phân đều. Hoặc thật, hoặc vật, hoặc tướng tất cả đều không có. Phật pháp không động, không trụ, chẳng dối đặt để. Phật pháp mà tất cả ngôn ngữ nói lên là đoạn dứt.

Khi nói pháp này có tám muôn bốn ngàn chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Có ác ma nói lên như vầy:

- Nếu Phật pháp như hư không, chẳng phải vật, chẳng thể nói thì tại sao ngài dùng trí tuệ tinh tấn, phương tiện nhọc nhằn não hại đến tôi, phá cảnh giới của tôi, thậm chí đoạt lấy chúng sinh của cảnh giới tôi. Ngài lại dạy bảo chúng sinh chẳng lại, chẳng đi, không vật huyễn thuật. Nếu ngài dạy chúng sinh như vậy thì chẳng lại thấy phiền não của chúng hành khởi. Vì sao ngài vì tôi, ở thế giới Ta Bà này, triệu tập vô lượng vô số những đức Phật Thế Tôn, Ðại Bồ tát và Ðại Thanh văn, Phạm vương, Ðế thích, trời Hộ Thế, Ma ê thủ la có đại thần thông, có đại gia hộ như vậy? Thậm chí trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già.v.v... đại chúng khắp nơi đều cùng đến đầy ở tất cả các cõi Phật và khiến cho ông Ðại Phạm không có lòng từ nói chú như vậy? Chúng tôi đã nghe đều bị đau đầu, chịu khổ não lớn, thậm chí còn khiến cho trên, dưới thân thối rữa.

Bấy giờ, lại có sáu vạn tám ngàn các ma vươngvô lượng vô biên chúng ma của họ, Dạ xoa, La sát, Cưu bàn trà, Tỳ xá già cực ác.v.v... tất cả đồng thanh xướng lên như vầy:

- Ðồ đảng chúng tôi khi vừa nghe chú thì tăng thêm đau đầu, thân đều thối rữa, chịu khổ rất nặng.

Ðức Thích Ca Như Lai bảo các ma đó rằng:

- Nhớ ta ngày xưa khi ngồi dưới cây Bồ đề đạo tràng, chúng ma quân của ông ở khắp tám mươi do tuần và cả trên hư không đều tràn đầy, muốn đến hại ta, cho đến ngày nay lại cũng đem vô lượng câu đê binh chúng đến hại ta. Ta cũng như vậy, triệu tập vô lượng vô số các đức Phật Thế Tôn, Ðại Bồ tát... cho đến người, chẳng phải người khắp nơi đến tập hội, vì muốn khiến cho ông và những ma khác, người, chẳng phải người.v.v... đều hàng phục, diệt tất cả khổ, được niềm vui Niết bàn tịch diệt, cũng vì dạy ông chẳng lại chẳng đi, tính vô sở hữu như pháp huyễn hóa, tất cả thú hướng, tất cả diệt, tất cả khởi, dòng sông ái sinh tử đều khô kiệt, cũng khiến cho các ông và tất cả chúng sinh tà kiến vào cảnh giới vô dư Niết bànBát Niết bàn. Này ma vương! Các ông hôm nay hãy mau chóng phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì bệnh đau đầu này sẽ được giải thoát, tu tập dần dần tính không thì Phật pháp sẽ được hiện tiền và được cảnh giới của chư Phật, thắng được cảnh giới của ma, thu hoạch lợi ích lớn.

Lúc bấy giờ, sáu muôn tám ngàn những ma, đồ chúng của ma đồng thanh xướng lên rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì làm sao sẽ được tự tính không... Phật pháp hiện tiền... cho đến được cảnh giới thắng diệu của Phật và lợi ích hy hữu?

ác ma nói lên như vầy:

- Giả sử lại khiến cho chúng ta tận sau cùng, thân bị bệnh đau đầu nặng thì ta nhất định chẳng theo lời dua nịnh huyễn hoặc mà phát tâm Bồ đề.

Bấy giờ, đại phạm Diệu Âm nói lên như vầy:

- Ta nay cũng ở trước đức Phật, dùng giáo pháp vi diệu của cõi Phật này dũng mãnh thọ trì và ở thế giới ngũ trược này lưu bố lời dạy của đức Thích Ca Như Lai tôn trọng. Từ nay trở lui cho đến sau khi đức Thích Ca diệt độ, ta sẽ khiến cho pháp hóa này sẽ được rực rỡ. Tùy theo đất nước có chúng sinh chánh tín ta đều đem khiến cho chẳng thoái lui, mau ra khỏi lưới ma. Nếu pháp môn này mà thế gian chẳng lưu hành thì ta khiến cho lưu hành. Nếu chỗ đã lưu hành thì ta khiến cho lòng tin ấy thêm rộng bội phần. Những thiện nam tử, thiện nữ nhân có trong thành ấp, tụ lạc thì ta sẽ ủng hộ nuôi dưỡng từ tâm, ngăn chận việc phi nghĩa của họ, răn bày thiện nghĩa. Tùy chỗ có pháp môn Bất Thoái Ma Trường Ðà la ni này... cho đến ghi chép, giữ gìn, cũng tùy theo chỗ có pháp sư lên tòa sư tử, muốn khai thị diễn nói thì trước tiên pháp sư phải chí tâm tụng chương cú Ðà la ni này, kêu gọi triệu mời ta cùng các quyến thuộc. Ta sẽ tự đi đến chỗ vị pháp sư đó mà vì ông tạo tác sự ủng hộ và khiến cho chúng nghe pháp được đại cát tường.

Ðại phạm Diệu Âm liền ở trước đức Phật mà nói chú rằng:

Ða địa dã tha a bà nhĩ a bà nhĩ (1) Am bà ly am bà ly (2) Bạt lý quân xà na trà na trà (3) Bổ sa ca la bà ha (4) Xà lậu kha (50 Ma kha gia (6) Y lê nhị lê (7) Chỉ lê nhị lê (8) Cát chỉ già la mẫu đà ly (9) Mẫu đà la mẫu bả (10) Ta bà ha (11).

- Thưa đức Thế Tôn! - Ðại Phạm nói tiếp - Tùy theo chỗ có pháp sư nói pháp, trước tiên cần phải tụng câu chú này. Con dùng thiên nhĩ thanh tịnh ở trên thượng giới, nghe âm thanh ấy mà chẳng đến chỗ đó tạo tác sự thủ hộ, là đã lừa dối tất cả các đức Phật quá khứ, vị laihiện tại. Chư Phật cũng không khiến cho con được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng con nhất định đi đến chỗ vị pháp sư nói pháp đó cung kính làm lễ dưới chân, cũng cho biện tài lạc thuyết (nói hay). Con lại khiến cho pháp sư và chúng nghe pháp, tất cả bịnh khổ, ác kiến, ác tác, lòng tà nghi đều khiến cho đoạn diệt hết. Thưa đức Thế Tôn! Tùy theo chỗ phương diện nói pháp môn này mà có người có thể thọ trì, ôn tụng, thì con và quyến thuộc sẽ đi đến chỗ người đó. Nếu ở đó có tất cả những thứ đấu tranh, đói kém, bệnh hoạn, ưu não, oán địch trong ngoài, nắng hạn, mưa ngập, lạnh nóng mất thứ tự, gió mưa chẳng đúng lúc, ác kiến, ác tác... con sẽ khiến cho tiêu diệt. Những nỗi sợ của người và chẳng phải người, súc sinh.v.v... và tất cả những giấc mơ chẳng tốt lành, ác tướng, ác nhân, không có nhuận trạch, vị đắng thô ráp, cay thối khó chịu... Những hoạn nạn như vậy con sẽ đoạn trừ hết. Cho đến sư tử, ác thú, rồng độc, trâu hoang, sài lang, đạo tặc, người, chẳng phải người gian trá.v.v... vô lượng những nỗi sợ con đều đoạn diệt hết.Vì khiến cho chúng sinh được đồ ưa thích mà con khiến cho đủ thứ ngũ cốc, dược thảo, hoa quả, đồ ăn uống thượng vị, y phục, nhà cửa, chăn chiên, ngọa cụ... quả báo thành tựu đều sung mãn. Tùy theo chỗ có pháp môn này lưu thông thì việc chẳng lợi ích con sẽ ngăn chặn, việc lợi ích con sẽ khiến cho thành tựu. Nếu chúng sinh đó tin ưa chánh pháp, làm hạnh thiện thì con sẽ răn bày khiến cho phước tăng trưởng. Con nay ở trước tất cả các đức Phật này lập đại thệ nguyện. Nguyện xin chư Phật đồng thương xót con khiến cho đại nguyện làm Phật sự của con thành tựu. Nguyện thành tựu nên chỗ sở y (nương) của ý đều khiến đủ đầy. Nguyện đủ đầy nên liền thành tựu sở tác của bậc trượng phu.

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Như Lai đứng đầu cùng tất cả chư Phật đồng chung thương xót nhiếp lấy Ðại Phạm Diệu Âm nói lên như vầy:

- Này thiện nam tử! Chúng ta sẽ đem chú Ðà la ni cho ông thọ trì. Sở dĩ vì sao? Vì nếu tất cả Ðế thích, Phạm vương, Hộ thế Tứ Thiên vương và những trời, rồng, Dạ xoa, A tu la khác.v.v... đối với lời Thánh giáo của đức Phậtkhởi tâm bất tịnh thì nhờ lực của chú này nên đều sẽ nhiếp phục.

Khi Ðại Phạm Diệu Âm tạo tác sự kiến lập việc sở tác của bậc Ðại trượng phu như vậy thì chư Phật mười phương đồng xướng lên rằng:

- Nguyện cho nguyện lực của Diệu Âm đại phạm thành tựu!

Ðức Phật liền nói chú rằng:

- Ða địa dã tha giả vấn trì (1) Vấn trà bả lý xỉ đề (2) Ha mậu ma (3) Ha mậu ma (4) Ta la xoa (5) Bà la cữu ta nhị kha (6) Bả lý bà ha (7) Già la ma (8) Dã tha giả sưu tỷ kha a mậu la bả lý xỉ đề (9) Tát bà bộ đà địa sử sỉ chỉ (10) Ta bà ha (11).

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nói chú đó rồi, nói lên như vầy:

- Này thiện nam tử! Ðà la ni này có thể khiến cho tất cả ma và Ðế Thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương, các trời, rồng, Dạ xoa, A tu la có ánh sáng lớn thấm nhuần khác nhiếp lấy tất cả người, chẳng phải người.v.v..., đều khiến cho họ hồi hướng công đức chư Phật. Ông nay nếu có thể thọ trì Ðà la ni như vậy thì tức là có thể tạo tác việc sở tác của bậc đại trượng phu.

Ðại Phạm Diệu Âm thưa rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Con nay dùng hình tướng nữ nhân này sẽ khéo hộ trì tất cả nữ nhân, sẽ khéo thành thục tất cả nữ nhân. Thưa đức Thế Tôn! Nếu có nữ nhân chán ghét thân nữ, cầu tướng trượng phu thì nên phải thọ trì, đọc tụng, chép thành sách, cúng dường Kinh này. Con sẽ đi đến chỗ nữ nhân đó để thỏa mãn nguyện vọng của họ. Nếu có nữ nhân chán hoạn nam nữ thì cũng phải thọ trì đọc tụng, chép thành sách, cúng dường chú này. Như vậy, sức trì chú của nữ nhân tuy chưa lìa dục nhưng chẳng thọ thai. Lại có nữ nhân bị người khác khinh khi hèn hạ, bị người lừa dối, lấn hiếp, mất hết các lạc thọ (niềm vui nhận được) cũng nên đọc tụng Ðà la ni này. Do sức uy thần của Ðà la ni nên tất cả nguyện thỏa mãn, các niềm vui thành tựu.

Lúc bấy giờ, ngài Ðại Phạm vì cúng dường, vì hộ trì pháp môn Ðà la ni thần lực này, vì thỏa mãn nguyện tất cả chúng sinh nên liền hai tay bưng ngọc báu Ma ni dâng lên cúng dường, tất cả chư Phật mười phương. Lúc bấy giờ, các đức Phật đồng lên tiếng rằng:

- Ðúng vậy! Ðúng vậy! Này thiện nam tử! Nguyện cho ông thường có thể hộ trì Phật giáo, thỏa mãn nguyện chúng sinh.

PHẨM THỨ BẢY: NHIẾP THỌ DIỆU PHÁP.

Lúc bấy giờ, trong hội có vị Ðại Bồ tát tên là Diệu Tuệ Thông Ðạt ngồi ở trước đức Như Lai Thắng Châu Viêm, cách đức Như Lai Thích Ca chẳng xa, ở trong khoảnh khắc mâu hốt đa hiện làm tướng Phạm, ở trong khoảnh khắc sát na hiện làm hình tướng ma... cho đến hiện hình tướng trời Ðế Thích, hình tướng trời Tha Hóa Tự Tại. Lại nữa ông hiện làm hình tướng các chúa trời, hình tướng trời Hóa Lạc, trời Ðâu Suất, trời Dạ Ma, hình tướng Tứ Thiên Vương, trời Ðại Tự Tại. Hoặc hiện hình tướng Dạ xoa, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, La sát, ngã quỉ, Tỳ xá già, Cưu bàn trà, Sát lợi, Bà la môn, Tỳ xá, thủ đà.v.v... Hoặc hiện hình tướng sư tử, voi, ngựa, trâu nước.v.v... cho đến thị hiện đủ thứ hình tướng súc sinh. Ở trong khoảnh khắc sát na, ông hoặc hiện chim, cây, núi, quả (trái cây), y phục, ngọa cụ, đủ thứ y dược, khí cụ báu trang nghiêm... Trong khoảnh khắc mâu hốt đa ông thị hiện hình tượng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Trong khoảnh khắc sát na ông thị hiện hình tượng Phật, hoặc hiện tám muôn bốn ngàn đủ thứ sắc tướng... cho đến hình mạo tròn vuông, phân sắc tịnh diệu. Bấy giờ, trưởng lão Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử liền đứng dậy, chắp tay hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Vì nhân gì? Duyên gì? Mà vị Bồ tát này có tám muôn bốn ngàn tướng tịnh diệu và thân đủ thứ loại vuông tròn phân sắc như vậy?

Ðức Phật bảo ngài Phú Lâu Na rằng:

- Bồ tát này có đại công đức nhiếp lấy cảnh giới lực mà tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật chẳng thể bì kịp. Ðại Bồ tát Diệu Tuệ Thông Ðạt theo chỗ trụ kia mà thọ cảnh giới lực để thành thục chúng sinh. Tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật chẳng phải ở địa vị ấy. Tùy theo những chúng sinh đó đầy khắp mười phương nhiều vô lượng vô số, hoặc tịnh hay bất tịnh, ở những cõi Phật, ông ấy thường dùng tuệ nhãn không chướng ngại để thấy đúng như sở nguyện, đúng như điều nghĩ, đúng như sự ràng buộc suy não, đúng như chỗ nương về. Rồi Bồ tát này vào tam muội như vậy, dùng sắc mạo uy nghi đó để tùy theo ứng xử vuông tròn... đủ thứ sắc tướng đầy đủ... cho đến hình tướng Phật như việc hóa độ chúng sinh, an trí họ ở Tam thừa trụ ở Bất thoái địa. Nếu chúng sinhtham lam chẳng tự tại cầu đủ thứ ái dục thì vì đoạn dứt sự tham đó nên ông cho họ nhu cầu ấy, nhiên hậu mới đặt họ vào “bất thoái địa”. Nếu người bệnh hoạn cần thuốc men thì ông liền cho họ thuốc, nhiên hậu mới an lập họ ở bất thoái địa. Này Phú Lâu Na! Bồ tát Diệu Tuệ Thông Ðạt này, ở trong một ngày, có thể độ được số chúng sinh nhiều như cát sông Hằng, giải thoát các khổ, đặt vào địa vị bất thoái tam thừa.

Ngài Phú Lâu Na bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Vị thiện nam tử này thành tựu chúng sinh, làm việc của bậc trượng phu đến nay đã lâu chưa?

Ðức Phật dạy rằng:

- Số kiếp lâu bằng vi trần của a tăng kỳ cõi Phật ông thiện nam tử này đã phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Trải qua thời gian ấy, ông đã được sức tam muội gia hộ kiến lập việc của bậc trượng phu cho đến nay. Lại nữa, ông ấy lại trải qua sáu mươi tư a tăng kỳ kiếp.

Ngài Phú Lâu Na thưa rằng:

- Bồ tát Diệu Tuệ từ đây đến bao lâu và ở cõi Phật nào sẽ được A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề?

Ðức Phật dạy rằng:

- Lại trải qua hai mươi sáu trăm ngàn đại kiếp, qua khỏi số kiếp đó rồi có đại kiếp tên là Năng Ðộ, thế giới tên là Ma Ni Hoa Tu (Mạn). Chúng sinh nước ấy đều sống lâu bốn mươi ngàn năm, Bồ tát Diệu Tuệ ở trong số chúng sinh ác ngũ nghịch bất thiện pháp sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðức Phật ấy hiệu là Khai Phu Vô Biên Quang Như Lai A La Ha Tam Miệu Tam Phật Ðà. Ðức Phật ở trong bốn mươi ngàn năm luôn luôn làm Phật sự. Ngài dùng pháp Tam thừa thành thục chúng sinh... cho đến khiến cho họ được Bát Niết bàn. Từ đó trở về sau, đức Phật Vô Biên Quang dùng Vô dư Niết bàn mà vào Niết bàn.

Ngài Phú Lâu Na thưa rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Những chúng sinh đã thành thục trước đó của Bồ tát này sẽ sinh ra ở đâu?

Ðức Phật dạy rằng:

- Bồ tát này trước đã tác khởi nguyện chẳng tự nhiếp thọ như vầy: “Mười phương thế giới, ở mỗi một phương cõi Phật nối nhau không gián đoạn nhiều như số vi trần. Các đức Phật có trong những cõi Phật đó khiến cho ta được thấy. Nếu ta chẳng thấy những đức Phật đó thì chẳng thủ lấy Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Khi hành Bồ tát đạo trước đây của ta, khuyến phát chúng sinh thì trước tiênphát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, rồi thị hiện giáo hóa kiến lập sáu Ba la mật. Người đã thành thục thì ở khắp các cõi Phật trong mười phương. Người đã được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cũng khiến cho ta nhìn thấy. Do lực trang nghiêm Tam ma đề gia hộ như vậy nên mỗi một cõi Phật nối tiếp không gián đoạn trong số những cõi Phật nhiều như vi trầnmười phương, ta có thể làm việc của bậc đại trượng phu như vậy. Và chúng sinh tạo tác ngũ nghịch tội, chẳng thể trị cho đến chúng sinh đầy đủ pháp bất thiện trong những cõi Phật đó, sau khi mạng chung ở đó, thừa nguyện lực của ta đều vãng sinh đến nước của ta. Ta làm Bồ tát, khiến cho chúng sinh này gieo trồng các căn lành, đặt họ vào đất “bất thoái”, nhiên hậu thân ta sẽ thủ lấy Chánh Giác”. Bồ tát Diệu Tuệ có nguyện lớn như thế!

Lúc bấy giờ, các vị Bồ tát cùng đến của các cõi Phật trong mười phương đồng nói lên rằng:

- Chúng ta hôm nay từ khắp nơi vân tập đến cõi Phật này, được thấy Ðại sư có tướng như vậy và thấy những vị Bồ tát đầy đủ đại bi đại tập hội và được nghe điều xưa kia chưa nghe: Pháp thức “Kim Cương Pháp Ðẳng Nhân Duyên Pháp Tâm Năng Kiến Lập Tồi Toái Ðà La Ni Ấn Cú Sai Biệt Môn Ký của các đức Phật quá khứ, vị laihiện tại ủng hộ khiến ta được nghe.

 

 

PHẨM THỨ TÁM: THỌ KÝ

Lúc bấy giờ, đức A Súc Như Lai bảo khắp tất cả đại chúng bằng lời như vầy:

- Ta khuyên thiện nam tử các ông, Phạm thiên, Ðế thích, Tứ thiên vương trời, rồng, Dạ xoa, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người.v.v... những người có niềm tin thanh tịnh đối với Phật Giáo tập hội về đây, được thấy tất cả các đức Phật Thế Tôn và các vị Ðại Bồ tát, Ðế Thích, Phạm vương, Thiên vương, người, chẳng phải người.v.v... khắp nơi vân tập lại. Tướng lớn như vậy rất là khó được, các ông hôm nay thấy tập hội ở chỗ này đều ứng với tự nguyện của từng người ở trước đức Như Lai. Các ông nay ở cõi Phật này, nếu đời hiện tại và đời vị lai nhất định có thể hộ trì diệu pháp như vậy, khiến cho giống Tam Bảo thường được xí thạnh.

Bấy giờ, có ma tên là Tức Hoa dùng khí cụ báu đựng đủ thứ hoa quả và mạch nha (đồ ăn làm từ mầm mọng lúa), tự biến thân hình mình làm hình dáng nữ nhân với đầy đủ vi diệu, đoan chánh đệ nhất, sắc tướng viên mãn, không ai sánh bằng. Ma đó dùng y phục đệ nhất nghiêm sức thân mình, mang đồ báu đựng hoa dâng lên cúng dường đức Phật và nói lên như vầy:

- Xin các đức Phật Thế Tôn một lòng nghĩ đến con! Nếu các đức Phật có trong thế giới này và thế giới khác đến tập hội về đây thì như vậy, thưa các đức Phật Thế Tôn. Con hôm nay đem tất cả hoa trái và mạch nha đựng đầy trong bảo khí hiến dâng lên đức Phật. Nguyện xin chư Phật từ bi đều nhiếp thọ hết! Cho con thành tựu viên mãn nguyện Bồ đề. Như con đến hết kiếp Hiền này, ở trong tất cả cõi Phật dùng hình tướng nữ nhân ban cho chúng sinh đồ ăn, thức uống, hoa trái... cho đến thành thục chúng sinh. Do phước báo này khiến con viên mãn cụ túc sáu Ba la mật, được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giácchúng sinh đã hóa độ của con đều cung cấp, không có sự thiếu thốn.

Lúc bấy giờ, tất cả các đức Phật đồng nói lên rằng:

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông có thể dùng tâm thanh tịnh kiến lập đại thí và cúng dường tất cả các đức Phật Thế Tôn. Ta nay đã thọ sự bố thí của ông khiến cho ông được như sở cầu, được như điều ông cầu làm... cho đến khiến cho ông viên mãn ý nguyện cầu xin lúc bấy giờ, công đức thành tựu, thần thông thành tựu.

Ma Tức Hoa lại nói lên rằng:

- Như có thành, ấp, thôn, xóm mà có người có thể thọ trì, khai thị Kinh điển này, có người chép thành Kinh quyển và cúng dường thì con sẽ ở quốc ấp, tụ lạc đó cho đến chỗ biên cương có người ở làm cho tòng lâm, hoa quả, ngũ cốc đâm hoa kết trái đều thành tựu. Chúng sinh có trong tất cả những chỗ đó, thậm chí loài cầm thú ăn hoa quả thì con đều khiến cho sung túc. Thưa đức Thế Tôn! Nếu có một người ở bất cứ đâu ưng ăn trái, nhưng chẳng được ăn mà mạng chung thì hôm nay con tức là đã lừa dối tất cả các đức Phật ba đời và những Thánh chúng trong đại hội này và cũng chớ cho con được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chỉ trừ nghiệp hết và mạng hết. Những thứ hoa quả mỹ vị sở hữu đều khiến cho chúng sinh khắp nơi được thọ dụng. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Ðàn Ba la mật. Nếu những chúng sanh ăn quả trái thì những chúng sanh này sẽ khởi bi tâm lợi ích lẫn nhau. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Thi (trì giới) Ba la mật. Nếu các chúng sinh thọ dụng hoa trái thì những chúng sinh khởi tâm nhu nhuyến. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Sàn đề (nhẫn nhục) Ba la mật. Nếu các chúng sinh thọ dụng hoa quả thì sẽ khiến cho lòng tinh tấn kiên cố. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Tỳ Lê Gia (tinh tấn) Ba la mật. Nếu chúng sinh thọ hoa quả của con thì pháp tâm tâm số khởi lên vô thường tưởng. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Thiền Ba la mật. Nếu chúng sinh, thậm chí loài cầm thú, ăn hoa quả thì đều khiến cho chúng ưa pháp, được trụ tính không. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Lại nữa, tùy theo chỗ có hành pháp môn này, những chúng sinh ở đó sở hữu đủ thứ lúa nước, lúa mì, đậu, hoa trái đủ loại... do đó nên lòng con rất cần lao vì những chúng sinh đó thu hoạch nhiều hạt giống, cũng khiến cho kho chứa lúa tràn đầy. Nếu chúng sinh đó, cho đến loài cầm thú ăn hoa quả thì do cái nhân này khiến cho con đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Nếu mỗi một địa phương lưu thông, khai thị pháp môn này, tùy theo chỗ đó có mía, quả bồ đào, quả thạch lựu.v.v... thì tất cả nước cốt, hương vị, không thứ nào chẳng thơm ngon hơn bội phần so với thứ thường và những bình vò, hủ, đồ đựng (chứa) của chúng sinh đều khiến cho tràn đầy. Nếu có chúng sinh thọ dụng thì đều được thêm lớn trí tuệ và sắc lực. Do cái nhân này nên khiến cho con đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Thưa đức Thế Tôn! Con được đầy đủ nhân duyên thanh tịnh của sáu Ba la mật như vậy khiến cho con được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tất cả các đức Phật và tất cả chúng Ðại Bồ tát sẽ tùy hỷ. Con có thể tạo tác hành tướng của Bồ tát như vậy.

Tất cả các đức Phật trong đại chúng đều mặc nhiên hứa khả. Lúc bấy giờ, có đức Phật hiệu là Trí Tinh nói lên như vầy:

- Này thiện nam tử! Ông sẽ mời tất cả chúng sinh làm đại thí chủ. Ông dùng tướng như vậy, sức như vậy, tinh tấn dũng mãnh như vậy, nhọc nhằn chẳng nghỉ như vậy, này thiện nam tử! Ông có thể tạo tác tướng, lực, tinh tấn như vậy thì tức là việc làm của bậc Bồ tát trượng phu.

Ma Tức Hoa, ở trước đức Phật Trí Tinh, nghe lời an ủi như vậy rồi, liền bạch đức Phật rằng:

- Nguyện xin đức Thế Tôn một lòng hộ niệm cho nghiệp thiện của con thành tựu đủ đầy. Ở tại khắp nơi nơi, nếu chỗ pháp môn này chẳng lưu hành thì con cùng quyến thuộc chẳng vào cảnh giới ấy. Nếu chỗ pháp môn này lưu hành thì con cùng quyến thuộc luôn luôn trụ ở chỗ đó và làm cho ngũ cốc, thảo dược, hoa quả... của cõi đất ấy bội phần nhiều thêm, sắc hương mỹ vị đều đầy đủ, chúng sinh thọ dụng lúc nào cũng no đủ, kho đựng, hầm trữ đều chứa đầy. Thậm chí đồ ăn của loài súc sinh cũng khiến cho phong phú. Do thiện căn này khiến cho con đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Thưa đức Thế Tôn! Con ở cõi Phật này cho hết một ngàn kiếp để khiến cho tướng như vậy, lực như vậy, thọ ăn uống như vậy của các chúng sinh sẽ trở nên sung túc. Thưa đức Thế Tôn! Ở mỗi một đất nước của thế giới ngũ trược nhiều như cát sông Hằng vô lượng vô số như vậy, con thề sẽ ở trong một ngàn kiếp để làm Phật sự lớn, nhiên hậu thân con sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đức Thế Tôn! Nay con dùng câu thần chú này nguyện tự hô lên nhiếp lấy.

Ma Tức Hoa liền nói chú rằng:

- Ða địa dã tha già nhỉ kha (1) Già nhỉ kha già nhỉ kha (2) Tỳ tỳ lý đa ha sa đế (3) Bà ha bà ha bà ha (4) Ta ma la a ta ma kiếm (5) Ta la tri (6) Tỳ bà bà ta tỳ (7) Ta la ta huyện đà ly (8) Ta la ma hiển đà ly (9) Ta la bà xà luyện đa ly (10) Lông hằng bả dạ ta ma kiếm (11) Hủ hủ hủ hủ hủ hủ (12) A tăng già xã tỳ (13) Sỉ kha sỉ kha sỉ kha (14) Bà do bà nghĩa (15) Ưu ba na dã (16) Lông hằng bả dạ (17) Tỵ xà pha la bổ sở báo sở đề (18) Ðà na đà nê di na (19) Chiên đà la si di (20) Xã văn bà ha nê (21) Ta ma la (dẫn) ta ma kiếm (22) Tam miệu ba la để bát na bà viêm (23) Ta xỉ ca lý dã ma di (24) Ma nhị ma nhị ma mẫn xà bà la (25) Ta bà ha (26).

Ma Tức Hoa nói chú đó rồi, tự bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Chỗ sở tại, có người có thể khai thị pháp môn Kinh này và câu Ðà la ni này thì con đến chỗ đó vì muốn tự thành thục, vì hạnh Bồ đề đầy đủ.

Lúc bấy giờ, tất cả các đức Phật đồng chung khen rằng:

- Hay thay! Hay thay!

Tại đại hội, đại chúng Ðại Bồ tát và tất cả Phạm vương, Ðế thích, Thiên vương, Hộ Thế Tứ thiên vương, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Cưu bàn trà, Tỳ xá già, người, chẳng phải người.v.v... từ trong tất cả các cõi Phật đến đây đều chung đồng thanh xướng lên rằng:

- Hay thay! Hay thay! Thưa thiện nam tử! Ông có thể dùng hình tướng nữ này tu hành sáu Ba la mật thành thục chúng sinh! Bằng sức lực phước đức tinh tấn nhọc nhằn của chúng tôi, chúng tôi xin nguyện khiến việc làm Phật sự của ông sẽ được thành tựu!

Ðức Thích Ca Như Lai nói lên như vầy:

- Có ai thương xót thiện nam tử này thì có thể tá trợ!

 

KINH BẢO TINH ÐÀ LA NI

- Quyển thứ bảy - hết.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17989)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11246)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12108)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15373)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12005)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14845)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12694)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12271)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11864)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11958)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11847)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12770)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12616)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13629)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12899)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13054)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12220)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14274)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19707)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14156)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24612)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant