Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ Tát

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 18137)
Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ Tát

 

Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ-tát


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0409

Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đàm-ma-mật-đa.

Việt dịch: Tì-kheo Thích Vạn Thiện.

---o0o---


Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật cùng với một nghìn hai trăm năm mươi tì-kheo và một nghìn bồ-tát ở kiếp Hiền do ngài Di-lặc làm thượng thủ, an trú tại trụ xứ của tiên nhân Chính Giác, núi Khư-đà-la.

Bấy giờ, trưởng lão Ưu-ba-li liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh trang y phục rồi đảnh lễ Đức Phật và thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây ở trong kinh Công đức, Thế Tôn nói danh hiệu dại bồ-tát Hư Không Tạng có thể trừ tất cả các nghiệp ác bất thiện, đối trị các ác luật nghi của vua Chiên-đà-la, cho đến sa-môn Chiên-đà-la. Nếu muốn đối trị các việc ác ấy thì nên quán bồ-tát Hư Không Tạng như thế nào? Giả sử được diện kiến ngài, thì làm sao chung ở để bố-tát và làm việc của tăng? Trước đây, trong Tì-ni, Thế Tôn nói: Nếu ưu-bà-tắc phá năm giới, phạm tám trai giới; hàng tì-kheo, tì-kheo ni, sa-di, sa-di ni, thức-xoa-ma-na phạm bốn tội nặng; hàng bồ-tát tại gia hủy phạm sáu tội nặng, bồ-tát xuất gia phạm tám tội nặng tội thì quyết định đuổi đi, bọn họ như tảng đá lớn đã vỡ. Nay ở trong kinh này, Đức Phật nói bồ-tát Đại Bi Hư Không Tạng hay cứu các khổ và thuyết thần chú để tiêu trừ tội lỗi. Giả sử có vị bồ-tát này thì làm sao biết được? Lấy gì làm chứng? Cúi xin đức Thiên Tôn phân biệt giải nói?

Ðức Phật bảo ngài Ưu-ba-li:

- Ở đời vị lai, ông và tất cả những người khéo hành trì Tì-ni, cần phải giáo hóa những chúng sinh phạm tội ấy và khuyên giải tâm họ! Thệ nguyện đại từ của Thế Tôn rộng lớn, chẳng bỏ một loài nào. Trong kinh Công đức sâu xa có nói đến pháp trị tội lỗi tên là Quyết định Tì-ni. Trong đó có ba mươi lăm Đức Phật đại bi cứu thế mà ông phải kính lễ. Khi kính lễ, ông phải mặc áo tàm quí, giống như đôi mắt bị ung nhọt, người bệnh cảm thấy hổ thẹn; như người bệnh hủi phải theo lời chỉ dạy của lương y. Ông cũng như thế, nên sinh lòng hổ thẹn. Ðã hổ thẹn rồi, thì từ một ngày cho đến bảy ngày đảnh lễ mười phương Phật, xưng danh hiệu của ba mươi lăm vị Phật và đặc biệt xưng danh hiệu bồ-tát Đại Bi Hư Không Tạng. Hành giả phải tắm gội thân thể sạch sẽ, đốt đầy đủ các thứ hương thơm quí giá như Kiên hắc, Trầm thủy. Lúc sao mai mọc, hành giả nên quì dài chắp tay, rơi lệ buồn khóc, xưng danh hiệu Hư Không Tạng và thưa: “Bạch Ðại đức! Ðấng bồ-tát Ðại Bi! Xin ngài thương xót nghĩ đến con, nên vì con mà hiện thân!”.

Bấy giờ, phải quán tưởng trên đỉnh bồ-tát Hư Không Tạnghạt châu Như Ý màu vàng tía. Nếu thấy châu Như Ý tức là thấy thiên quan[1]. Trong thiên quan có ba mươi lăm tượng Phật xuất hiện. Trong hạt châu Như Ýmười phương Phật tượng xuất hiện. Thân bồ-tát Hư Không Tạng cao hai mươi do-tuần. Nếu hiện thân lớn thì đồng với bồ-tát Quán Thế Âm .v.v... Vị bồ-tát này ngồi kiết già, tay cầm hạt châu vương Như Ý. Từ hạt châu ấy phát ra pháp âm hợp với Tì-ni.

Vì vị bồ-tát này thương xót chúng sinh, nên hóa làm hình dáng tì-kheo và tất cả sắc tướng. Hoặc ở trong mộng, hoặc khi ngồi thiền, tì-kheo này dùng ấn ngọc ma-ni in vào cánh tay người đó. Dấu ấn có chữ “Trừ tội”. Ðược chữ này rồi, người ấy liền trở lại trong chúng tăng nói giới như cũ. Nếu ưu-bà-tắc được chữ này thì chẳng chướng ngại việc xuất gia. Nếu không được chữ này, thì sẽ nghe trong hư không vang lên tiếng: “Tội diệt! Tội diệt!”. Nếu chẳng nghe trong hư không có tiếng phát ra khiến cho biết Tì-ni, thì khi mộng thấy bồ-tát Hư Không Tạng, người này phải thưa:

- Bồ-tát Tì-ni! Bồ-tát Tì-ni! Con là tì-kheo tên…, con là ưu-bà-tắc tên …!

Lúc bấy giờ bồ-tát dạy cho người ấy sám hối, từ một ngày cho đến bốn mươi chín ngày lễ bái ba mươi lăm đức Phật. Nhờ uy lực của bồ-tát Hư Không Tạng mà tội người ấy giảm nhẹ.

Người biết pháp, lại dạy họ nên dọn dẹp nhà vệ sinh trải qua tám trăm ngày. Mỗi ngày đều bảo họ: “Ngươi đã làm những việc bất tịnh, thì hôm nay phải dốc lòng tẩy rửa tất cả nhà vệ sinh, không cần để cho ai biết. Làm vệ sinh xong, trong hai mươi mốt ngày, ngươi nên tắm gội sạch, đảnh lễ ba mươi lăm Đức Phật, xưng niệm danh hiệu Hư Không Tạng. Lại hướng về mười hai bộ kinh, gieo năm vóc sát đất, tỏ bày tội lỗi của mình. Bấy giờ, người hiểu biết thì nên nhóm họp thân thuộc đến trước tượng Phật xưng danh hiệu ba mươi lăm vị Phật, danh hiệu Văn-thù-sư-lợi, danh hiệu của bồ-tát kiếp Hiền..., để những vị ấy chứng minh, rồi lại bạch yết-ma như pháp thụ giới ở trước. Người này nhân tu tập khổ hạnh như vậy, nên tội nghiệp vĩnh viễn tiêu trừ, chẳng chướng ngại ba nghiệp bồ-đề.

Ðức Phật bảo Ưu-ba-li:

- Ông hãy thụ trì phép quán Hư Không Tạng này, vì những chúng sinh đời vị lai không biết tàm quí, phạm nhiều tội ácphân biệt giảng nói. Khi ông nói kinh này thì bồ-tát Hư Không Tạng ngồi kiết già, phóng ra ánh sáng sắc vàng, trong hạt châu Như Ý hiện ra ba mươi lăm đức Phật.

Bồ-tát Hu w Không Tạng bach Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Hạt châu Như Ý này của con từ Thủ-lăng-nghiêm hiện ra. Vì thế, chúng sinh thấy hạt châu thì được như ý tự tại.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ưu-ba-li:

- Ông hãy giữ gìn kinh này, chẳng được giảng nói cho tất cả mọi người nghe, chỉ vì một hạng người hành trì Tì-ni, làm đôi mắt sáng cho chúng sinh mù tối đời vị lai. Ông chớ quên lời Ta!

Ưu-ba-li nghe Phật dạy, lòng vô cùng vui mừng cung kính vâng theo.

-----------------------------------------------

 

[1] Thiên quan (mũ trời).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11882)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13020)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8991)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant