Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14577)
Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0413

Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Ðồng Tam Ty, đặc Tấn Hồng Lô Khanh Ðại Hưng tự, Ðại Tam Tạng Sa môn Bất Không.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Quy mạng lệ pháp thân

Ở giữa các hữu tình

Vì chúng không biến tri

Mới luân hồi Tam hữu

Mê tánh liền sanh tử

Tịnh thời cũng như xưa

Thanh tịnhNiết Bàn

Cũng chính là pháp thân

Thí như sữa xen tạp

Không thể thành Ðề hồ

Như phiền não xen tạp

Không thể thấy pháp giới

Thí như sữa lọc sạch

Tô tinh diệu không

Như thanh tịnh phiền não

Pháp giới rất thanh tịnh

Như đèn để trong bình

Aùnh sáng làm sao có?

Như trong bình phiền não

Pháp giới không chiếu sáng

Ðể ngọn đèn một bên

Cái bình có lỗ hỏng

Do để đèn một bên

Aùnh sáng chiếu ra ngoài

Dùng chày Tam ma địa

Ðập bể bình phiền não

Ðầy khắp cả hư không

Aùnh sáng chiếu tất cả

Pháp giới cũng không sanh

Cũng không từng hoại diệt

Tất cả thời không nhiễm

Ðầu, giữa thường thanh tịnh

Thí như phệ lưu ly

Lúc nào cũng rất sáng

Hang đá vì che tối

Aùnh sáng không chiếu diệu

Như vậy, phiền não che

Pháp giới diệu thanh tịnh

Không chiếu nơi sanh tử

Thì Niết Bàn rực sáng

Hữu tánh nếu có công

Thì thấy được vàng thiệt

Vô tánh nếu có công

Khổ mà không kết quả

Như trấu phủ lên trên

Không thể gọi là gạo

Phiền não phủ lên trên

Cũng không gọi là Phật

Nếu bỏ được vỏ trấu

Rõ ràng là gạo trắng

Xa lìa được phiền não

Pháp thân được hiển hiện

Thế gian lấy thí dụ

Cây chuối không chắc thật

Mà có quả chơn thật

Thực vị như cam lồ

Như sanh tử không thật

Lưu chuyển biển phiền não

Quả ấy chính thể Phật

Thí cam lồ hữu thí

Như vậy với các loại

In tuồng sanh ra quả

Không chủng cũng không quả

Kẻ trí quyết không tin

Chủng tử sanh ra tánh

Chỗ nương của các pháp

Thứ lớp nếu thanh tịnh

Ðạt được quả vị Phật

Nhật nguyệt không cấu uế

Vì năm thứ ngăn che

Mây, sương và khói thảy

Tay-la-hầu và bụi

Như vậy tâm chiếu sáng

Ngăn che bởi năm cấu

Tham ái, sân nhuế, thùy (miên)

Trạo cửnghi hoặc

Như lấy lửa giặt áo

Với các dơ bất tịnh

Nếu đôi vào trong lửa

Cháy dơ không cháy áo

Không loại, các khế kinh

Ðều do Như Lai nói

Thí như đất dưới nước

Thường trụthanh tịnh

Trí ẩn nơi phiền não

Thanh tịnh cũng như vậy

Pháp giới cũng phi ngã

Chẳng nữ cũng chẳng nam

Xa lìa tất cả chấp

Vì sao phân biệt ngã

Các pháp không trói buộc

Nam nữ cũng không có

Ðiều phục kẻ tham mù

Thị hiện tướng nam nữ

Tánh vô thường, khổ, không

Tâm tịnh lự có ba

Tâm tịnh lự tối thắng

Các pháp không tự tánh

Như con trong bào thai

Tuy có mà không hiện

Phân biệt có bốn loại

Ðã sanh bởi đại tạo

Ðại nguyện tất cả Phật

Vô sở hữu, vô tướng

Nhờ tự giác tương ưng

Tánh thường pháp chư Phật

Như nói thỏ có sừng

Phân biệt mà chẳng có

Như vậy tất cả pháp

Phân biệt không thể được

Phân tích như bụi nhỏ

Phân biệt không thể được

Như đầu, cuối cũng vậy.

Trí làm sao phân biệt

Như vậy hòa hợp sanh

Hòa hợp cũng hoại diệt

Một pháp tự chẳng sanh

Vì sao ngu phân biệt?

Dụ hai sừng thỏ, trâu

Ðó gọi tướng biến kế

An trụ nơi trung đạo

Như pháp tánh thiện thệ

Như trăng và tinh tú

Hiện trong hủ nước sạch

Aûnh tượng mới hiển hiện

Như vậy tướng viên thành

Ðầu, giữa đều là thiện

Thường hằng không dối láo

Không có năm thứ ngã

Sao gọi ngã phân biệt?

Thí như khi nấu nước

Nên gọi là nước nóng

Vậy thì khi để lạnh

Thì gọi là nước lạnh

Lưới phiền não che lấp

Thì gọi đó là tâm

Nếu lìa bỏ phiền não

Thì gọi là đẳng giác

Nhãn thức duyên nơi sắc

Aûnh tượng rất thanh tịnh

Không sanh cũng không diệt

Pháp giới không hình tướng

Nhĩ thức duyên nơi tiếng

Thanh tịnh thức ba thứ

Nhờ tự phần riêng nghe

Pháp giới không hình tướng

Mũi theo hương mà ngửi

Không sắc cũng không hình

Tỷ thứcchơn như

Pháp giới nên phân biệt

Thiệt giới tự tánh không

Tánh vị giới xa lìa

Không y cũng không thức

tự tánh pháp giới

Tự tánh thân thanh tịnh

Ðã xúc tưởng hòa hiệp

Xa lìa chỗ sở duyên

Ta nói là pháp giới

Các pháp ý là lớn

Lìa phân biệt năng sở

Pháp giới vô tự tánh

Pháp giớiphân biệt

Hay thấy, nghe và ngửi

Là vị và xúc chạm

Pháp Du Già nên biết

Như vậy tướng viên thành

Nhãn, nhỉ cùng với tỷ

Thiệt, thân và mạt na

Sáu xứ đều thanh tịnh

Tướng của nó như vậy

Tâm thấy có hai loại

Thế gian, xuất thế gian

Chấp ngã nên lưu chuyển

Tự giácchơn như

Vô tậnNiết Bàn

Nếu hết tham và si

Biết nó là Phật thể

Chỗ hữu tình qui y

Tất cả với thân này

Có trí hay không trí

Trói buộc, tự phân biệt

Nhờ ngộ được giải thoát

Bồ đề không gần xa

Không đến cũng không đi

Hoại diệthiển hiện

Với lưới phiền não này

Nói các loại khế kinh

Ðứng trên tự tư duy

Ðèn trí huệ chiếu sáng

Liền được tối thắng tịch

Bồ đề không nghĩ xa

Cũng không có nghĩ gần

ảnh tượng sáu cảnh

Ðều do như vậy biết

Như nước hòa với sữa

Ðồng ở trong một bình

Ngỗng (chúa) uống hết sữa

Chỉ còn nước trong bình

Như vậy trộn phiền não

Và trí ở trong bình

Bậc Du Già uống trí

Vứt bỏ các phiền não

Như vậy ngã, ngã chấp

Cho đến sở thủ chấp

Nếu thấy hai vô ngã

Có chủng mà hoại diệt

Phật Bát Niết Bàn

Thường thanh tịnh vô cấu

Phàm phu phân biệt hai

Kinh Du Già vô nhị

Thì tất cả là khó

Lấy giới nhiếp hữu tình

Nhẫn nhục tất cả tổn

Cõi tăng thêm làm ba

Ðối các pháp tinh tấn

Tâm tịnh lự gia hạnh

Thường tập sự trí tuệ

Lại được tăng Bồ đề

Phương tiện cùng với huệ

Nhờ nguyện đều thanh tịnh

Nhờ lực diệu kiên trí

Cõi thêm làm bốn loại

“Không nên lạy Bồ Tát”

Không sanh ra pháp thân

Không ưa loại cây mía

Lại muốn ăn đường phèn

Nếu bỏ loại cây mía

Làm gì có đường phèn?

Nếu gìn giữ cây mía

Ba thứ mới được sanh

Ðường, một nửa đường phèn

Trong đó mới sanh ra

Nếu giữ tâm Bồ đề

Ba thứ mới sanh ra

Như gìn giữ mạ, lúa

Nông phu nhờ đó sống

Như hạnh thắng giải trước

Như Lai bảo phải giữ

Như ngàn rằm trăng sáng

Thấy rõ mặt trăng tròn

Như vậy Thắng giải hạnh

Aûnh hiện hình tướng Phật

Cũng như trăng mới mọc

Tăng từng phút, từng phút

Như vậy người nhập địa

Từng niệm thấy tăng ích

Như trăng sáng ngày rằm

Mặt trăng mới tròn trịa

Như vậy cứu cánh địa

Pháp thân mới được sanh

Thắng giải kia kiên cố

Thường đối với Phật pháp

Hay phát tâm như vậy

Ðược sự bất thối chuyển

Nhiễm y được chuyển y

Ðược gọi là Tịnh y

Nhờ một phần giác ngộ

Gọi là Cực-Hỷ-Ðịa

Luôn luôn bị nhiễm ô

Dục ... các thứ cấu uế

Không cấu, được thanh tịnh

Gọi là Ly cấu địa

Hoại diệt lưới phiền não

Chiếu diệu được Ly cấu

Lìa vô lượng tối tăm

Gọi là Phát Quang Ðịa

Thanh tịnh thường chiếu sáng

Xa lìa Thế kiết tường

Chung quanh trí huệ chiếu

Gọi là Diệm Huệ Ðịa

Tất cả kỹ nghệ sáng

Trang sức các tỉnh lự

Nan thắng trị phiền não

Ðược thắng nan thắng địa

Với ba thứ Bồ đề

Nhiếp thọ khiến thành tựu

Sanh diệt rất thậm thâm

Gọi là Hiện tiền địa

Du hý nơi lưới sáng

Biến khắp trời Ðế Thích

Vượt qua dòng thác dục

Gọi là Viễn hành địa

Tất cả Phật gia trì

Sáp nhập vào biển trí

Tự tại vô công dụng

Bất động giữa sứ ma

Với các vô ngại giải

Du Già đến bờ kia

Với thuyết pháp đàm luận

Gọi là Thiện huệ địa

Thân nhờ trí mà thành

Như hư không vô cấu

Chư Phật đều hộ trì

Cùng khắp như mây pháp

Chỗ nương tựa Phật pháp

Hạnh quả đều gìn giữ

Sở y đều được chuyển

Nên gọi là pháp thân

Lìa Bất tư nghị luận

Và lìa lưu chuyển tập

Ngươi không nghĩ ý nghĩ

Làm sao mà được biết

Vượt qua các ngôn ngữ

Tất cả căn, phi cảnh

Yù thức đã nắm giữ

Như sở hữu bản ngã

Thứ lớp mà tích tập

Phật tử đại danh xưng

Ðều dùng trí Pháp Vân

Vi tế thấy pháp tánh

Khi nào rửa sạch tâm

Vượt qua biển sanh tử

Ngài dùng hoa sen lớn

Làm tòa lớn an tọa

Vô lượng lá báu sáng

Aùnh sáng báu là đài

Vô lượng ức hoa sen

Cùng khắp là quyến thuộc

Trước dùng mười thứ lực

Dùng bốn loại vô úy

Bất cọng pháp các Phật

Ðại tự tại mà ngồi

Tập hợp tất cả thiện

Phước trí làm lương thực

Trăng tròn giữa các sao

Cùng khắp mà vây quanh

Mới dùng tay Phật nhật

Lấy bảo quang trong sạch

Chiếu trên đầu trưởng tử

Khắp nơi đều thấm nhuần

Ngài trụ Ðại Du già

Ðều thấy bằng thiên nhãn

Vô minh quấy rối đời

Aùc tập khổ, sợ hãi

Giống như ánh sắc vàng

Từ ánh sáng Du già

Kẻ vô tri che lấp

Ðược mở cửa vô minh

Nhờ phước trí chiêu cảm

Nhờ giữ định không chấp

Từ duyên mà viên tịch

Tâm đều được biến hóa

Các pháp không tự tánh

Tự tánh nơi cảnh giới

Bồ Tát vương khéo quán

Pháp thân diệu không

Ðều nhờ thân trong sạch

An trụ nơi biển trí

Liều làm lợi chúng sanh

Như ngọc Ma Ni khéo

Tất cả bậc Du Già

Ðại Du già tự tại

Bóng Phật đều biến hóa

Biến khắp mà lưu xuất

Hoặc người có tám tay

Ba mắt thân bừng sáng

Họ nhờ Du già vương

Biến khắp mà lưu xuất

Ðều nhờ tay Từ bi

Thắng hỷ, nắm cây cung

Bắn bằng tên Bát nhã

Ðoạn hết tế vô minh

Dùng đại lực tiến lên

Nắm giữ gậy trí huệ

Tất cả giống vô minh

Thảy đều bị dập nát

Các hữu tình sức lực

Kim Cang thân rực rỡ

điều phục hữu tình

Phải dùng Kim Cang thủ

Tự mình là tác giả

Thị hiện các thứ tập

Dạy dỗ đúng giáo lý

Biến làm vua bình đẳng

Ðói khát thiêu đốt thân

Thí như các ẩm thực

Thường khổ vì bệnh tật

Thí làm Y vương giỏi

Ma vương mong não loạn

Ma nữ làm mê hoặc

Bồ Tát làm thân hữu

Hay thí chỗ Bồ đề

Như mặt trời, mặt trăng

Aùnh sáng ai cũng thích

Thông chảy như điện sáng

Chiếu diệu vô số cõi

Do nhờ một ngọn đèn

Chiếu khắp nơi đều sáng

Nếu một đèn bị tắt

Tất cả đèn tắt theo

Như vậy Phật dị thục

Thị hiện các ánh sáng

Một Phật hiện Niết bàn

Các Phật cũng qui tịch

Một vị không diệt độ

Trời sáng làm sao tối

Thường hiện sự sanh diệt

Thường hiện biển sát độ

Kẻ vô trí đời tối

Hay tịnh trí huệ nhãn

Ði đến vô số cõi

Xót thương các hữu tình

Ngài đều không mệt mỏi

Nhờ áo giáp đại từ

Với tất cả thần túc

Du già đến bỉ ngạn

Ðều quán thời, phi thời

Khiến họ được lưu chuyển

Cứng rắn với dua nịnh

Tức thời liền vứt bỏ

Ðộ vô lượng hữu tình

Tức thì khiến thanh tịnh

Vô lượng Phật biến hóa

Tức thì được đổi dạng

Với trong biển ba cõi

Giăng tấm lưới điều phục

Co duỗi lưới diệu pháp

Phổ biến khiến thành thục

Nhờ dùng lưới điều phục

Khắp nơi được thành thục

Khắp nơi được giác ngộ

Kẻ phiêu lưu trong đó

Như hàng ngàn hữu tình

Ðã độ thoát tất cả

Ðộ rồi khiến giác ngộ

Không nghi ngờ diệu pháp

Chuông diệu pháp Thế Tôn

Khiến tất cả được nghe

Nhờ diệu pháp chấn động

Trừ sạch bụi phiền não

Người vô minh, tăng thượng

Khiến thanh tịnh tức khắc

Dùng sức sáng mặt trời

Chiếu phá sự mù tối

Vì theo phiền não tối

Và tội khác của thân

Khiến họ làm lợi ích

Dần dần được thanh tịnh

Nơi nơi người hiện hóa

An trụ như thủy nguyệt

Phiền não khuấy nhiễu tâm

Không thấy được Như Lai

Như ngạ quỷ ở biển

Chỉ thấy toàn biển khô

Như vậy kẻ ít phước

Không thể thấy được Phật

Kẻ hữu tình ít phước

Làm sao thành Như Lai?!

Như kẻ mù lúc sanh

Ngồi trên đống châu báu

Làm sao mà thấy được?!

Pháp thân bậc vô thượng

Thân Nhật quang vô số

Lưới ánh sáng vây quanh

Chư thiên ít thiện phước

Nên không thể thấy được

Bậc trời lớn ở trên

Làm sao mà thấy được?

Sắc ngài không thể thấy

Chư thiên lìa phiền não

Thiên, Tu la, Phạm thảy

Vì sao còn chút huệ

Nhưng nhờ oai lực Phật

thanh tịnh tự tâm

Mới thấy được thân Phật

Ðược tất cả lợi ích

Hữu tình phước đoan nghiêm

Phật đứng trước người đó

Hào quang chiếu diệu thân

Ba mươi hai tướng tốt

Bậc trượng phu như vậy

Thầy giống như biển lớn

Không cần nhiều thời gian

Liền được trí như biển

Sắc thân của Thế Tôn

An trụ trong nhiều kiếp

Ðiều phục kẻ khó điều

Dẫn đến giới các loại

Ðại Du già sống lâu

Vì sao lại chết yểu

Với vô số người khác

Thị hiện tuổi tăng giảm

Vô lượng vô số kiếp

Từng mạng sống tăng trưởng

Nhân duyên vô cùng tận

Ðạt được quả vô tận.

Nếu ai tương ưng hiểu lý này

Lấy huệ phân tích ngay nơi thân

Kẻ ấy sanh nơi Tịnh Liên Hoa

Nghe pháp Phật nói vô lượng thọ.

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12057)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10755)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9936)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10164)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14317)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12086)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15332)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16534)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12646)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13483)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11935)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11833)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12881)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17999)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12159)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10286)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12196)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11457)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19676)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant