Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chứng Đạo Ca

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 23062)
Chứng Đạo Ca


CHỨNG ĐẠO CA


 HUYỀN GIÁC

Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn


 chung_dao_ca_ht_thuyen_an


I. Ngộ Phật tánh:

 1. Ai có hay chăng bực Đạo nhân

 Vô vi tuyệt học, vọng là chân?

 Chính vô minh tánh: Bồ đề tánh

 Thân huyễn không nầy tức Pháp thân.

 

 2. Đốn ngộ Pháp thân vạn vật không

 Pháp thân, Phật tánh bản nguyên đồng

 Thân mây năm ấm bay qua lại

 Ba độc nổi chìm bọt biển đông.

 

 3. Thực tướng chứng rồi không pháp, nhân

 Diệt A-tỳ nghiệp sát na phân

 Nếu ta vọng ngữ lừa nhân thế

 Lưỡi cắt ngàn đời tội vướng thân.

 

II. Cảnh giới tự chứng:

 4. Hoát nhiên đốn ngộ Như Lai thiền

 Sáu độ vẹn toàn muôn hạnh viên

 Mê mộng đó đây sinh lục thú

 Giác rồi không cả cõi tam thiên.

 

 5. Không tội phước, không thêm bớt đâu

 Bản nhiên tánh tịnh chớ tìm cầu

 Từ xưa gương bụi chưa lau rửa

 Tẩy sạch ngay đi đừng đợi lâu.

 

 6. Ai không niệm? Liễu ngộ không sanh

 Nếu có không sanh, không chẳng sanh

 Xin hỏi mộc nhân[1] nguyên cớ ấy

 Giúp công nhờ Phật việc không thành.

 

 7. Buông bốn đại không hề vướng mang

 Trong tâm ăn uống sống thanh nhàn

 Vô thường vạn pháp toàn không cả

 Viên Giác Như Lai huệ ngọc vàng.

 

III. Bảo tạng Như Lai:

 8. Nói quyết định nêu rõ Thánh tăng

 Có người chưa dám lộ cao đăng

 Chân tâm liễu ngộ Phật minh chứng

 Vạch lá tìm cành không khả năng.

 

 9. Ma-ni châu, có ai hay đâu

 Bảo tạng Như Lai toàn vẹn thâu

 Vô tận thần thông gì chẳng có

 Viên quang diệu thể quá thâm sâu.

 

 10. Tịnh năm nhãn, diệu lực toàn năng

 Ai chứng mới hay người thấu chăng

 Ngắm ảnh trong gương điều chẳng khó

 Đáy song ai dễ kiếm mò trăng.

 

IV. Niết bàn lộ:

 11. Thường độc hành, đi bộ một mình

 Niết bàn lộ liễu ngộ quang minh

 Tinh thần trầm mặc, hình siêu thoát

 Thân huyễn không nầy đầy tánh linh.

 

 12. Xuất gia thoát tục làm bần tăng

 Say đạo, vui nghèo, quên khó khăn

 Nghèo tất thân choàng manh áo rách

 Đạo thì tâm ngọc sáng như trăng.

 

13. Dùng chẳng hết vô giá bảo châu

 Tùy duyên cứu độ thiếu gì đâu

 Ba thân, bốn trí tâm sẵn đủ

 Tám giải, sáu thông Đạo nhiệm mầu.

 

14. Thượng sĩ quyết tâm tất cả thông

 Bực trung, bực hạ ngu và ngông

 Hãy tìm bảo ngọc trong áo rách

 Vô ích bề ngoài khoe tính công.

 

V. Chuyển chướng duyên thành trợ duyên:

 15. Mặc ai hủy báng, chê bai gì

 Đem lửa đốt trời có ích chi

 Lời mắng nghe như cam lộ thủy

 Tiêu dung thể nhập nan tư nghì.

 

 16. Xem như công đức những rầy la

 Người ấy thiện tri thức của ta

 Không khởi hận thù, không oán trách

 Nhân từ, nhẫn nhục lòng dung tha.

 

VI. Thông đạt:

 17. Đạo lý suốt thông, tông chỉ thông

 Sáng ngời định tuệ bỏ mê không

 Điều nầy nào chỉ mình ta đạt

 Chư Phật hằng sa ngộ tánh đồng.

 

 18. Sư tử rống lên vô úy thanh

 Thất kinh muôn thú chạy tan tành

 Cong đuôi hoảng nhảy chúa voi trốn

 Thiên long nghe được tâm an lành.

 

VII. Tâm ấn Tào khê:

 19. Đạo rừng thiêng, thưởng ngoạn trùng dương

 Học đạo tầm sư khắp vạn phương

 Từ lúc Tào khê duyên hạnh ngộ

 Liễu sinh thoát tử chứng chân thường.

 

 20. Ngồi cũng thiền, đi đứng cũng thiền

 Nói phô động tịnh tâm an nhiên

 Kiếm đao hung dữ lòng thanh tịnh

 Độc dược vướng nhằm thân vẫn yên.

 

VIII. Tự giác:

 21. Bổn sư ta gặp Phật Nhiên Đăng

 Tu nhẫn nhục tiên nhiều khó khăn

 Sinh tử, tử sinh bao nạn kiếp

 Liễu sinh thoát tử Phật cao thăng.

 

 22. Từ khi đốn ngộ pháp vô sinh

 Vui khổ không còn đổi nhục vinh

 Vào tận thâm sơn, Lan nhã

 Rừng tùng xanh, núi ngợp U linh

 Tọa thiền thanh thản quên trần thế

 Siêu thoát an nhiên trí tuệ minh.

 

 23. Giác là liễu ngộ không thi công

 Các pháp hữu vi vốn bất đồng

 Bố thí phước sinh trời hưởng lạc

 Thân như tên bắn lên hư không

 Đến khi lực hết tên rơi xuống

 Phiêu bạt trầm luân khổ não lòng

 Đốn ngộ pháp môn: Chân thực pháp

 Ai tu triệt chứng Như Lai tông.

 

IX. Giác tha:

 24. Cội gốc phải lo, chớ bận cành

 Lưu ly ngậm trọn trăng trời xanh

 Trân châu ý ấy ai thông đạt

 Độ thế cứu nhân siêu tuyệt danh

 Trăng chiếu trên sông, tùng vút gió

 Tuyệt vời trăng, nhạc thiền thanh thanh.

 

 25. Phật tánh viên minh ẩn chứng tâm

 Cà sa Phật bận hết thăng trầm

 Hàng long bình bát, trượng trừ hổ

 Hai dãy vòng vàng ngân diệu âm

 Pháp khí trân châu không hủy bỏ

 Như Lai dấu tích chẳng sai lầm.

 

X. Như Lai địa:

 26. Chẳng đoạn vọng, rồi chẳng chứng chân

 Vọng chân không tướng khó ai phân

 Không “KHÔNG”, không “CÓ” siêu siêu hết

 Chính đấy Như Lai chân Pháp thân.

 

 27. Chân tâm sáng chiếu khắp nơi nơi

 Thế giới hằng sa quá tuyệt vời

 Vạn pháp muôn trùng tâm hiện rõ

 Viên quang diệu thể khó nên lời.

 

 28. Chẳng tin nhân quả, đắm mê không

 Phóng đãng nghênh ngang họa vướng vòng

 Bỏ “CÓ”, chấp “KHÔNG” bịnh cũng thế

 Khác nào tránh nước, lửa thiêu ông.

 

 29. Chân lý giữ, tâm vọng bỏ xa

 Tâm thủ xả nầy loại quái ma

 Liễu ngộ chẳng thông tu luyện bậy

 Bỏ con ôm giặc đừng rên la.

 

 30. Tâm, ý, thức mê vọng ám đi

 Mất công đức, đạo lực còn gì

 Nên thiền môn dạy thông tâm pháp

 Đốn ngộ vô sanh trí diệu vi.

 

XI. Hành Như Lai sự:

 31. Đại trượng phu, thanh kiếm huệ cầm

 Tuyệt vời bát nhã ngời chân tâm

 Thiên ma khiếp đảm tàn lui bước

 Ngoại đạo tỉnh mê bỏ chấp lầm.

 

 32. Pháp âm ngân, sấm pháp rền vang

 Cam lộ mưa rơi trong nắng vàng

 Vạn loại tam thừa đều giải thoát

 Siêu nhân xuất hiện cứu trần gian.

 

XII. Pháp tánh viên dung:

 33. Cỏ phì nhị[2] tuyết sơn tươi xanh

 Nơi tạo đề hồ ta biết danh

 Một tánh bao hàm tất cả tánh

 Viên dung một pháp vạn hình sanh

 Ánh trăng chiếu khắp muôn sông nước

 Trăng nước muôn sông một ánh trăng

 Chư Phật pháp thân tâm liễu nhiếp

 Tâm ta, tâm Phật: diệu huyền đăng.

 

 34. Tất cả địa trong một địa thông

 Chẳng tâm, chẳng sắc, chẳng tây đông

 Sát na diệt nghiệp ba kỳ kiếp[3]

 Pháp môn muôn vạn phút giây xong

 Văn chương chữ nghĩa toàn không cả

 Chẳng dính líugiác tánh ông.

 

 35. Chê khen vượt thoát, tâm thường an

 Tĩnh lặng hư không thể niết bàn

 Viên giác diệu tâm ngay trước mặt

 Tìm là không thấy chớ nghênh ngang

 Vướng vào thủ xả toàn không được

 Không được ấy mà giác đạo quang

 Lúc nói im, khi im lại nói

 Mở khai thí hội tâm thênh thang.

 

 36. Có người lại hỏi giảng tông gì?

 Bát nhã kinh truyền tâm đại bi

 Hoặc trái, hoặc sai người chẳng biết

 Việc làm thuận nghịch trời hay chi.

 

XIII. Truyền tâm pháp yếu:

 37. Trải qua nhiều kiếp ta chuyên tu

 Nào dại bịp người hạnh ngốc ngu

 Khai đạo tràng, truyền tâm pháp yếu

 Tào khê liễu ngộ Tổ công phu.

 

 38. Ca Diếp truyền tâm vị Tổ đầu

 Tây thiên hăm tám Tổ truyền nhau

 Khai thiền Đông độ Đạt Ma Tổ

 Y bát tâm truyền sáu Tổ sau

 Tiếp nối nhiều người tâm Phật chứng

 Truyền tâm đốn ngộ: Pháp tu mau.

 

 39. Chân không lập, vọng vốn toàn không

 Trút bỏ có không mê chấp thông

 Không tưởng đắm say trừ sạch hết

 Như Lai thể tánh xưa nay đồng.

 

 40. Tâm thành căn, pháp biến ra trần

 Như bụi che gương đều khó phân

 Căn cảnh băng tiêu gương bụi sạch

 Ngàn đời lưu hộ Như Lai thân.

 

XIV. Ma chướng thời mạt pháp:

 41. Than ôi! Mạt pháp: ác gian thời!

 Phước bạc chúng sinh say đắm đời

 Cách Phật lâu xa tà kiến nặng

 Ma cường pháp nhược oán không vơi

 Được nghe đốn ngộ Như Lai giáo

 Cuồng hận phá, tan nát tả tơi.

 

 42. Ác do tâm, khổ lụy thân sầu

 Chớ oán trời người, không được đâu

 Muốn khỏi sa vào vô gián ngục

 Như Lai diệu pháp phải qui đầu.

 

XV. Khí tượng Phật thừa:

 43. Thú thường không ở rừng chiên đàn

 Sư tử một mình sống dọc ngang

 Lãnh chúa sơn lâm uy dũng ngắm

 Thú chim trốn đến nơi bình an.

 

 44. Sống cạnh Mẹ đàn sư tử con

 Lúc lên ba tuổi hét vang non

 Chó rừng, muôn thú run lo sợ

 Khi thấy Pháp vương vía chẳng còn.

 

XVI. Pháp viên đốn:

 45. Pháp viên đốn vượt thoát thường tình

 Diệt bỏ nghi nan chớ để sinh

 Nhân ngã luận bàn xin chẳng dám

 Đoạn, thường hố thẳm tránh điêu linh.

 

 46. Thị chẳng thị, phi cũng chẳng phi

 Lạc xa ngàn dặm, sai hào li

 Thị như Long nữ khắc thành Phật

 Thiện Tịnh vì phi đọa A-tỳ.

 

XVII. Chứng tích cá nhân:

 47. Ta nay học vấn đã từ lâu

 Kinh luận sớ sao nghiên cứu sâu

 Mê đắm văn chương quên nhọc mệt

 Biển mò đếm cát ngu như trâu

 Đáng nghe quở trách Như Lai mắng

 Đếm bảo châu người lợi ích đâu?

 Tính lại mới hay công sức phí

 Làm phong trần khách nhiều đêm thâu.

 

 48. Hiểu lầm lạc, tánh chấp mê

 Đốn giáo Như Lai không ngộ ra

 Tinh tiến tiểu thừa thiếu huệ lực

 Thông minh ngoại đạo trí yêu ma

 Vừa ngông ngu, lại vừa thơ dại

 Tay chỉ trời khờ khạo tưởng là:

 “Tay chính mặt trăng”. Si tối thế!

 U mê căn cảnh loạn phong ba.

 

 49. Rời xa các tướng tức Như Lai

 Như Quán Thế Âm giác huệ khai

 Liễu được, tan vong toàn nghiệp chướng

 Bằng không, oan trái vướng lâu dài.

 

 50. Đói gặp tiệc vua không thể ăn

 Bịnh xa thầy thuốc bịnh càng tăng

 Thiền trong rừng dục thiền kiên cố

 Biển lửa sen sinh thân vạn năng

 Phạm giới Dũng Thi tâm liễu ngộ

 Sớm thành Phật đạo quả cao đăng.

 

XVIII. Duy Ma sư tử hống:

 51. Sư tử rống lên giọng dũng uy

 Thương người mê tối lắm ngu si

 Chỉ hay phạm trọng[4], chướng thành Phật

 Chẳng rõ Như Lai ý diệu vi.

 

 52. Hai vị tỳ kheo phạm sát, dâm

 Ba-ly trí cạn tội phân lầm

 Duy Ma Đại sĩ trừ nghi hoặc

 Tội tiêu, vọng hết, chứng chân tâm.

 

 53. Giải thoát nhiệm mầu sức tuyệt vời

 Hằng sa diệu dụng hiện nơi nơi

 Cúng dường tứ sự dâng không thiếu

 Hiến triệu lượng vàng, hiến trọn đời

 Thịt nát xương tan, đền chẳng đủ

 Trần gian siêu thoát một câu thôi.

 

XIX. Pháp vương:

 54. Tối thắng Pháp vương: Đức Thế Tôn

 Đồng nhau chư Phật chứng tâm môn

 Pháp vương tâm ngọc ta minh ngộ

 Quên hết trần gian những dại khôn.

 

 55. Liễu thoát thấy: không một vật nào

 Không người, không Phật, không trăng sao.

 Hằng sa thế giới: bọt trong biển

 Tất cả Thánh hiền: điện chớp cao.

 

 56. Giả sử thiết luân quay đỉnh đầu

 Viên minh định tuệ mất nào đâu

 Mặt trời lạnh, hoặc vừng trăng bừng nóng

 Ma quỷ phải hàng Phật đạo mầu

 Đường dốc xe voi lên vững mạnh

 Cản đường châu chấu chuyện còn lâu.

 

 57. Voi lớn không theo dấu thỏ đi

 Ngộ rồi chấp tiểu tiết làm gì

 Ếch ngồi đáy giếng chê trời hẹp

 Chưa ngộ ta bày chỗ diệu vi.

 

 Phật tử Quảng Minh đánh máy vi tính – 16/12/2013


[1] Mộc nhân: Người bằng gỗ.

[2] Phì nhị: Tương truyền trên tuyết sơn có loại cỏ rất quí tên là phì nhị, bò ăn loại cỏ nầy sinh ra sữa rất quí. Đem sữa ấy nấu và chế biến thành đề hồ, là thức ăn rất bổ dưỡng cho cơ thể.

[3] Ba kỳ kiếp: Gọi đủ là ba A tăng kỳ kiếp, có nghĩa là ba vô số kiếp.

[4] Phạm trọng: Phạm bốn trọng giới: Sát, Đạo, Dâm, Vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22272)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16005)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15016)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18936)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14434)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18613)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14407)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13573)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13541)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11806)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13227)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13922)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15015)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16441)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11892)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17580)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12865)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13694)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12850)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14849)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16371)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12075)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12759)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12884)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12766)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14156)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14099)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12372)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14372)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11295)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11017)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13182)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13882)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13150)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12993)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13484)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12720)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13955)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13691)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11946)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11628)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12662)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10790)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10975)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10930)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11881)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12750)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11052)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12606)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11311)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant