Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chứng Đạo Ca

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 23077)
Chứng Đạo Ca


CHỨNG ĐẠO CA


 HUYỀN GIÁC

Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn


 chung_dao_ca_ht_thuyen_an


I. Ngộ Phật tánh:

 1. Ai có hay chăng bực Đạo nhân

 Vô vi tuyệt học, vọng là chân?

 Chính vô minh tánh: Bồ đề tánh

 Thân huyễn không nầy tức Pháp thân.

 

 2. Đốn ngộ Pháp thân vạn vật không

 Pháp thân, Phật tánh bản nguyên đồng

 Thân mây năm ấm bay qua lại

 Ba độc nổi chìm bọt biển đông.

 

 3. Thực tướng chứng rồi không pháp, nhân

 Diệt A-tỳ nghiệp sát na phân

 Nếu ta vọng ngữ lừa nhân thế

 Lưỡi cắt ngàn đời tội vướng thân.

 

II. Cảnh giới tự chứng:

 4. Hoát nhiên đốn ngộ Như Lai thiền

 Sáu độ vẹn toàn muôn hạnh viên

 Mê mộng đó đây sinh lục thú

 Giác rồi không cả cõi tam thiên.

 

 5. Không tội phước, không thêm bớt đâu

 Bản nhiên tánh tịnh chớ tìm cầu

 Từ xưa gương bụi chưa lau rửa

 Tẩy sạch ngay đi đừng đợi lâu.

 

 6. Ai không niệm? Liễu ngộ không sanh

 Nếu có không sanh, không chẳng sanh

 Xin hỏi mộc nhân[1] nguyên cớ ấy

 Giúp công nhờ Phật việc không thành.

 

 7. Buông bốn đại không hề vướng mang

 Trong tâm ăn uống sống thanh nhàn

 Vô thường vạn pháp toàn không cả

 Viên Giác Như Lai huệ ngọc vàng.

 

III. Bảo tạng Như Lai:

 8. Nói quyết định nêu rõ Thánh tăng

 Có người chưa dám lộ cao đăng

 Chân tâm liễu ngộ Phật minh chứng

 Vạch lá tìm cành không khả năng.

 

 9. Ma-ni châu, có ai hay đâu

 Bảo tạng Như Lai toàn vẹn thâu

 Vô tận thần thông gì chẳng có

 Viên quang diệu thể quá thâm sâu.

 

 10. Tịnh năm nhãn, diệu lực toàn năng

 Ai chứng mới hay người thấu chăng

 Ngắm ảnh trong gương điều chẳng khó

 Đáy song ai dễ kiếm mò trăng.

 

IV. Niết bàn lộ:

 11. Thường độc hành, đi bộ một mình

 Niết bàn lộ liễu ngộ quang minh

 Tinh thần trầm mặc, hình siêu thoát

 Thân huyễn không nầy đầy tánh linh.

 

 12. Xuất gia thoát tục làm bần tăng

 Say đạo, vui nghèo, quên khó khăn

 Nghèo tất thân choàng manh áo rách

 Đạo thì tâm ngọc sáng như trăng.

 

13. Dùng chẳng hết vô giá bảo châu

 Tùy duyên cứu độ thiếu gì đâu

 Ba thân, bốn trí tâm sẵn đủ

 Tám giải, sáu thông Đạo nhiệm mầu.

 

14. Thượng sĩ quyết tâm tất cả thông

 Bực trung, bực hạ ngu và ngông

 Hãy tìm bảo ngọc trong áo rách

 Vô ích bề ngoài khoe tính công.

 

V. Chuyển chướng duyên thành trợ duyên:

 15. Mặc ai hủy báng, chê bai gì

 Đem lửa đốt trời có ích chi

 Lời mắng nghe như cam lộ thủy

 Tiêu dung thể nhập nan tư nghì.

 

 16. Xem như công đức những rầy la

 Người ấy thiện tri thức của ta

 Không khởi hận thù, không oán trách

 Nhân từ, nhẫn nhục lòng dung tha.

 

VI. Thông đạt:

 17. Đạo lý suốt thông, tông chỉ thông

 Sáng ngời định tuệ bỏ mê không

 Điều nầy nào chỉ mình ta đạt

 Chư Phật hằng sa ngộ tánh đồng.

 

 18. Sư tử rống lên vô úy thanh

 Thất kinh muôn thú chạy tan tành

 Cong đuôi hoảng nhảy chúa voi trốn

 Thiên long nghe được tâm an lành.

 

VII. Tâm ấn Tào khê:

 19. Đạo rừng thiêng, thưởng ngoạn trùng dương

 Học đạo tầm sư khắp vạn phương

 Từ lúc Tào khê duyên hạnh ngộ

 Liễu sinh thoát tử chứng chân thường.

 

 20. Ngồi cũng thiền, đi đứng cũng thiền

 Nói phô động tịnh tâm an nhiên

 Kiếm đao hung dữ lòng thanh tịnh

 Độc dược vướng nhằm thân vẫn yên.

 

VIII. Tự giác:

 21. Bổn sư ta gặp Phật Nhiên Đăng

 Tu nhẫn nhục tiên nhiều khó khăn

 Sinh tử, tử sinh bao nạn kiếp

 Liễu sinh thoát tử Phật cao thăng.

 

 22. Từ khi đốn ngộ pháp vô sinh

 Vui khổ không còn đổi nhục vinh

 Vào tận thâm sơn, Lan nhã

 Rừng tùng xanh, núi ngợp U linh

 Tọa thiền thanh thản quên trần thế

 Siêu thoát an nhiên trí tuệ minh.

 

 23. Giác là liễu ngộ không thi công

 Các pháp hữu vi vốn bất đồng

 Bố thí phước sinh trời hưởng lạc

 Thân như tên bắn lên hư không

 Đến khi lực hết tên rơi xuống

 Phiêu bạt trầm luân khổ não lòng

 Đốn ngộ pháp môn: Chân thực pháp

 Ai tu triệt chứng Như Lai tông.

 

IX. Giác tha:

 24. Cội gốc phải lo, chớ bận cành

 Lưu ly ngậm trọn trăng trời xanh

 Trân châu ý ấy ai thông đạt

 Độ thế cứu nhân siêu tuyệt danh

 Trăng chiếu trên sông, tùng vút gió

 Tuyệt vời trăng, nhạc thiền thanh thanh.

 

 25. Phật tánh viên minh ẩn chứng tâm

 Cà sa Phật bận hết thăng trầm

 Hàng long bình bát, trượng trừ hổ

 Hai dãy vòng vàng ngân diệu âm

 Pháp khí trân châu không hủy bỏ

 Như Lai dấu tích chẳng sai lầm.

 

X. Như Lai địa:

 26. Chẳng đoạn vọng, rồi chẳng chứng chân

 Vọng chân không tướng khó ai phân

 Không “KHÔNG”, không “CÓ” siêu siêu hết

 Chính đấy Như Lai chân Pháp thân.

 

 27. Chân tâm sáng chiếu khắp nơi nơi

 Thế giới hằng sa quá tuyệt vời

 Vạn pháp muôn trùng tâm hiện rõ

 Viên quang diệu thể khó nên lời.

 

 28. Chẳng tin nhân quả, đắm mê không

 Phóng đãng nghênh ngang họa vướng vòng

 Bỏ “CÓ”, chấp “KHÔNG” bịnh cũng thế

 Khác nào tránh nước, lửa thiêu ông.

 

 29. Chân lý giữ, tâm vọng bỏ xa

 Tâm thủ xả nầy loại quái ma

 Liễu ngộ chẳng thông tu luyện bậy

 Bỏ con ôm giặc đừng rên la.

 

 30. Tâm, ý, thức mê vọng ám đi

 Mất công đức, đạo lực còn gì

 Nên thiền môn dạy thông tâm pháp

 Đốn ngộ vô sanh trí diệu vi.

 

XI. Hành Như Lai sự:

 31. Đại trượng phu, thanh kiếm huệ cầm

 Tuyệt vời bát nhã ngời chân tâm

 Thiên ma khiếp đảm tàn lui bước

 Ngoại đạo tỉnh mê bỏ chấp lầm.

 

 32. Pháp âm ngân, sấm pháp rền vang

 Cam lộ mưa rơi trong nắng vàng

 Vạn loại tam thừa đều giải thoát

 Siêu nhân xuất hiện cứu trần gian.

 

XII. Pháp tánh viên dung:

 33. Cỏ phì nhị[2] tuyết sơn tươi xanh

 Nơi tạo đề hồ ta biết danh

 Một tánh bao hàm tất cả tánh

 Viên dung một pháp vạn hình sanh

 Ánh trăng chiếu khắp muôn sông nước

 Trăng nước muôn sông một ánh trăng

 Chư Phật pháp thân tâm liễu nhiếp

 Tâm ta, tâm Phật: diệu huyền đăng.

 

 34. Tất cả địa trong một địa thông

 Chẳng tâm, chẳng sắc, chẳng tây đông

 Sát na diệt nghiệp ba kỳ kiếp[3]

 Pháp môn muôn vạn phút giây xong

 Văn chương chữ nghĩa toàn không cả

 Chẳng dính líugiác tánh ông.

 

 35. Chê khen vượt thoát, tâm thường an

 Tĩnh lặng hư không thể niết bàn

 Viên giác diệu tâm ngay trước mặt

 Tìm là không thấy chớ nghênh ngang

 Vướng vào thủ xả toàn không được

 Không được ấy mà giác đạo quang

 Lúc nói im, khi im lại nói

 Mở khai thí hội tâm thênh thang.

 

 36. Có người lại hỏi giảng tông gì?

 Bát nhã kinh truyền tâm đại bi

 Hoặc trái, hoặc sai người chẳng biết

 Việc làm thuận nghịch trời hay chi.

 

XIII. Truyền tâm pháp yếu:

 37. Trải qua nhiều kiếp ta chuyên tu

 Nào dại bịp người hạnh ngốc ngu

 Khai đạo tràng, truyền tâm pháp yếu

 Tào khê liễu ngộ Tổ công phu.

 

 38. Ca Diếp truyền tâm vị Tổ đầu

 Tây thiên hăm tám Tổ truyền nhau

 Khai thiền Đông độ Đạt Ma Tổ

 Y bát tâm truyền sáu Tổ sau

 Tiếp nối nhiều người tâm Phật chứng

 Truyền tâm đốn ngộ: Pháp tu mau.

 

 39. Chân không lập, vọng vốn toàn không

 Trút bỏ có không mê chấp thông

 Không tưởng đắm say trừ sạch hết

 Như Lai thể tánh xưa nay đồng.

 

 40. Tâm thành căn, pháp biến ra trần

 Như bụi che gương đều khó phân

 Căn cảnh băng tiêu gương bụi sạch

 Ngàn đời lưu hộ Như Lai thân.

 

XIV. Ma chướng thời mạt pháp:

 41. Than ôi! Mạt pháp: ác gian thời!

 Phước bạc chúng sinh say đắm đời

 Cách Phật lâu xa tà kiến nặng

 Ma cường pháp nhược oán không vơi

 Được nghe đốn ngộ Như Lai giáo

 Cuồng hận phá, tan nát tả tơi.

 

 42. Ác do tâm, khổ lụy thân sầu

 Chớ oán trời người, không được đâu

 Muốn khỏi sa vào vô gián ngục

 Như Lai diệu pháp phải qui đầu.

 

XV. Khí tượng Phật thừa:

 43. Thú thường không ở rừng chiên đàn

 Sư tử một mình sống dọc ngang

 Lãnh chúa sơn lâm uy dũng ngắm

 Thú chim trốn đến nơi bình an.

 

 44. Sống cạnh Mẹ đàn sư tử con

 Lúc lên ba tuổi hét vang non

 Chó rừng, muôn thú run lo sợ

 Khi thấy Pháp vương vía chẳng còn.

 

XVI. Pháp viên đốn:

 45. Pháp viên đốn vượt thoát thường tình

 Diệt bỏ nghi nan chớ để sinh

 Nhân ngã luận bàn xin chẳng dám

 Đoạn, thường hố thẳm tránh điêu linh.

 

 46. Thị chẳng thị, phi cũng chẳng phi

 Lạc xa ngàn dặm, sai hào li

 Thị như Long nữ khắc thành Phật

 Thiện Tịnh vì phi đọa A-tỳ.

 

XVII. Chứng tích cá nhân:

 47. Ta nay học vấn đã từ lâu

 Kinh luận sớ sao nghiên cứu sâu

 Mê đắm văn chương quên nhọc mệt

 Biển mò đếm cát ngu như trâu

 Đáng nghe quở trách Như Lai mắng

 Đếm bảo châu người lợi ích đâu?

 Tính lại mới hay công sức phí

 Làm phong trần khách nhiều đêm thâu.

 

 48. Hiểu lầm lạc, tánh chấp mê

 Đốn giáo Như Lai không ngộ ra

 Tinh tiến tiểu thừa thiếu huệ lực

 Thông minh ngoại đạo trí yêu ma

 Vừa ngông ngu, lại vừa thơ dại

 Tay chỉ trời khờ khạo tưởng là:

 “Tay chính mặt trăng”. Si tối thế!

 U mê căn cảnh loạn phong ba.

 

 49. Rời xa các tướng tức Như Lai

 Như Quán Thế Âm giác huệ khai

 Liễu được, tan vong toàn nghiệp chướng

 Bằng không, oan trái vướng lâu dài.

 

 50. Đói gặp tiệc vua không thể ăn

 Bịnh xa thầy thuốc bịnh càng tăng

 Thiền trong rừng dục thiền kiên cố

 Biển lửa sen sinh thân vạn năng

 Phạm giới Dũng Thi tâm liễu ngộ

 Sớm thành Phật đạo quả cao đăng.

 

XVIII. Duy Ma sư tử hống:

 51. Sư tử rống lên giọng dũng uy

 Thương người mê tối lắm ngu si

 Chỉ hay phạm trọng[4], chướng thành Phật

 Chẳng rõ Như Lai ý diệu vi.

 

 52. Hai vị tỳ kheo phạm sát, dâm

 Ba-ly trí cạn tội phân lầm

 Duy Ma Đại sĩ trừ nghi hoặc

 Tội tiêu, vọng hết, chứng chân tâm.

 

 53. Giải thoát nhiệm mầu sức tuyệt vời

 Hằng sa diệu dụng hiện nơi nơi

 Cúng dường tứ sự dâng không thiếu

 Hiến triệu lượng vàng, hiến trọn đời

 Thịt nát xương tan, đền chẳng đủ

 Trần gian siêu thoát một câu thôi.

 

XIX. Pháp vương:

 54. Tối thắng Pháp vương: Đức Thế Tôn

 Đồng nhau chư Phật chứng tâm môn

 Pháp vương tâm ngọc ta minh ngộ

 Quên hết trần gian những dại khôn.

 

 55. Liễu thoát thấy: không một vật nào

 Không người, không Phật, không trăng sao.

 Hằng sa thế giới: bọt trong biển

 Tất cả Thánh hiền: điện chớp cao.

 

 56. Giả sử thiết luân quay đỉnh đầu

 Viên minh định tuệ mất nào đâu

 Mặt trời lạnh, hoặc vừng trăng bừng nóng

 Ma quỷ phải hàng Phật đạo mầu

 Đường dốc xe voi lên vững mạnh

 Cản đường châu chấu chuyện còn lâu.

 

 57. Voi lớn không theo dấu thỏ đi

 Ngộ rồi chấp tiểu tiết làm gì

 Ếch ngồi đáy giếng chê trời hẹp

 Chưa ngộ ta bày chỗ diệu vi.

 

 Phật tử Quảng Minh đánh máy vi tính – 16/12/2013


[1] Mộc nhân: Người bằng gỗ.

[2] Phì nhị: Tương truyền trên tuyết sơn có loại cỏ rất quí tên là phì nhị, bò ăn loại cỏ nầy sinh ra sữa rất quí. Đem sữa ấy nấu và chế biến thành đề hồ, là thức ăn rất bổ dưỡng cho cơ thể.

[3] Ba kỳ kiếp: Gọi đủ là ba A tăng kỳ kiếp, có nghĩa là ba vô số kiếp.

[4] Phạm trọng: Phạm bốn trọng giới: Sát, Đạo, Dâm, Vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12524)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14113)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10856)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10526)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11199)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12007)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13158)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13654)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33678)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13065)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17902)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11450)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11866)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11514)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18982)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12558)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11349)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15784)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11825)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11703)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12639)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13974)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13003)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12955)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13303)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12780)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12705)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11758)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12332)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12392)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11970)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16893)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15066)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16129)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12894)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12248)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11923)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11931)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16514)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12502)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11827)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19866)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11265)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10407)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11103)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10976)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10041)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant