Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chứng Đạo Ca

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 22911)
Chứng Đạo Ca


CHỨNG ĐẠO CA


 HUYỀN GIÁC

Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn


 chung_dao_ca_ht_thuyen_an


I. Ngộ Phật tánh:

 1. Ai có hay chăng bực Đạo nhân

 Vô vi tuyệt học, vọng là chân?

 Chính vô minh tánh: Bồ đề tánh

 Thân huyễn không nầy tức Pháp thân.

 

 2. Đốn ngộ Pháp thân vạn vật không

 Pháp thân, Phật tánh bản nguyên đồng

 Thân mây năm ấm bay qua lại

 Ba độc nổi chìm bọt biển đông.

 

 3. Thực tướng chứng rồi không pháp, nhân

 Diệt A-tỳ nghiệp sát na phân

 Nếu ta vọng ngữ lừa nhân thế

 Lưỡi cắt ngàn đời tội vướng thân.

 

II. Cảnh giới tự chứng:

 4. Hoát nhiên đốn ngộ Như Lai thiền

 Sáu độ vẹn toàn muôn hạnh viên

 Mê mộng đó đây sinh lục thú

 Giác rồi không cả cõi tam thiên.

 

 5. Không tội phước, không thêm bớt đâu

 Bản nhiên tánh tịnh chớ tìm cầu

 Từ xưa gương bụi chưa lau rửa

 Tẩy sạch ngay đi đừng đợi lâu.

 

 6. Ai không niệm? Liễu ngộ không sanh

 Nếu có không sanh, không chẳng sanh

 Xin hỏi mộc nhân[1] nguyên cớ ấy

 Giúp công nhờ Phật việc không thành.

 

 7. Buông bốn đại không hề vướng mang

 Trong tâm ăn uống sống thanh nhàn

 Vô thường vạn pháp toàn không cả

 Viên Giác Như Lai huệ ngọc vàng.

 

III. Bảo tạng Như Lai:

 8. Nói quyết định nêu rõ Thánh tăng

 Có người chưa dám lộ cao đăng

 Chân tâm liễu ngộ Phật minh chứng

 Vạch lá tìm cành không khả năng.

 

 9. Ma-ni châu, có ai hay đâu

 Bảo tạng Như Lai toàn vẹn thâu

 Vô tận thần thông gì chẳng có

 Viên quang diệu thể quá thâm sâu.

 

 10. Tịnh năm nhãn, diệu lực toàn năng

 Ai chứng mới hay người thấu chăng

 Ngắm ảnh trong gương điều chẳng khó

 Đáy song ai dễ kiếm mò trăng.

 

IV. Niết bàn lộ:

 11. Thường độc hành, đi bộ một mình

 Niết bàn lộ liễu ngộ quang minh

 Tinh thần trầm mặc, hình siêu thoát

 Thân huyễn không nầy đầy tánh linh.

 

 12. Xuất gia thoát tục làm bần tăng

 Say đạo, vui nghèo, quên khó khăn

 Nghèo tất thân choàng manh áo rách

 Đạo thì tâm ngọc sáng như trăng.

 

13. Dùng chẳng hết vô giá bảo châu

 Tùy duyên cứu độ thiếu gì đâu

 Ba thân, bốn trí tâm sẵn đủ

 Tám giải, sáu thông Đạo nhiệm mầu.

 

14. Thượng sĩ quyết tâm tất cả thông

 Bực trung, bực hạ ngu và ngông

 Hãy tìm bảo ngọc trong áo rách

 Vô ích bề ngoài khoe tính công.

 

V. Chuyển chướng duyên thành trợ duyên:

 15. Mặc ai hủy báng, chê bai gì

 Đem lửa đốt trời có ích chi

 Lời mắng nghe như cam lộ thủy

 Tiêu dung thể nhập nan tư nghì.

 

 16. Xem như công đức những rầy la

 Người ấy thiện tri thức của ta

 Không khởi hận thù, không oán trách

 Nhân từ, nhẫn nhục lòng dung tha.

 

VI. Thông đạt:

 17. Đạo lý suốt thông, tông chỉ thông

 Sáng ngời định tuệ bỏ mê không

 Điều nầy nào chỉ mình ta đạt

 Chư Phật hằng sa ngộ tánh đồng.

 

 18. Sư tử rống lên vô úy thanh

 Thất kinh muôn thú chạy tan tành

 Cong đuôi hoảng nhảy chúa voi trốn

 Thiên long nghe được tâm an lành.

 

VII. Tâm ấn Tào khê:

 19. Đạo rừng thiêng, thưởng ngoạn trùng dương

 Học đạo tầm sư khắp vạn phương

 Từ lúc Tào khê duyên hạnh ngộ

 Liễu sinh thoát tử chứng chân thường.

 

 20. Ngồi cũng thiền, đi đứng cũng thiền

 Nói phô động tịnh tâm an nhiên

 Kiếm đao hung dữ lòng thanh tịnh

 Độc dược vướng nhằm thân vẫn yên.

 

VIII. Tự giác:

 21. Bổn sư ta gặp Phật Nhiên Đăng

 Tu nhẫn nhục tiên nhiều khó khăn

 Sinh tử, tử sinh bao nạn kiếp

 Liễu sinh thoát tử Phật cao thăng.

 

 22. Từ khi đốn ngộ pháp vô sinh

 Vui khổ không còn đổi nhục vinh

 Vào tận thâm sơn, Lan nhã

 Rừng tùng xanh, núi ngợp U linh

 Tọa thiền thanh thản quên trần thế

 Siêu thoát an nhiên trí tuệ minh.

 

 23. Giác là liễu ngộ không thi công

 Các pháp hữu vi vốn bất đồng

 Bố thí phước sinh trời hưởng lạc

 Thân như tên bắn lên hư không

 Đến khi lực hết tên rơi xuống

 Phiêu bạt trầm luân khổ não lòng

 Đốn ngộ pháp môn: Chân thực pháp

 Ai tu triệt chứng Như Lai tông.

 

IX. Giác tha:

 24. Cội gốc phải lo, chớ bận cành

 Lưu ly ngậm trọn trăng trời xanh

 Trân châu ý ấy ai thông đạt

 Độ thế cứu nhân siêu tuyệt danh

 Trăng chiếu trên sông, tùng vút gió

 Tuyệt vời trăng, nhạc thiền thanh thanh.

 

 25. Phật tánh viên minh ẩn chứng tâm

 Cà sa Phật bận hết thăng trầm

 Hàng long bình bát, trượng trừ hổ

 Hai dãy vòng vàng ngân diệu âm

 Pháp khí trân châu không hủy bỏ

 Như Lai dấu tích chẳng sai lầm.

 

X. Như Lai địa:

 26. Chẳng đoạn vọng, rồi chẳng chứng chân

 Vọng chân không tướng khó ai phân

 Không “KHÔNG”, không “CÓ” siêu siêu hết

 Chính đấy Như Lai chân Pháp thân.

 

 27. Chân tâm sáng chiếu khắp nơi nơi

 Thế giới hằng sa quá tuyệt vời

 Vạn pháp muôn trùng tâm hiện rõ

 Viên quang diệu thể khó nên lời.

 

 28. Chẳng tin nhân quả, đắm mê không

 Phóng đãng nghênh ngang họa vướng vòng

 Bỏ “CÓ”, chấp “KHÔNG” bịnh cũng thế

 Khác nào tránh nước, lửa thiêu ông.

 

 29. Chân lý giữ, tâm vọng bỏ xa

 Tâm thủ xả nầy loại quái ma

 Liễu ngộ chẳng thông tu luyện bậy

 Bỏ con ôm giặc đừng rên la.

 

 30. Tâm, ý, thức mê vọng ám đi

 Mất công đức, đạo lực còn gì

 Nên thiền môn dạy thông tâm pháp

 Đốn ngộ vô sanh trí diệu vi.

 

XI. Hành Như Lai sự:

 31. Đại trượng phu, thanh kiếm huệ cầm

 Tuyệt vời bát nhã ngời chân tâm

 Thiên ma khiếp đảm tàn lui bước

 Ngoại đạo tỉnh mê bỏ chấp lầm.

 

 32. Pháp âm ngân, sấm pháp rền vang

 Cam lộ mưa rơi trong nắng vàng

 Vạn loại tam thừa đều giải thoát

 Siêu nhân xuất hiện cứu trần gian.

 

XII. Pháp tánh viên dung:

 33. Cỏ phì nhị[2] tuyết sơn tươi xanh

 Nơi tạo đề hồ ta biết danh

 Một tánh bao hàm tất cả tánh

 Viên dung một pháp vạn hình sanh

 Ánh trăng chiếu khắp muôn sông nước

 Trăng nước muôn sông một ánh trăng

 Chư Phật pháp thân tâm liễu nhiếp

 Tâm ta, tâm Phật: diệu huyền đăng.

 

 34. Tất cả địa trong một địa thông

 Chẳng tâm, chẳng sắc, chẳng tây đông

 Sát na diệt nghiệp ba kỳ kiếp[3]

 Pháp môn muôn vạn phút giây xong

 Văn chương chữ nghĩa toàn không cả

 Chẳng dính líugiác tánh ông.

 

 35. Chê khen vượt thoát, tâm thường an

 Tĩnh lặng hư không thể niết bàn

 Viên giác diệu tâm ngay trước mặt

 Tìm là không thấy chớ nghênh ngang

 Vướng vào thủ xả toàn không được

 Không được ấy mà giác đạo quang

 Lúc nói im, khi im lại nói

 Mở khai thí hội tâm thênh thang.

 

 36. Có người lại hỏi giảng tông gì?

 Bát nhã kinh truyền tâm đại bi

 Hoặc trái, hoặc sai người chẳng biết

 Việc làm thuận nghịch trời hay chi.

 

XIII. Truyền tâm pháp yếu:

 37. Trải qua nhiều kiếp ta chuyên tu

 Nào dại bịp người hạnh ngốc ngu

 Khai đạo tràng, truyền tâm pháp yếu

 Tào khê liễu ngộ Tổ công phu.

 

 38. Ca Diếp truyền tâm vị Tổ đầu

 Tây thiên hăm tám Tổ truyền nhau

 Khai thiền Đông độ Đạt Ma Tổ

 Y bát tâm truyền sáu Tổ sau

 Tiếp nối nhiều người tâm Phật chứng

 Truyền tâm đốn ngộ: Pháp tu mau.

 

 39. Chân không lập, vọng vốn toàn không

 Trút bỏ có không mê chấp thông

 Không tưởng đắm say trừ sạch hết

 Như Lai thể tánh xưa nay đồng.

 

 40. Tâm thành căn, pháp biến ra trần

 Như bụi che gương đều khó phân

 Căn cảnh băng tiêu gương bụi sạch

 Ngàn đời lưu hộ Như Lai thân.

 

XIV. Ma chướng thời mạt pháp:

 41. Than ôi! Mạt pháp: ác gian thời!

 Phước bạc chúng sinh say đắm đời

 Cách Phật lâu xa tà kiến nặng

 Ma cường pháp nhược oán không vơi

 Được nghe đốn ngộ Như Lai giáo

 Cuồng hận phá, tan nát tả tơi.

 

 42. Ác do tâm, khổ lụy thân sầu

 Chớ oán trời người, không được đâu

 Muốn khỏi sa vào vô gián ngục

 Như Lai diệu pháp phải qui đầu.

 

XV. Khí tượng Phật thừa:

 43. Thú thường không ở rừng chiên đàn

 Sư tử một mình sống dọc ngang

 Lãnh chúa sơn lâm uy dũng ngắm

 Thú chim trốn đến nơi bình an.

 

 44. Sống cạnh Mẹ đàn sư tử con

 Lúc lên ba tuổi hét vang non

 Chó rừng, muôn thú run lo sợ

 Khi thấy Pháp vương vía chẳng còn.

 

XVI. Pháp viên đốn:

 45. Pháp viên đốn vượt thoát thường tình

 Diệt bỏ nghi nan chớ để sinh

 Nhân ngã luận bàn xin chẳng dám

 Đoạn, thường hố thẳm tránh điêu linh.

 

 46. Thị chẳng thị, phi cũng chẳng phi

 Lạc xa ngàn dặm, sai hào li

 Thị như Long nữ khắc thành Phật

 Thiện Tịnh vì phi đọa A-tỳ.

 

XVII. Chứng tích cá nhân:

 47. Ta nay học vấn đã từ lâu

 Kinh luận sớ sao nghiên cứu sâu

 Mê đắm văn chương quên nhọc mệt

 Biển mò đếm cát ngu như trâu

 Đáng nghe quở trách Như Lai mắng

 Đếm bảo châu người lợi ích đâu?

 Tính lại mới hay công sức phí

 Làm phong trần khách nhiều đêm thâu.

 

 48. Hiểu lầm lạc, tánh chấp mê

 Đốn giáo Như Lai không ngộ ra

 Tinh tiến tiểu thừa thiếu huệ lực

 Thông minh ngoại đạo trí yêu ma

 Vừa ngông ngu, lại vừa thơ dại

 Tay chỉ trời khờ khạo tưởng là:

 “Tay chính mặt trăng”. Si tối thế!

 U mê căn cảnh loạn phong ba.

 

 49. Rời xa các tướng tức Như Lai

 Như Quán Thế Âm giác huệ khai

 Liễu được, tan vong toàn nghiệp chướng

 Bằng không, oan trái vướng lâu dài.

 

 50. Đói gặp tiệc vua không thể ăn

 Bịnh xa thầy thuốc bịnh càng tăng

 Thiền trong rừng dục thiền kiên cố

 Biển lửa sen sinh thân vạn năng

 Phạm giới Dũng Thi tâm liễu ngộ

 Sớm thành Phật đạo quả cao đăng.

 

XVIII. Duy Ma sư tử hống:

 51. Sư tử rống lên giọng dũng uy

 Thương người mê tối lắm ngu si

 Chỉ hay phạm trọng[4], chướng thành Phật

 Chẳng rõ Như Lai ý diệu vi.

 

 52. Hai vị tỳ kheo phạm sát, dâm

 Ba-ly trí cạn tội phân lầm

 Duy Ma Đại sĩ trừ nghi hoặc

 Tội tiêu, vọng hết, chứng chân tâm.

 

 53. Giải thoát nhiệm mầu sức tuyệt vời

 Hằng sa diệu dụng hiện nơi nơi

 Cúng dường tứ sự dâng không thiếu

 Hiến triệu lượng vàng, hiến trọn đời

 Thịt nát xương tan, đền chẳng đủ

 Trần gian siêu thoát một câu thôi.

 

XIX. Pháp vương:

 54. Tối thắng Pháp vương: Đức Thế Tôn

 Đồng nhau chư Phật chứng tâm môn

 Pháp vương tâm ngọc ta minh ngộ

 Quên hết trần gian những dại khôn.

 

 55. Liễu thoát thấy: không một vật nào

 Không người, không Phật, không trăng sao.

 Hằng sa thế giới: bọt trong biển

 Tất cả Thánh hiền: điện chớp cao.

 

 56. Giả sử thiết luân quay đỉnh đầu

 Viên minh định tuệ mất nào đâu

 Mặt trời lạnh, hoặc vừng trăng bừng nóng

 Ma quỷ phải hàng Phật đạo mầu

 Đường dốc xe voi lên vững mạnh

 Cản đường châu chấu chuyện còn lâu.

 

 57. Voi lớn không theo dấu thỏ đi

 Ngộ rồi chấp tiểu tiết làm gì

 Ếch ngồi đáy giếng chê trời hẹp

 Chưa ngộ ta bày chỗ diệu vi.

 

 Phật tử Quảng Minh đánh máy vi tính – 16/12/2013


[1] Mộc nhân: Người bằng gỗ.

[2] Phì nhị: Tương truyền trên tuyết sơn có loại cỏ rất quí tên là phì nhị, bò ăn loại cỏ nầy sinh ra sữa rất quí. Đem sữa ấy nấu và chế biến thành đề hồ, là thức ăn rất bổ dưỡng cho cơ thể.

[3] Ba kỳ kiếp: Gọi đủ là ba A tăng kỳ kiếp, có nghĩa là ba vô số kiếp.

[4] Phạm trọng: Phạm bốn trọng giới: Sát, Đạo, Dâm, Vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11530)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28683)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11930)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12903)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11344)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12258)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17280)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52701)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35372)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10590)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19099)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13212)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14274)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13628)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11524)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14410)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18819)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19423)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12109)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12191)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13744)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14890)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13863)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11299)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17023)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20044)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14525)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13751)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14941)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12893)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22752)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14484)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11545)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11859)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11414)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18786)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18261)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant