Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Thuyết Kinh Diệt Trừ Tối Tăm Trong Mười Phương

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14964)
Phật Thuyết Kinh Diệt Trừ Tối Tăm Trong Mười Phương

PHẬT THUYẾT KINH DIỆT TRỪ TỐI TĂM TRONG MƯỜI PHƯƠNG

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435, Nguyên tác: [1]

- Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, nước Nguyệt Chi, đời Tây Tấn.

- Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường, Ni viện Diệu Quang, Nha Trang 

--- o0o --- 

 


Nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại Ca Duy La Vệ cùng với đông đủ chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị và vô số các Bồ tát, trú dưới gốc cây Ni-câu-loại, nơi tinh xá Thích Thị.

Vào buổi sáng sớm, đức Phật đắp y, ôm bình bát cùng với các quyến thuộc Tỳ-kheo vây quanh, vào thành khất thực.

Bấy giờ có đồng tử thơ ấu dòng họ Thích, tên là Diện Thiện Duyệt, thắng xe tốt đẹp, sáng sớm ra khỏi thành, từ xa trông thấy đức Thế Tôn cùng các Thánh chúng, liền đi thẳng đến chỗ Phật, xuống xe, đi bộ đến, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi lui đứng một bên.

Bấy giờ Diện Thiện Duyệt cúi đầu buồn rầu. Phật biết nhưng cố hỏi:

- Đồng tử chắc có việc thưa hỏi nên sáng sớm ra khỏi thành, trong lòng lo buồn, sắc diện rầu rỉ?

Diện Thiện Duyệt bạch Phật:

- Kính bạch Thiên Trung Thiên! Hiện nay song thân của con thân thể không được an hòa, luôn bị phi nhơn ngày đêm quấy nhiễu, ngủ nghỉ không được yên giấc ; vào ra lui tới đều bị bức bách khó chịu. Lại còn bản thân con tuy ngự trị một đất nước to lớn, nhưng gặp sự nguy khốn cùng khổ này, không giúp được gì, tự nghĩ mãi nhưng không biết phải dùng phương kế gì, không biết phải thiết lập những phương tiện gì. Giả sử gặp phải giặc giả oán thù hoặc phi nhơn, yêu quái, gian tà... thì không biết lấy gì để phòng hộ. Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho con dùng phương pháp gì để tùy thời cứu giúp, để cho không còn bị nhiễu hại.

Phật bảo Diện Thiện Duyệt:

- Hãy lắng nghe kỹ, lãnh thọ kỹ, khéo ghi nhớ và hành trì, Ta sẽ vì ông thuyết pháp ủng hộ.

Khi ấy đồng tử thơ ấu họ Thích vâng theo lời dạy và lắng nghe. Phật bảo:

- Phương Đông, cách đây hơn tám ngàn vạn ức na-thuật cõi Phật, có thế giới tên là Bạt Chúng Trần Lao, đức Phật cõi đó hiệu là Đẳng Hành Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Đông, trước tiên nên cúi đầu quy y cúng dường Phật ở phương Đông, thì sẽ không còn sợ hãi và chẳng ai còn dám xâm phạm, nhiễu hại. Có ưa thích đi và có sự khởi hành thì chắc chắn sẽ được như nguyện, tâm chí chưa từng rối loạn và như tâm chí đã nghĩ liền được thành tựu.

Khi ấy, Phật thuyết kệ:

- Trước thờ Tối Chánh Giác 

Bậc Đại Thánh đẳng hành

Sau đi về phương Đông 

Mới được không khiếp sợ.

Phật bảo đồng tử:

- Phương Nam, cách đây hơn mười ức trăm ngàn cõi Phậtthế giới tên là Tiêu Minh Đẳng Yếu Thoát, đức Phật cõi đó hiệu là Sơ Phát Tâm Niệm Ly Khủng Úy Quy Siêu Thủ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Nam, nên từ xa cúi đầu quy mạng đức Phật kia rồi mới khởi sự ra đi, một lòng nhớ nghĩ, ý không lìa Phật thì không còn sợ hãi, không gặp hoạn nạn.

Khi ấy, Phật thuyết kệ:

- Lìa xa các tưởng rồi 

Đồng tử tu như vậy

Nếu đi đến phương Nam 

Không còn gặp sợ hãi.

Phật bảo đồng tử:

- Phương Tây, cách đây hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Thiện Tuyển Trạch, đức Phật đó hiệu là Kim Cang Bộ Tích Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Tây, trước tiên nên giảng thuyếttư duy về pháp Bổn tịnh, hoàn toàn không còn sở kiến, không khởi, không diệt, thanh tịnh, vắng lặng và trước hết nên cúi đầu đảnh lễ đức Phật cõi đó, nhất tâm quy y rồi mới khởi sự ra đi, thì chắc chắn không còn sợ hãi, không gặp hoạn nạn.

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Các pháp chẳng sanh ra

Và cũng không diệt mất

Người hiểu rõ như thế

Thì không còn sợ hãi.

Phật bảo đồng tử:

- Phương Bắc, cách đây hơn hai vạn cõi Phậtthế giới tên là Giác Biện, Phật hiệu là Bảo Trí Thủ, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào muốn đi đến phương Bắc, bắt đầu ngay nơi nhà, cúi đầu đảnh lễ quy y đức Phật kia rồi mới khởi sự ra đi thì chắc chắn không còn sợ hãi và không gặp hoạn nạn.

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Nếu ngay trong nhà ở

Hay mọi nơi cư trú

Muốn đi về phương Bắc 

Đều không còn sợ hãi.

Phật bảo đồng tử:

- Phương Đông-bắc, cách đây hơn trăm vạn ức cõi Phậtthế giới tên Trì Sở Niệm, đức Phật cõi đó hiệu là Hoại Ma Mạn Độc Bộ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Lại Như Lai kia đi đến dưới gốc cây Bồ-đề, vừa mới ngồi, nhất tâm, liền khuyến hóa các ma quyến thuộc và các thiên mathế giới tam thiên đại thiên, đều an lập họ nơi Bất thối chuyển, sẽ thành đạo Chánh chơn Vô thượng. Đây là khi Như Lai đến dưới gốc cây Bồ-đề cảm hóa được. Người nào đi đến phương Đông-bắc, nên từ xa cúi đầu quy y đức Phật kia rồi sau mới đi, thì ngay nơi chỗ ở đạt được an ổn, chắc chắn không còn sự sợ hãi.

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Từ đầu mới phát tâm

Hàng phục được binh ma

Tâm luôn nghĩ đến Phật 

Lập tức không khiếp sợ.

Phật bảo đồng tử:

- Phương Đông-nam, cách đây hơn hai hằng hà sa các cõi Phật, có thế giới tên là Thường Chiếu Diệu, đức Phật đó hiệu là Sơ Phát Tâm Bất Thối chuyển Luân Thành Thủ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Như Lai đó khi còn làm Bồ-tát thường chỉ dạy mọi người thực hành nghĩa “Bất thối chuyển luân” là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định bất lọan, thành tựu trí tuệ. Đây là do Như Lai khi còn làm Bồ-tát cảm hóa được. Người nào đi về phương Đông-nam, trước hết nên cúi đầu, năm vóc gieo sát đất, nhất tâm quy mạng rồi sau mới đi thì không còn sợ hãi .

Khi ấy, Phật thuyết kệ:

- Trước năm vóc đảnh lễ 

Rồi sau mới ra đi

Ở nơi muốn đi đến

Không gặp giặc làm hại.

Phật bảo đồng tử:

- Phương Tây-nam, cách đây hơn tám vạn cõi Phậtthế giới tên là Phú Bạch Giao Lộ, đức Phật đó hiệu là Bảo Cái Chiếu Không Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào đi về phương Tây-nam, trước hết nên cúi đầu đảnh lễ đức Như Lai kia, từ xa đem hoa rải dâng, niệm nơi tướng không, rồi sau mới đi thì không còn sợ hãi .

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Cúng dường Đẳng Chánh Giác

Dùng hoa để dâng cúng

Sử dụng tâm vô tướng 

Thì không còn sợ hãi.

Phật bảo Đồng tử:

- Phương Tây-bắc, cách đây hơn sáu hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Trụ Thanh Tịnh, đức Phật đó hiệu là Khai Hóa Bồ-tát Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Quốc độ của đức Phật đó thanh tịnh trong sạch, cũng không có ái dục, không có người nữ, xa lìa năm món dục. Người nào đi đến phương Tây-bắc, trước hết nên đảnh lễ đức Phật kia, tự quay về sám hối lỗi lầm, tịnh tu phạm hạnh rồi sau mới ra đi thì không còn sợ hãi.

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Trước phải tu phạm hạnh

Sau mới ra khỏi nhà

An ổn không gặp giặc 

Chỗ ở không tai nạn.

Phật bảo đồng tử:

- Phương dưới, cách đây hơn chín mươi hai cai cõi Phật, có thế giới tên là Niệm Vô Đảo, đức Phật đó hiệu là Niệm Sơ Phát Ý Đoạn Nghi Bạt Dục, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào khi muốn ngồi, hoặc ban đêm khi nằm, niệm Như Lai kia, cúi đầu quy y, thường dùng niệm từ khắp cứu giúp chúng sanh rồi sau mới ngồi hay nằm thì không còn sợ hãi, nguyện cầu điều gì chắc chắn được kết quả.

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Thường nghĩ khắp chúng sanh

Ngồi thiền hay nằm ngủ

Trong mộng hay thức giấc

Chắc chắn không sợ hãi.

Phật bảo đồng tử:

- Phương trên, cách đây hơn sáu mươi hằng hà sa các cõi Phật, có thế giới tên Ly Chư Khủng Cụ Vô Hữu Xứ Sở, đức Phật đó hiệu là Tịnh Minh Đẳng Siêu Vương, Như Lai, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Người nào từ chỗ ngồi đứng dậy thường hay đảnh lễ đức Phật kia, quy y cúng dường, thường ôm ấp lòng từ, thương xót chúng sanh rồi sau mới đứng dậy đi thì không còn sợ hãi, tại chỗ đi đến được an lành vui vẻ. Do niệm như vậy nên thường được ủng hộ.

Khi ấy Phật thuyết kệ:

- Thường ôm lòng từ bi 

Thương các loài chúng sanh

Do thương xót quần sanh

Nên không còn sợ hãi.

Phật bảo đồng tử:

- Ông nên lãnh thọ kỹ danh hiệu chư Phật này và phụng trì, tư duy, nhớ mãi trong lòng thì chỗ muốn đi đến chắc chắn không gặp nguy khó.

Diện Thiện Duyệt đồng tử họ Thích tiến tới trước Phật, bạch:

- Con đã lãnh thọ, phụng trì danh hiệu của chư Phật này và ôm ấp trong lòng, tư duy, phụng hành. Việc này con luôn luôn ghi nhớ trong lòng. Con thấy khắp mười phương không hề chướng ngại, như vừa rồi Thế Tôn giảng thuyết, truyền dạy kinh điểndanh hiệu chư Phật đều giống như con đã từng được nghe, xét kỹ không khác. 

Khi ấy, chúng hội kia đầy đủ trăm ngàn người, nghe Phật giảng thuyết đều từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quỳ thẳng bạch Phật:

- Lòng từ rộng lớn của Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác che khắp mới vì chúng con giảng thuyết kinh điển này. Con và tất cả đều được thấy chư Phật trong ngoài thông suốt, không còn tăm tối, giống như Phật đã giảng thuyết không sai khác.

Lúc ấy, tôn giả Xá Lợi Phất tiến tới trước Phật, bạch:

- Các tộc tánh tử này được mắt thanh tịnh, vì lẽ gì họ lại được nhanh chóng nhìn thấy chư Phật không bị trở ngại? Nhờ năng lực công đức mà được như vậy chăng? Hay do oai thần của chư Phật tiếp sức? Hay là do công đức tự huân tậpkiếp trước đưa đến?

Phật bảo Xá Lợi Tử:

- Đây là do oai thần của Phật và cũng là do công đức từ trước vậy.

Bấy giờ, Phật phóng một luồng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, đất liền chấn động mạnh, trời rưới hoa thơm, nhạc khí không hầu không đánh tự kêu. Hiền giả A-Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quỳ thẳng, chấp tay tiến tới trước Phật bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Hôm nay vì lẽ gì Thế Tôn hiện ánh sáng lớn chiếu khắp mọi nơi, đất lại chấn động mạnh và trời rưới hoa thơm?

Phật bảo A-Nan:

- Thầy có thấy đầy cả trăm ngàn người đang chấp tay hướng về trước Phật không?

A-Nan bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Con có thấy.

Phật dạy:

- Trăm ngàn người này là do phước đức đời trước đã từng tạo nên trong vô số kiếp không còn trở lại nẻo ác. Mỗi người lại trải qua hằng hà sa các thế giới làm Chuyển luân Thánh vương, làm chủ bốn thiên hạ. Mỗi một phen làm Thánh vương thường được thấy chư Phật. Do được như vậy nên chí nguyện như ý và sau này ở trong đời sẽ được thành Phật hiệu là Lập Nhãn Thanh Tịnh Như lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh hạnh thành, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Đạo pháp ngự, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn, đều đồng một tên, ở mỗi mỗi cõi khác nhau và đều thành Phật đạo.

Phật vừa thọ ký cho các tộc tánh tử này xong, ngay khi ấy thần đất và thần hư không bỗng nhiên cất tiếng khen ngợi rằng: “Các tộc tánh này công đức vô lượng” . Âm thanh đó thấu suốt đến cõi trời Tứ thiên vương, Đao Lợi thiên, Diệm Ma thiên, Đâu Thuật thiên, Bất Kiêu Nhạo (Lạc?) thiên, Hóa Tự Tại thiên, cho đến ma giới, trên thấu Phạm thiên và A Ca Nị Tra thiên thứ hai mươi bốn đều cùng ca ngợi, tán thán: “Thật khó bì kịp, khó bì kịp! Thật chưa từng có! Nhờ oai đức từ ân của chư Phật Thế Tôn cao vời rực rỡ, đường đường cứu giúp nên mới như vậy. (Các Ngài) mở bày, chỉ dạy, giáo hóa các tộc tánh tử và thọ ký sẽ thành đạo Chánh chơn Vô thượng, được trí tuệ không ngăn ngại, thấy khắp mọi nơi đều thông suốt” .

Diện Thiện Duyệt dòng họ Thích ở trước Phật, bạch:

- Kinh điển này gọi tên là gì và phụng trì như thế nào?

Phật bảo đồng tử:

- Kinh này tên là “Diệt trừ tối tăm trong mười phương” . Vì sao? - Vì người nào nghĩ đến chư Phật trong mười phươngnhất tâm quy y thì trong tâm sáng suốt, như tối thấy được ánh sáng, không còn sợ hãi, cho nên gọi là “Diệt trừ tối tăm trong mười phương” . Nên phụng trì kinh này! Lại còn có tên là “Như Lai khen ngợi” , nên phụng trì! Lại còn tên là “Rõ pháp không tướng” . Lại còn có tên “Không Vô Sở Hữu” . Hãy siêng năng phụng trì!

Phật bảo đồng tử:

- Giả sử có người lãnh thọ kinh điển này rồi, hành trì đọc tụnggiảng thuyết cho người khác đầy đủ hoàn toàn không thiếu sót thì sẽ mau được thành tựu sở nguyện. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thọ trì kinh này và đọc tụng thì hoàn toàn không còn sợ hãi. Nếu đến chỗ quan huyện không bị xâm tổn. Nếu đi giữa giặc giã oán thù không bị nguy hại. Nếu đi trong lửa dữ, lửa dữ liền diệt. Nếu đi trong nước, hoàn toàn không bị chết chìm. Trời, rồng, quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chơn-đà-la, Ma-hưu-lặc, ác thần, ác ma và các chúng quỷ thần, nhơn, phi nhơn khác không dám xúc phạm. Các loài sư tử, hổ lang, mãnh thú, hùng bi không dám đến gần. Ngạ quỷ Võng lượng và quỷ Phản túc, các quỷ Hổn biên không thể nhiễu hại, cũng không có sự sợ hãi. Nếu một mình ở chỗ vắng vẻ, đồng trống, dưới gốc cây, chỗ đất trống, tức là nơi Như Lai tạo lập và đang ủng hộ. Nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ nào lãnh thọ kinh điển này rồi thọ trì đọc tụng, biên chép quyển kinh thì đã từng cúng dường chư Phật quá khứ, trồng các cội công đức và các công đức đã làm sắp hoàn thành.

Bấy giờ Phật bảo hiền giả A-Nan:

- Giả sử có người hiện đang đối diện trước Phật, chí tâm cúng dường các thứ đồ dùng như: y phục, thức ăn, giường nằm và thuốc thang chữa bệnh thì không bằng như có người thọ trì kinh này, biên chép, đọc tụng, chép lên thẻ tre, lên lụa và vì người khác giảng thuyết thì đó là người cúng dường Phật đầy đủ .

Khi ấy, Thiên Đế Thích cùng với vô số các chư thiên đồng đến, mỗi vị mang hoa trời rải cúng dường Phậtbạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ hộ trì kinh này.

Tứ thiên vươngchư thiên ở cõi trên đều mang hoa hương để cúng dường Phật và đều bạch Phật

- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ ủng hộ tộc tánh tử, tộc tánh nữ lãnh thọ kinh điển này thọ trì đọc tụng, vì người khác giảng thuyết hoặc biên chép lên thẻ tre, lên lụa. Người thọ trì kinh này thì ngay tại chỗ ở hay đi đến đâu, chúng con cũng đều vây quanh để ủng hộ, khiến cho không có ai có thể rình tìm được lỗi lầm của người đó một cách dễ dàng.

Phật thuyết như vậy xong, trời Đế Thích, Diện Thiện Duyệt đồng tử dòng họ Thích và trời Tứ Thiên vương, quỷ thần, A-tu-luân, nhơn dân thế gian nghe kinh hoan hỷ đảnh lễ và lui ra.

 

KINH PHẬT THUYẾT

DIỆT TỐI TĂM TRONG MƯỜI PHƯƠNG

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11616)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11094)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12054)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10748)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14315)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12080)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15321)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12071)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12544)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12644)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19626)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13096)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12237)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11821)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13474)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11831)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12877)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9851)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17995)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9056)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15285)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12190)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11453)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19662)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10669)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant