Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Thọ Trì Danh Hiệu Bảy Đức Phật Sanh Ra Công Đức

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14287)
Kinh Thọ Trì Danh Hiệu Bảy Đức Phật Sanh Ra Công Đức

KINH THỌ TRÌ DANH HIỆU BẢY ĐỨC PHẬT SANH RA CÔNG ĐỨC

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436, Nguyên tác: [1]

  - Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang, đời Đường.

- Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường, Ni viện Diệu Quang, Nha Trang

--- o0o ---

  

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, đức Bạt-Già-Phạm ngự tại vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ Đa, thuộc thành Thất La Phiệt cùng với đông đủ vô lượng vô số Thanh văn và Đại Bồ-tát cùng tất cả đại chúng trời, người, A-tố-lạc.v.v... vây quanh trước sau.

Bấy giờ Thế Tôn bảo với tôn giả Xá Lợi Tử:

- Ta nay nhớ thương tất cả hữu tình, lược thuyết về công đức phát sanh do thọ trì danh hiệu của bảy đức Phật, để cho người nào thọ trì thì sẽ đạt được lợi ích an vui thù thắng. Thầy nên lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ vì thầy phân biệt giảng thuyết.

Tôn giả Xá Lợi Tử thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Con mong ước được nghe.

Phật bảo Xá Lợi Tử:

- Ở phương Đông của cõi này có một cõi Phật tên là Ly Cấu Chúng Đức Trang Nghiêm. Cõi đó có Phật hiệu là Luân Biến Chiếu Cát Tường, Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư , Phật, Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó, thương xót thế gian, vì các đại chúng thuyết pháp vi diệu, mở bày, chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng, nhiệm mầu, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu có người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia, liền được thoát khỏi trăm ngàn câu chi đại kiếp sanh tử mãi bị trôi lăn trong khổ đau kịch liệt, và tùy theo chỗ sanh ra thường biết đời trước. Người nào luôn thọ trì danh hiệu của đức Phật này thì không mất công đức đã đạt như trước, mà lại ở trong trăm ngàn câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra, tâm xa lìa sự ngu si, ở trong trời người nhận lãnh sự vui sướng. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì không mất công đức đã đạt như trước, lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra thường được gặp Phật, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử, ở phương Đông của cõi này lại có cõi Phật tên là Diệu Giác Chúng Đức Trang Nghiêm. Cõi đó có Phật hiệu là Diệu Công Đức Trụ Cát Tường Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật, Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó thương xót thế gian, vì các hàng trời người thuyết pháp vi diệu, mở bày chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng nhiệm mầu, hoàn toàn viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu có người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia liền vượt khỏi tất cả tám nạn, tùy theo chỗ sanh ra thường biết đời trước. Người nào thường hay trì danh hiệu của đức Phật kia thì không mất công đức đã đạt như trước. Lại còn ở nơi vô lượng câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra tâm thường được thông minh sáng suốt, thường ở chốn lành, lãnh thọ các sự vui sướng. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì không mất công đức đã đạt như trước. Lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra thường được gặp Phật, tu hành tất cả Ba-la-mật-đa, thành đại Đạo sư độ vô lượng chúng sanh.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Ở phương Đông của cõi này lại có cõi Phật hiệu là Chúng Sanh Chủ, cõi đó có đức Phật hiệu là Nhất Bảo Cái Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật, Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó thương xót thế gian, vì các đại chúng thuyết pháp vi diệu, mở bày chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng nhiệm mầu, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu có người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia liền được xa lìa tất cả khổ não, phước lộc, địa vị, của cải, trân bảo không bị sút giảm, mất mát, chỉ trừ khi người đó ở đời trước gây nhơn ác nghiệp cố định. Người nào thường hay thọ trì danh hiệu đức Phật kia thì sẽ không mất các công đức đã đạt như trước, lại còn thùy theo chỗ sanh ra đều được đầy đủ oai đức lớn, thần thông tự tại, thân tỏa ánh sáng, dáng mạo đoan nghiêm, mọi người đều ưa thấy. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cúng dường cung kính, tôn trọng, khen ngợi thì không mất công đức đã đạt như trước. Lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp thường không sanh ra nơi thế giới không có Phật, tu hạnh Bồ-tát, đại thệ trang nghiêm, thành Vô thượng giác, làm lợi ích cho tất cả .

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Ở phương Đông của cõi này lại có cõi Phật tên là Tự Tại Lực. Cõi đó có Phật hiệuThiện Thệ Định Tích, Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó thương xót thế gian, vì các đại chúng thuyết pháp vi diệu, mở bày chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng, thuần nhất, viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu có người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia thì tâm trí liền được vắng lặng, xa lìa các sự huyên náo, hỗn tạp. Nếu người nào thường thọ trì danh hiệu của đức Phật kia thì không mất công đức đã tạo như trước, lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra thân (đầy đủ) bốn oai nghi, hoặc nói, hoặc im, tâm luôn ở trong định. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì không mất các công đức đã đạt như trước. Lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra thường được gặp Phật, mau có thể rốt ráo các môn Đẳng trì, thành bậc Lưỡng túc tôn, độ vô lượng chúng.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Ở phương Đông này lại có cõi Phật tên là Tối Thắng Bảo, cõi đó có Phật hiệuBảo Hoa Quang Cát Tường, Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó thương xót thế gian, vì các đại chúng thuyết pháp vi diệu, mở bày chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng nhiệm mầu, thuần nhất, viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia liền được đầy đủ tuệ hạnh thắng niệm, ở trong bốn chúng thuyết pháp không sợ hãi, lời lẽ oai nghiêm, người nghe đều kính thọ. Người nào thường hay thọ trì danh hiệu của đức Phật kia thì không mất công đức đã đạt như trước, lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp tùy chỗ sanh ra đầy đủ hạnh tuệ niệm, thành tựu trí tuệ bén nhạy, được tính nghe và trì thù thắng. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì không mất công đức đã đạt như ở trước, lại còn ở vô lượng câu chi đại kiếp tùy theo chỗ sanh ra thường được gặp Như Lai, được biện tài vô ngại, rộng tuyên bày diệu pháp, tuần tự tu tập tư lương phước huệ, thành Thiên nhơn tôn, độ vô lượng chúng sanh.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Ở phương Nam của cõi này có một cõi Phật tên là Tịch Tịnh Châu, cõi đó có Phật hiệu là Siêu Vô Biên Tích, Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó thương xót thế gian, vì các đại chúng thuyết pháp vi diệu, mở bày chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng nhiệm mầu, thuần nhất, viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu có người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia thì tâm người đó bỗng nhiên không có sự rối loạn. Người nào có thể thọ trì danh hiệu của đức Phật kia thì không mất công đức đã đạt như trước, lại còn có thể mau chứng được định Nguyệt-quang-thắng. Chứng được định này xong, ngay khi ấy lại có thể chứng được pháp môn Căn Già Sa Đẳng Tam-ma-địa. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì không mất công đức đã đạt như trước, lại còn đối với các pháp môn chư Phật giảng dạy có thể thọ trì hết và thông suốt nghĩa lý, chiếu soi rõ suốt không ngăn ngại, như ánh sáng mặt trời, tùy theo chỗ sanh ra thường được gặp Phật, do đó mau chứng Vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Ở phương Nam của cõi này lại có cõi Phật tên là Tối Thượng Hương. Cõi đó có Phật hiệu là Diệu Hương Vương, Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhơn sư, Phật Bạt Già Phạm, hiện đang ở đó thương xót thế gian, vì các đại chúng thuyết pháp vi diệu, mở bày chỉ dạy đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa trong sáng nhiệm mầu, thuần nhất, viên mãn, phạm hạnh thanh bạch. Nếu người nào được nghe danh hiệu của đức Phật kia thì thân tâm điều hòa thông suốt, xa lìa các sự trầm trệ, nghiệp ác đều tiêu diệt, phiền não nhẹ bớt. Người nào thường hay thọ trì danh hiệu của đức Phật kia thì không mất công đức đã đạt như trước, lại vào đời sau tùy theo chỗ sanh ra đều được đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tất cả hữu tình đều cùng chiêm ngưỡng. Người nào có thể tạo lập hình tượng của đức Phật kia, cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì không mất công đức đã đạt như trước, lại vào đời sau tùy theo chỗ sanh ra thường được xuất gia, đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, đến các cõi Phật nghe pháp, thọ trì, tu hành đầy đủ tất cả công đức. Do vậy nên mau chứng được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề.

Phật bảo Xá Lợi Tử:

- Nếu các hữu tình nào được nghe danh hiệu của bảy đức Phật này và thọ trì, cúng dường thì chắc chắn đạt được công đức như đã nói ở trước. Vì sao vậy? - Vì danh hiệuhình tượng của bảy đức Phật này đều do bổn nguyện đại bithành tựu cho nên khiến cho chúng sanh nào được nghe rồi thọ trì, cúng dường thì đều đạt được lợi ích an vui như vậy.

Bấy giờ, Bạt Già Phạm thuyết kinh này xong, Xá Lợi Tử,.v.v... cùng các đại Thanh văn và các đại Bồ-tát cùng trời người, A-tố-lạc,.v.v... tất cả đại chúng nghe Phật giảng thuyết đều rất hoan hỷ, tín nhận phụng hành

 

KINH THỌ TRÌ DANH HIỆU BẢY ĐỨC PHẬT SANH CÔNG ĐỨC

 Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11635)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12558)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17978)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11727)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9947)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12349)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15339)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12000)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11184)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14840)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19664)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13108)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12666)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12263)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11847)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11949)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12766)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9864)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18015)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9079)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13048)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12198)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15310)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19699)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant