Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ

19 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14315)
Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ


Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Ðại Ðường, Tam tạng pháp sư Huyền Trang vâng chiếu dịch [1].
Việt dịch: Quảng Minh.


Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bạc già phạm ở thành Thất La Phiệt, rừng Thệ Ða, trong vườn Cấp cô độc, cùng chúng đại bí sô một ngàn hai trăm năm mươi vị tụ hội, toàn là bậc tôn túc thanh văn, bậc đại A la hánmọi người đều biết: tôn giả Xá lợi tử, Ma ha Mục kiền liên, Ma ha Ca diếp, A nê luật đà, các vị đại thanh văn đại loại như vậy làm thượng thủ. Lại cùng với vô số vị bồ tát ma ha tát tụ hội, tất cả đều trú địa vị Không còn thoái chuyển, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, danh hiệu của chư vị là: bồ tát Diệu Cát Tường, bồ tát Vô Năng Thắng, bồ tát Thường Tinh Tấn, bồ tát Bất Hưu Tức, các vị đại bồ tát đại loại như vậy làm thượng thủ. Lại có Ðế thích, Ðại phạn thiên vương - chủ của thế giới Kham nhẫn, bốn vị thiên vương hộ thế, các vị như vậy làm thượng thủ. Có số trăm ngàn câu chi na dữu đa [2] các vị thiên tử, vô lượng chư thiên, nhân loại, a tố lạc và các hạng thế gian khác, vì muốn nghe pháp nên cùng đến ngồi trong pháp hội.

Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi tử: Tôn giả có biết không, từ thế giới này, hướng về phương Tây, qua trăm ngàn câu chi na dữu đa cõi Phật, có một thế giới Phật tên là Cực lạc. Cõi Phật ấy có đức Thế tôn danh hiệuVô Lượng ThọVô Lượng Quang Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, mười hiệu viên mãn, hiện nay vẫn còn trú trì yên ổn nơi cõi ấy, tuyên thuyết cho người ở đó về pháp thậm thâm vi diệu, làm cho họ được lợi ích yên vui thù thắng.

Này Xá lợi tử, vì lý do gì thế giới Phật ấy tên là Cực lạc? Này Xá lợi tử, vì người sống trong thế giới ấy không có tất cả sự lo nơi tâm và sự khổ nơi thân, mà chỉ có vô lượng sự hỷ lạcthanh tịnh, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, chỗ nào cũng có bảy lớp lan can báu, bảy lớp hàng cây Đa la [3] báu, bảy lớp lưới giăng báu, bao quanh khắp cả, trang nghiêm bằng bốn chất liệu quí báu: vàng, bạc, lưu ly [4] và pha lê [5], được trang sức tinh tế, xen kẽ [6].

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, chỗ nào cũng có cái hồ bằng bảy chất liệu quí báu, trong đó đầy ắp nước tám công đức. Vì sao gọi là nước tám công đức? Một là lóng sạch, hai là trong mát, ba là ngon ngọt, bốn là mềm nhẹ, năm là tươi nhuận, sáu là an hòa, bảy là uống vào trừ được đói, khát, nhẫn đến vô số tội lỗi, tám là uống vào chắc chắn trưởng dưỡng căn thân tứ đạităng ích các thứ thiện căn thù thắng. Chúng sanh nhiều phước đức [7] thường thích thọ dụng nước ấy. Ðáy các hồ báu rải toàn cát bằng vàng. Bốn phía bao quanh hồ đều có thềm cấp và lối đi, trang sức bằng bốn chất liệu quí báu, thật đáng ưa thích. Bao quanh các hồ có cây quí báu, xếp theo hàng lối, tỏa hương ngào ngạt, trang sức bằng bảy chất liệu quí báu, thật đáng ưa thích. Bảy chất liệu quí báu: một là vàng, hai là bạc, ba là lưu ly, bốn là pha lê, năm là xích chân châu, sáu là mã não [8], bảy là xa cừ [9]. Trong các hồ đó thường có các hoa sen đủ màu sắc, lớn như bánh xe: hoa sen xanh, hiển thị màu xanh, ánh ra sáng xanh, ảnh tượng xanh; hoa sen vàng, hiển thị màu vàng, ánh ra sáng vàng, ảnh tượng vàng; hoa sen đỏ, hiển thị màu đỏ, ánh ra sáng đỏ, ảnh tượng đỏ; hoa sen trắng, hiển thị màu trắng, ánh ra sáng trắng, ảnh tượng trắng. Bốn loại hoa sen, hiển thị bốn màu, ánh ra bốn ánh sáng, có bốn ảnh tượng nơi tâm [10]. 

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, tự nhiên thường có vô lượng vô biên kỹ nhạc tuyệt diệu, âm khúc hòa nhã, thật đáng ưa thích. Các loài hữu tình nghe được âm thanh tuyệt diệu ấy thì tất cả ác phiền não đều tiêu diệt, vô lượng thiện pháp lần lượt tăng trưởng, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, khắp cả mặt đất cấu thành bằng vàng ròng, chạm vào thì mềm mại, thơm dịu, sáng chói, và trang sức xen kẽ bằng vô lượng vô biên chất liệu quí báu.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, ngày đêm sáu buổi thường mưa xuống nhiều loại hoa trời thượng diệu. Hoa trời tươi sáng, thơm dịu, mềm mại và màu sắc xen nhau. Người nhìn thấy hoa ấy có sự dễ chịu nơi thân và sự vui thích nơi tâm, nhưng không tham đắm. Hoa trời làm cho người thế giới Cực lạc tăng trưởng vô lượng vô số công đức thù thắng, không thể nghĩ bàn [11]. Người thế giới Cực lạc, ngày đêm sáu buổi, thường đem hoa trời hiến cúng đức Phật Vô Lượng Thọ. Vào mỗi sáng sớm, người thế giới ấy mang hoa trời, trong khoảng bữa ăn, bay đến vô lượng thế giới ở phương khác, hiến cúng trăm ngàn câu chi chư Phật. Nơi chỗ chư Phật, dùng trăm ngàn câu chi hoa trời mà tung rải trên mỗi đức Phật để hiến cúng, rồi trở về thế giới của mình, nghỉ trưa [12].

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, thường có các loại chim đẹp lạ, đáng yêu, màu sắc xen nhau, như là: ngỗng, nhạn, thu lộ [13], hồng hạc, khổng tước, anh vũ, yết la tần ca [14], mạng mạng [15]. Những loại chim như vậy, ngày đêm sáu buổi, thường tụ tập lại, hót ra âm thanh giao hòa và tuyệt nhã. Âm thanh của mỗi loại chim đều diễn đạt những giáo pháp tuyệt diệu, như là: bốn niệm trú, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chánh đạo [16], vô số giáo pháp tuyệt diệu sâu xa như vậy. Người thế giới Cực lạc nghe âm thanh ấy, ai cũng nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng, có được vô lượng công đức huân tu thân mình.

Này Xá lợi tử, ông nghĩ thế nào, các loại chim ở thế giới Cực lạc có phải là bàng sanh thuộc nẻo dữ không? Ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì tịnh độ của Phật thì không có ba nẻo đường dữ, cũng không nghe cái tên ba nẻo đường dữ, làm sao có thật các loại chim do tội nghiệp chiêu cảm vào bàng sanh. Nên biết, các loại chim này toàn do đức Phật Vô Lượng Thọ biến hiện ra để diễn đạt vô số âm thanh diệu pháp, làm cho người thế giới Cực lạc được lợi ích yên vui.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, thường có gió nhẹ thổi qua những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, tựa như trăm ngàn câu chi thiên nhạc đồng thời hòa tấu, vang ra âm thanh tuyệt diệu, thật đáng ưa thích thưởng thứcCõi Phật ấy như vậy, thường có gió nhẹ thổi qua những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, nói các giáo pháp. Người thế giới Cực lạc nghe âm thanh ấy thì sanh khởi nhớ nghĩ về Phật, nhớ nghĩ về Pháp, nhớ nghĩ về Tăng, là những tác ý có được vô lượng công đức.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, có vô lượng vô biên sự không thể nghĩ bàn, sự rất hiếm có, đại loại như thế. Giả sử trải qua thời gian trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, dùng vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa cái lưỡi, và mỗi cái lưỡi thốt ra vô lượng âm thanh, tán dương công đức của cõi Phật ấy, cũng không thể tán dương hết được, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, do duyên gì đức Phật ấy có danh hiệuVô Lượng Thọ? Này Xá lợi tử, do đức Như lai ấy và người ở tịnh độ của ngài có thọ mạng đến vô lượng vô số đại kiếp. Do duyên này, đức Như lai ở cõi ấy có danh hiệuVô Lượng Thọ. Này Xá lợi tử, đức Phật Vô Lượng Thọ chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác đến nay đã mười đại kiếp. Này Xá lợi tử, do duyên gì đức Phật ấy có danh hiệuVô Lượng Quang? Này Xá lợi tử, do đức Như lai ấy thường phóng vô lượng vô biên ánh sáng kỳ diệu, chiếu soi khắp cả cõi Phật mười phương, thực hiện Phật sự không có chướng ngại. Do duyên này, đức Như lai ở cõi ấy có danh hiệuVô Lượng Quang.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, đức Phật Vô Lượng Thọ thường có vô lượng đệ tử thanh văn, tất cả đều là bậc đại A la hán, đầy đủ các thứ công đức vi diệu, số ấy vô biên không thể tính kể.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, đức Phật Vô Lượng Thọ thường có vô lượng đệ tử bồ tát, tất cả đều là những bậc Nhất sanh sở hệ [17], đầy đủ các thứ công đức vi diệu, số ấy vô biên không thể tính kể. Giả sử trải qua thời gian vô số lượng kiếp, tán dương công đức của chư vị, cũng không thể tán dương hết được.

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, các hữu tình sanh về cõi ấy thì đều ở địa vị Không còn thối chuyển: chắc chắn không còn sa vào các nẻo đường dữ, các xứ biên địa man dã [18]; thường du hành qua các quốc độ thanh tịnh của chư Phật; hạnh nguyện thù thắng tăng tiến trong từng ý nghĩ; quyết định sẽ chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác

Này Xá lợi tử, cõi Phật ấy có các sự trang hoàng mầu nhiệm, công đức trang nghiêm như vậy, thật đáng ưa thích, nên gọi là thế giới Cực lạc.

Này nữa Xá lợi tử, các hữu tình nghe cõi Phật thanh tịnh của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, hãy nên phát nguyện sanh về cõi Phật ấy. Vì sao? Vì ai sanh cõi ấy sẽ được cùng chung sống một chỗ với các bậc đại sĩ, trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy; thọ dụng cõi Phật thanh tịnhpháp lạc đại thừa, trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy, vĩnh viễn không thoái chuyển, vô lượng hạnh nguyện tăng tiến trong từng ý nghĩ, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề.

Này Xá lợi tử, các hữu tình sanh cõi Phật ấy đã thành tựu vô lượng vô biên công đức. Chẳng phải các hữu tình có chút thiện căn sẽ được sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. Này nữa Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có đức tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọthế giới Cực lạc công đức trang nghiêm như vậy, nghe rồi tư duy: hoặc một ngày đêm, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy ngày đêm, buộc sự nhớ nghĩ không cho tán loạn [19], thì thiện nam tử hay thiện nữ nhân đó lúc sắp chết, đức Phật Vô Lượng Thọ cùng vô lượng thánh chúng đệ tử thanh văn, bồ tát của Ngài, bao quanh trước sau, đứng trước người ấy, từ bi gia hộ, làm cho người ấy tâm không thác loạn, và chết rồi thì theo Ngài và thánh chúng mà sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ. Này nữa Xá lợi tử, Như lai thấy lý do trọng đại, lợi ích yên vui như vậy, nên nói lời thành thật rằng: “Các thiện nam tử hay thiện nữ nhânđức tin thanh tịnh, được nghe danh hiệu công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọcõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc, thì hết thảy nên tin tưởng, tiếp nhận, phát nguyện, tu hành đúng như kinh này dạy, nguyện sanh cõi Phật ấy.”

Này nữa Xá lợi tử, như hiện thời Như lai xưng dương tán thán công đức Phật độ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọ; như vậy ở phương Ðông, hiện tại cũng có đức Như lai Bất Ðộng, đức Như lai Sơn Tràng, đức Như lai Ðại Sơn, đức Như lai Sơn Quang, đức Như lai Diệu Tràng, căng già sa số [20] các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Ðông, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho [21].”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Nam, hiện tại cũng có đức Như lai Nhật Nguyệt Quang, đức Như lai Danh Xưng Quang, đức Như lai Ðại Quang Uẩn, đức Như lai Mê Lô Quang, đức Như lai Vô Biên Tinh Tiến, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Nam, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Tây, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Thọ, đức Như lai Vô Lượng Uẩn, đức Như lai Vô Lượng Quang, đức Như lai Vô Lượng Tràng, đức Như lai Ðại Tự Tại, đức Như lai Ðại Quang, đức Như lai Quang Diệm, đức Như lai Ðại Bảo Tràng, đức Như lai Phóng Quang, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Tây, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Bắc, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Nghiêm Thông Ðạt Giác Tuệ, đức Như lai Vô Lượng Thiên Cổ Chấn Ðại Diệu Âm, đức Như lai Ðại Uẩn, đức Như lai Quang Võng, đức Như lai Sa La Ðế Vương, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Bắc, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho .”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương dưới, hiện tại cũng có đức Như lai Thị Hiện Nhất Thiết Diệu Pháp Chánh Lý Thường Phóng Hỏa Vương Thắng Ðức Quang Minh, đức Như lai Sư Tử, đức Như lai Danh Xưng, đức Như lai Dự Quang, đức Như lai Chánh Pháp, đức Như lai Diệu Pháp, đức Như lai Pháp Tràng, đức Như lai Công Ðức Hữu, đức Như lai Công Ðức Hiệu, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương dưới, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương trên, hiện tại cũng có đức Như lai Phạm Âm, đức Như lai Tú Vương, đức Như lai Hương Quang, đức Như lai Như Hồng Liên Hoa Thắng Ðức, đức Như lai Thị Hiện Nhất Thiết Nghĩa Lợi, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương trên, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Đông Nam, hiện tại cũng có đức Như lai Tối Thượng Quảng Ðại Vân Lôi Âm Vương, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Đông Nam, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Tây Nam, hiện tại cũng có đức Như lai Tối Thượng Nhật Quang Danh Xưng Công Ðức, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Tây Nam, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Tây Bắc, hiện tại cũng có đức Như lai Vô Lượng Công Ðức Hỏa Vương Quang Minh, căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Tây Bắc, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, như vậy ở phương Đông Bắc, hiện tại cũng có vô số trăm ngàn câu chi đức Như lai Quảng Tuệ [22], căng già sa số các đức Như lai đại loại như vậy, trú ở phương Đông Bắc, nơi tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bao quanh khắp cả, nói lời thành thật như vầy: “Hữu tình các người đều nên tin nhận Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, vì lý do gì kinh này tên là “Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho”? Này Xá lợi tử, vì trong kinh này xưng dương tán thán công đức Phật độ vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn là thế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, và lại được mười phương chư Phật Thế tôn vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên mỗi vị đều ở nơi quốc độ của mình, thị hiện đại thần biến, nói lời thành thật, khuyên các hữu tình tin nhận pháp môn này, vì vậy mà kinh này tên là “Pháp môn tán dương công đức Phật độ không thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nhiếp thọ cho.”

Này nữa Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào hoặc đã nghe, hoặc sẽ nghe, hoặc đang nghe, nghe kinh này rồi tin hiểu sâu xa, tin hiểu rồi thì chắc chắn được mười căng già sa chư Phật Thế Tôn trú trong mười phương nhiếp thọ cho, tu hành đúng như kinh này dạy, nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ai cũng quyết chắc sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ.

Thế nên, này Xá lợi tử, hết thảy hữu tình các người đều nên tin tưởng, tiếp nhận và lý giải lời nói của Như lai và của mười phương chư Phật Thế tôn, phải nỗ lực tinh tiếntu hành đúng như kinh này dạy, chớ sanh hoài nghi, lo ngại.

Này nữa Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào đối với công đức trang nghiêm của cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, hoặc đã phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện, hoặc đang phát nguyện (nguyện sanh cõi Phật ấy), thì chắc chắn được mười căng già sa chư Phật Thế tôn trú trong mười phương nhiếp thọ cho, tu hành đúng như kinh này dạy, nên ai cũng quyết chắc được sự không thoái chuyển đối với Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ai cũng quyết chắc sanh cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ.

Thế nên, này Xá lợi tử, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có lòng tin thanh tịnh, hết thảy đều nên đối với cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, có sự tin hiểu sâu xa, thì hãy phát nguyện vãng sanh, đừng sống phóng dật [23].

Này nữa Xá lợi tử, như nay đây Như lai tán dương công đức không thể nghĩ bàn của cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực lạc của đức Phật Vô Lượng Thọ, chư Phật Thế Tônmười phương cũng tán dương công đức vô biên, không thể nghĩ bàn của Như lai, đều nói như vầy: “Rất kỳ lạ hiếm có, đức Thích Ca Tịch Tĩnh, Thích Ca Pháp Vương, Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Ðiều ngự sĩ, Thiên nhân sư, Phật: Thế Tôn, có thể ở trong thế giới Kham nhẫn này, vào thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục, đó là: kiếp trược, hữu tình trược, phiền não trược, kiến trượcmạng trược, lại chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, và vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên nói pháp môn mà tất cả thế gian rất khó tin.”

Thế nên, này Xá lợi tử, các người nên biết Như lai ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục của thế giới Kham nhẫn tạp nhiễm này, lại chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, và vì muốn phương tiện cho các hữu tình được lợi ích yên vui, nên nói pháp môn mà tất cả thế gian rất khó tin này, thì đó là việc rất hiếm có, không thể nghĩ bàn.

Này nữa Xá lợi tử, trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục của thế giới Kham nhẫn tạp nhiễm này, thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào có lòng tin thanh tịnh, nghe nói về pháp môn tất cả thế gian rất khó tin này, mà có sự tin hiểu, thọ trì, diễn giảng, tu hành đúng như kinh này dạy, phải biết người ấy thật là hiếm có, đã từng trồng căn lành với vô lượng đức Phật. Người ấy mạng chung thì quyết định sanh thế giới Cực lạc ở phương Tây, thọ dụng cõi Phật thanh tịnhpháp lạc đại thừa, trang nghiêm bằng vô lượng công đức; ngày đêm sáu buổi, thân cận, hiến cúng đức Phật Vô Lượng Thọ; du hành khắp mười phương để hiến cúng chư Phật, từ nơi chư Phật được nghe pháp, được thọ ký; tư lương phước tuệ chóng đạt đến viên mãn, mau chứng Vô thượng chánh đẳng bồ đề

Khi đức Bạc già phạm nói kinh này xong, tôn giả Xá lợi tử, các vị đại thanh văn, cùng chúng bồ tát ma ha tát, vô lượng chư thiên, nhân loại, a tố lạc, hết thảy đại chúng nghe đức Bạc già phạm dạy, ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

19.03.2013 (08.02.Quý Tỵ)



[1] ĐTK 367, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (稱讚淨土佛攝受經).

[2] Câu chi na dữu đa (俱胝那庾多, Skt. koṭi-nayuta): ~10 000 000 x 100 000 000 = 1015 . Trăm ngàn câu chi na dữu đa = 1020.

[3] Đa la thọ (多羅樹, Pāli: tāla): một giống cây cọ, tên khoa học Borassus flabelliformis.

[4] Chánh văn là Phệ lưu ly (吠琉璃, vaidurya).

[5] Chánh văn là Pha chi ca (頗胝迦, sphaṭika).

[6] Thí dụ: “Cây Đa la bằng vàng thì hoa, lá và trái bằng bạc. Cây Đa la bằng bạc thì hoa, lá và trái bằng vàng. Cây Đa la bằng lưu ly thì hoa, lá và trái bằng pha lê. Cây Đa la bằng pha lê thì hoa, lá và trái bằng lưu ly.” (Trung a hàm, kinh Đại Thiện Kiến vương, Thích Tuệ Sỹ dịch)

[7] Chỉ cho người sống trong thế giới Cực lạc: “Này Xá lợi tử, các hữu tình sanh cõi Phật ấy đã thành tựu vô lượng vô biên công đức.”

[8] Chánh văn là A thấp ma yết lạp bà (阿濕摩揭拉婆, Ashmagarbha).

[9] Chánh văn là Mâu sa lạc yết lạp bà (牟娑落揭拉婆, Musàragalva).

[10] Đối tượng phân biệt của nhãn thức là sắc (rūpa), chỉ cho mọi hiện tượng vật chất sanh diệt biến hóaSắc cảnh bị phân biệt bởi nhãn thức được chia làm ba loại: a. Hiển sắc: có 12 hoặc 13 loại: xanh, vàng, đỏ, trắng (4 màu căn bản), khói, mây, bụi, sương, bóng ảnh, ánh sáng, sáng, tối (và hư không); b. Hình sắc: có 8 loại hoặc 10 loại: dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, thẳng, cong, (thô, tế); c. Biểu sắc: lấy, bỏ, đi, đứng, nằm, ngồi, cong, duổi … chỉ các động tác biểu hiện ra bên ngoài có thể thấy được. Ở đây, hoa sen được đề cập qua 2 phương diện hình sắchiển sắc, bởi lẽ, theo luận Tỳ bà sa, “Nếu xứ nào có đủ hình sắchiển sắc thì được lập làm sắc xứ.” Ngài Huyền Trang dịch là thanh hình, thanh hiển, thanh quang, thanh ảnh (青形,青顯,青光,青影) v.v..., dịch ý là thanh, thanh sắc, thanh quang, thanh thanh nhập mục (青,青色,青光,青青入目) v.v…, nghĩa là: một hoa sen xanh (thanh hình), hoa có màu xanh (thanh hiển), hoa ánh ra sáng xanh (thanh quang), nơi nhãn thứcấn tượng hoa xanh và sáng xanh (thanh ảnh).

[11] “Hoa trời tươi sáng … không thể nghĩ bàn” là để giải thích sự thượng diệu của hoa trời.

[12] Chánh văn là du thiên trú (遊天住): Phạn ngữdivavihara; diva là thiên, vihara là trú hay du; dịch ý là ngọ hưu (午休),tức nghỉ trưa. Ngài Cưu ma la thập dịch divavihara là phạn thực kinh hành (飯食經行).

[13] Thu lộ (鶖鷺,Śāri): chim Xá lợi.

[14] Yết la tần ca (羯羅頻迦, Kalavika): chim Ca lăng tần già.

[15] Mạng mạng (命命, Jivamjivaka): chim Cộng mạng

[16] Giác đạo chi (覺道支): chỉ cho thất giác chibát chánh đạo chi.

[17] Nhất sanh sở hệ (一生所繫) = Nhất sanh bổ xứ (一生補處): Bồ tát ở giai vị cao tột, tức đẳng giác vị, còn hệ phược một đời thì bổ xứ làm Phật.

[18] Chánh văn là biên địa hạ tiện, miệt lệ sa trung (邊地下賤,蔑戾車中). Biên địa là những chỗ ở quanh bên ngoài (đối lại, chỗ ở giữa, bên trong là trung quốc). Miệt lệ xa là những giống dân dơ bẩn, ác, mọi rợ. Diễn nghĩa rộng, biên địa man dã là những xứ không có Phật pháp, không có văn minh.

[19] Hệ niệm bất loạn (繫念不亂): Buộc sự nhớ nghĩ vào danh hiệu của Phật mà không nhớ nghĩ gì khác, dù là tốt hay xấu. Ngài Cưu ma la thập dịch là nhất tâm bất loạn (一心不亂), tức chuyên nhất cho đến đồng nhất tâm trí vào danh hiệu của Phật.

[20] Căng già sa (殑伽沙) = Hằng già sa (恆伽沙) hay hằng hà sa (恆沙).

[21] “Xưng tán bất khả tư nghị Phật độ công đức, nhất thiết chư Phật nhiếp thọ pháp môn.” Ngài Cưu ma la thập dịch đề kinh này là: “Xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.” (Bản kinh Tán dương công đức bất khả tư nghị, hết thảy chư Phật đều giữ gìn cho.)

[22] Các đức Như lai khác nhau nhưng cùng một danh hiệu Quảng Tuệ Như lai.

[23] Phóng dật có 2: một là, phóng dật do tác ý (động niệm) mà hiện hành, thì đối trị bằng giới niệm, tức chánh niệm do tịnh giới đem lại; hai là, phóng dật không do tác ý (bất động) mà chỉ do tập quán nhậm vận hiện hành, thì đối trị bằng chánh trí liên tục, tức sự trì danh niệm Phật sao cho “hệ niệm bất loạn”. Đừng sống phóng dậtnỗ lực tự chế ngự tâm mình đối với 5 căn, 5 dục, và nỗ lực liên tục trong sự niệm Phật. Chính sự bất phóng dật quyết dịnh sự sanh Cực lạc và sự không thoái chuyển Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11605)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11921)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11089)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11329)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12047)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12543)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10741)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17959)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11711)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9930)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10156)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12336)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15315)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11217)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14309)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12067)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15303)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11982)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12383)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11147)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12062)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10590)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12540)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13138)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14770)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12630)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16520)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19615)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13089)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12639)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12222)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11812)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10875)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13467)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11919)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11821)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11612)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12745)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14487)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12586)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15641)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13590)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12869)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9843)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17988)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11139)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9050)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12151)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13027)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10278)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12163)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15279)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16575)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12185)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11442)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14243)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19650)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14134)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24562)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10662)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant