Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 5

22 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 9608)
Quyển 5

 

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM


Đời Đường, sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Trung-Thiên-trúc) dịch từ Phạn văn ra Hán văn

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn và chú thích


Quyển 5


- Sáu Căn Là Đầu Mối của

Sinh TửNiết Bàn

 - Nhân DuyênPhương Tiện Chứng Đắc Viên Thông

 

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Tuy đức Thế Tôn đã dạy nghĩa quyết định thứ hai (về việc mở gút), nhưng con xem trong thế gian, những người muốn mở gút mà không biết đầu mối của gút ở chỗ nào, thì chắc chắn là họ không thể mở được. Bạch đức Thế Tôn! Con và toàn thể hàng Thanh-văn hữu-học ở trong hội chúng này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng con cùng sinh cùng diệt với vô minh, tuy được gọi là người xuất gia, và có căn lành được nghe nhiều giáo pháp như thế này, nhưng chỉ là chợt giác chợt mê, giống như người bị bệnh sốt rét cách nhật! Cúi xin đức Đại Từ thương xót kẻ chìm đắm, chỉ dạy cho chúng con, giờ đây, chính nơi thân tâm này, cái gì là gút, và bắt đầu từ đâu để khởi sự mở? Đồng thời cũng khiến cho chúng sinh đau khổ trong đời vị lai được thoát khỏi luân hồi, vượt ra ngoài ba cõi.

Bạch lời ấy xong, đại đức A Nan cùng toàn thể đại chúng, năm vóc gieo xuống đất, một lòng thành khẩn, chờ nghe lời khai thị vô thượng của đức Phật.

Bấy giờ đức Thế Tôn thương xót đại đức A Nan cùng hàng hữu học trong pháp hội, lại cũng vì chúng sinh đời vị lai mà khai thị đạo nhãn, làm cái nhân tu chứng đạo quả giải thoát, bèn dùng bàn tay sáng ngời màu vàng tía xoa lên đầu đại đức A Nan. Liền ngay lúc ấy, tất cả cõi Phật khắp mười phương đều chấn động sáu cách. Các đức Như Lai nhiều vô lượng ở các cõi kia, mỗi Ngài đều có ánh sáng quí báu phát ra từ đỉnh đầu. Tất cả ánh sáng ấy cùng lúc đó đều chiếu đến rừng Kì-đà, soi trên đỉnh đầu của đức Thế Tôn. Tất cả đại chúng trong pháp hội đều thấy được cảnh tượng chưa từng có.

Lúc bấy giờ, đại đức A Nan và khắp đại chúng, đều nghe các đức Như Lai nhiều vô lượng trong mười phương, đồng thanh dạy rằng:

Lành thay, A Nan! Ông muốn biết cái gì là “câu sinh vô minh”(124), cái gút thắt đã khiến ông luân chuyển trong vòng sinh tử: đó chính là sáu căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác! Ông lại muốn biết, cái gì làm cho ông mau chứng được cảnh giới an lạc giải thoát, tịch tĩnh diệu thường của quả vị Vô thượng Bồ đề: thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác!

Đại đức A Nan tuy nghe pháp âm ấy, nhưng tâm vẫn chưa rõ, bèn cúi đầu bạch Phật:

– Tại sao cái làm cho con luân hồi sinh tử, hoặc chứng được cảnh giới an lạc diệu thường, đều chính là sáu căn chứ không phải vật gì khác?

Đức Phật dạy đại đức A Nan:

– Căn và trần cùng nguồn gốc; trói và cởi không hai; tánh của thức là hư vọng, giống như hoa đốm giữa hư không. Này A Nan! Do nơi trần mà phát sinh cái biết của căn; do nơi căn mà hiện ra cái tướng của trần. Cái tướng của trần và cái thấy biết của căn đều không có tự tánh độc lập, giống như hai cây lau phải dựa vào nhau mới đứng vững được. Thế nên giờ đây, nếu ở nơi tri kiến mà thầy bị dính mắc vào cái tướng năng tri sở tri, thì đó là gốc của vô minh; nếu ở nơi tri kiến mà không dính mắc vào tướng năng tri sở tri, thì đó chính là niết bàn chân tịnh; làm gì có vật nào khác ở trong đó!

Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:

 

Nơi thể tánh chân như,

Pháp hữu vi không thật,

Duyên sinh, nên như huyễn;

Vô vi không sinh diệt,

Cũng không phải thật pháp,

Như hoa đốm hư không.

Nói vọng để tỏ chân,

Vọng và chân đều vọng;

Đã không phải là “chân”,

Cũng không phải “phi chân”,

Thì làm sao có được

Năng kiến cùng sở kiến!

Ở giữa căn và trần,

Không có tánh chân thật,

Giống như cây giao-lô(125).

Thắt, mở đồng một nhân,

Thánh, phàm không hai lối.

Quán sát thật kĩ càng

Tánh trong cây giao-lô,

Có, không đều không phải;

Mê chấp có và không,

Đó tức là vô minh,

Thấy rõ không phải có

Và cũng không phải không,

Đó tức là giải thoát.

Mở gút theo thứ lớp,

Khi sáu gút(126) đã mở,

Cái một(127) cũng không còn.

Ở trong sáu căn kia,

Chọn một căn viên thông,

Vào dòng không thối chuyển,

Liền thành bậc Chánh-giác.

Thức đà-na(128) vi tế,

Tập khí luôn huân biến,

Thành dòng thác sinh tử;

Sợ chúng sinh lầm lạc

Mê chấp vọng làm chân,

Hoặc chấp chân làm vọng,

Vì thế nên Như Lai

Thường không nói thức này.

Tự tâm chấp tự tâm,

Nên pháp vốn chẳng huyễn,

Đều trở thành hư huyễn.

Nếu không còn chấp trước,

Pháp chẳng huyễn không sinh;

Chẳng huyễn còn không sinh,

Pháp huyễn làm sao có!

Đó là diệu liên hoa,

Chân tâm kim cang vương,

Như huyễn tam ma đề,

Chỉ trong khoảng sát na,

Vượt trên hàng Vô-học.

Đó là pháp vô thượng,

Đường đến thẳng niết bàn,

Của chư Phật mười phương.

 

Đại đức A Nan cùng đại chúng nghe lời dạy bảo từ bi vô thượng của Phật, kệ tụng tinh túy, diệu lí trong suốt, mắt tâm tỏ ngộ, đồng tán thán là việc chưa từng có. Bấy giờ, đại đức A Nan chắp tay đảnh lễ, bạch Phật rằng:

– Nay con được nghe lời dạy về pháp chân thật, thanh tịnh diệu thường, phát xuất từ tâm đại từ bình đẳng của đức Thế Tôn; nhưng tâm con vẫn chưa rõ thế nào là “khi sáu gút đã mở, cái một cũng không còn”, thế nào là “mở gút theo thứ lớp”, cúi xin đức Thế Tôn rủ lòng đại từ, thương xót hội chúng này cùng chúng sinh đời sau, ban bố cho pháp âm, để rửa sạch những cấu nhiễm nặng nề của chúng con.

Liền khi ấy, đức Phật từ nơi tòa sư tử, sửa nội y cho ngay ngắn, rồi vén đại y, đưa tay lấy chiếc khăn hoa (do trời Dạ-ma cúng dường) máng trên ghế bảy báu, ở trước đại chúng, Ngài cột một cái gút, đưa cho đại đức A Nan xem, và hỏi rằng:

– Cái này gọi là gì?

Đại đức A Nan cùng đại chúng đồng bạch Phật rằng:

– Đó gọi là cái gút.

Đức Phật lại cột cái khăn hoa thành một gút nữa, và hỏi đại đức A Nan:

– Cái này gọi là gì?

Đại đức A Nan cùng đại chúng lại bạch Phật rằng:

– Đó cũng là cái gút.

Đức Phật tuần tự cột khăn hoa như vậy, tổng cộng có sáu cái gút. Mỗi khi cột xong một gút, đức Phật đều đưa cho đại đức A Nan xem, và hỏi: “Cái này gọi là gì?” Đại dức A Nan cùng đại chúng, cũng lại như vậy, đồng tuần tự bạch rằng: “Đó là cái gút.” Bấy giờ Phật bảo đại đức A Nan:

– Khi Như Lai mới cột cái khăn thì thầy gọi đó là cái gút. Cái khăn hoa này, trước đó chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, thứ ba, quí thầy cũng gọi là gút?

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Cái khăn hoa được dệt thật quí báu, tuy vốn chỉ có một cái, nhưng theo con suy nghĩ, đức Thế Tôn cột một lần thì gọi là một cái gút, nếu cột một trăm lần thì phải gọi là một trăm cái gút; huống chi cái khăn ấy chỉ có sáu cái gút, không lên đến bảy, cũng không dừng ở năm, vì sao đức Thế Tôn chỉ gọi cái đầu tiên là gút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là gút?

Phật bảo đại đức A Nan:

– Thầy biết cái khăn hoa quí báu này nguyên chỉ có một cái, nhưng khi Như Lai cột sáu lần thì có sáu cái gút. Thầy hãy xét kĩ, tự thể của cái khăn là đồng, nhưng nhân vì cột gút mà hóa ra thành khác. Ý thầy thế nào? Cái gút đầu tiên được cột thành thì gọi là gút thứ nhất, như thế cho đến cái gút thứ sáu được cột thành, thì lúc ấy, Như Lai muốn gọi cái gút thứ sáu là gút thứ nhất, có được không?

– Dạ không được, bạch Thế Tôn! Nếu cả sáu cái gút đều còn đủ, thì cái gọi là thứ sáu không bao giờ gọi là cái thứ nhất; cho dù con có biện giải suốt đời, cũng không thể nào đem tên của sáu cái gút đó mà gọi lộn xộn được!

Phật dạy:

– Đúng vậy! Sáu cái gút thứ lớp không đồng, tuy nhìn lại nguồn gốc, thì chỉ do một cái khăn mà có, nhưng rốt cuộc không ai có thể làm cho sáu cái gút ấy lộn xộn lẫn nhau được. Sáu căn của thầy cũng vậy, trong chỗ hoàn toàn đồng nhau, sinh ra cái hoàn toàn khác nhau.

Đức Phật lại hỏi đại đức A Nan:

Giả sử thầy không muốn cái khăn làm thành sáu cái gút, mà muốn cái khăn trở lại tự thể duy nhất ban đầu của nó, thì thầy làm thế nào?

Đại đức A Nan thưa:

– Nếu còn những cái gút thì thị phi nổi dậy, sự tranh cãi từ trong đó mà sinh ra, nào là gút này không phải gút kia, nào là gút kia không phải gút này. Nếu bây giờ đức Thế Tôn mở tung hết các gút ấy ra, tất nhiên, không có gút nào cả thì không có cái này, cái kia; như thế, cái gọi là “một” còn không có, huống gì là cái “sáu”!

Phật dạy:

– Lời Như Lai nói: “Sáu gút đã mở thì cái một cũng không còn.”, ý nghĩa cũng giống như vậy.

Do vì từ vô thỉ, tâm thầy cuồng loạn, nên cái thấy biết vọng phát ra. Vọng phát mãi không dừng, làm cho cái thấy biết sinh bệnh mà phát ra trần tướng. Như con mắt mệt mỏi thì có hoa đốm lăng xăng; ở trong cái tánh sáng suốt trong lặng, không do đâu mà bỗng dưng rối rít khởi lên những tướng thế gian, nào núi sông đất liền, nào sinh tử niết bàn. Tất cả những thứ đó đều là hoa đốm điên đảo do bệnh mê lầm phát ra.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Cái bệnh mê lầm ấy giống như cái gút, làm sao mà giải trừ?

Đức Phật cầm cái khăn có thắt gút, kéo riêng mối bên trái, hỏi đại đức A Nan:

– Làm thế này có mở gút được không?

– Bạch Thế Tôn, không được!

Đức Phật lại kéo riêng mối bên phải, hỏi đại đức A Nan:

– Như thế này thì có mở được không?

– Bạch Thế Tôn, không được!

Phật bảo đại đức A Nan:

Như Lai kéo mối bên trái không mở được gút, kéo mối bên phải cũng không mở được; vậy thì thầy hãy nói làm cách nào thì mở được?

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Phải mở ở trung tâm cái gút thì tháo tung ngay.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Đúng thế! Muốn mở gút thì phải mở từ trung tâm cái gút. Này A Nan! Như Lai từng nói rằng, Phật pháp do nhân duyên sinh khởi, nhưng “nhân duyên” ở đây không phải là những tướng hòa hợp thô lậu của thế gian. Như Lai sáng tỏ tuệ giác vô thượng, cho nên thấy rõ cái nhân cội gốc của tất cả các pháp thế và xuất thế gian, và mỗi mỗi pháp ấy theo duyên gì mà phát hiện ra; đến như từng giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới, Như Lai cũng biết con số nhiều ít; các thứ trước mặt đây như cây tùng tại sao thẳng, cây gai tại sao cong, con thiên nga tại sao trắng, con quạ tại sao đen, Như Lai đều biết rõ nguyên do. Vì vậy cho nên, này A Nan, tùy tâm thầy chọn một trong sáu căn, nếu mở được cái gút nơi căn ấy thì các trần tướng tự nhiên tiêu vong. Vọng cảnh đã diệt mất hết rồi, ngay lúc ấy là thầy sống với chân tâm, chứ còn đợi cái chân nào nữa?

Này A Nan! Bây giờ Như Lai hỏi thầy: Cái khăn hoa báu này hiện có sáu cái gút, có thể cùng một lúc mở bung ra để bỏ hết sáu gút được không?

– Dạ không được, bạch Thế Tôn! Những cái gút ấy, khi cột vốn đã theo thứ lớp, thì bây giờ cũng phải theo thứ lớp mà mở. Sáu cái gút tuy là đồng thể, nhưng khi cột lại không cùng lúc; cho nên mở gút thì phải mở theo thứ lớp từng cái một, chứ đâu thể nào trong cùng một lúc mà mở được hết!

Phật dạy:

– Cởi bỏ những cái gút sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu được mở thì trước tiên cởi bỏ được ngã chấpchứng nhậpnhân không. Khi tánh không sáng suốt viên mãn thì giải thoát được pháp chấp. Pháp chấp đã cởi bỏ được rồi, thì cả nhân khôngpháp không đều không còn sinh khởi; đó gọi là Bồ-tát từ tam-ma-địa mà chứng được vô sinh nhẫn(129).

Đại đức A Nan cùng đại chúng nhờ Phật khai thị mà được tuệ giác viên thông, không còn điều gì nghi hoặc, đồng chắp tay đảnh lễ nơi chân Phật, và bạch rằng:

– Hôm nay chúng con thân tâm được rỗng sáng, rất vui mừng vì không còn bị chướng ngại. Chúng con đã lãnh hội diệu nghĩa “sáu mở một không còn”; tuy nhiên, chúng con vẫn còn chưa hiểu rõ “căn nào là căn gốc rễ để chứng nhập viên thông?”.

Bạch Thế Tôn! Chúng con phiêu bạt bơ vơ nhiều kiếp, đâu ngờ rằng ngày nay lại được dự vào dòng giống của Phật; như đứa trẻ thơ mất sữa, bỗng nhiên gặp được mẹ hiền! Nếu nhân cơ hội gặp gỡ may mắn này mà con y theo lời dạy của Thế Tôn tu tập thành tựu đạo quả, thì thật là không phụ duyên hạnh ngộ. Nay con nghe được giáo pháp chưa từng có, mà nếu cứ hiểu trên văn tự như trước đây, thì thật là uổng công nghe; ôm một mớ tri kiến trống rỗng mà không thực chứng điều gì, thì cũng giống như người chưa từng được nghe pháp, có khác biệt gì đâu! Vậy xin đức Thế Tôn rủ lòng đại bi, ban cho chúng con giáo pháp bí mật nghiêm tịnh, như là lời khai thị cuối cùng của Thế Tôn.

Đại đức A Nan bạch lời ấy xong, năm vóc gieo xuống đất, lui về bản vị, ẩn tâm nơi cơ cảm sâu nhiệm, thầm lặng cầu khẩn, mong Phật tâm truyền.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị lậu tận đại A-la-hán đang hiện diện trong pháp hội rằng:

– Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh trưởng trong giáo pháp của Như Lai và đã chứng quả Vô-học. Giờ đây Như Lai hỏi các ông: Lúc ban đầu phát tâm, trong mười tám khu vực(130), do ở khu vực nào mà chứng ngộ viên thông, và nhờ phương tiện gì mà vào tam-ma-địa?

Lúc bấy giờ, nhóm tôn giả Kiều Trần Na gồm năm vị tì kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

Ngay sau khi Thế Tôn thành đạo, chúng con đã được nhìn thấy Thế Tôn đầu tiên ở vườn Nai. Do nơi âm thanh của Thế Tôn mà chúng con tỏ ngộ diệu lí Bốn Sự Thật. Lúc đó Thế Tôn hỏi: “Các tì kheo hiểu không?” Con đã bạch trước tiên: “Con đã hiểu.” Thế Tôn liền ấn chứng cho con tên là A Nhã Đa. Âm thanh của Thế Tôn thật nhiệm mầu, thâm áo, tròn đầy. Con đã từ nơi âm thanh đó mà tu nhân, tỏ ngộ chân lí, chứng quả A-la-hán. Hôm nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì âm thanh là hơn hết.

Tôn giả Ưu Ba Ni Sa Đà(131) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con cũng được gặp Thế Tôn sau ngày Thế Tôn thành đạo không bao lâu. Con được Thế Tôn dạy cho pháp quán sát về sự bất tịnh của sắc thân, nhờ đó mà sinh tâm nhàm chán tột cùng, không đắm trước thân tướng, tỏ ngộ bản tánh của sắc trần. Do từ tướng bất tịnh đến tướng xương trắng, cho đến khi toàn thân bị thiêu đốt thành tro bụi, gặp gió thổi tung bay tứ tán, trở về hư không. Con quán sát cả hai, không và sắc đều không, chứng thành quả Vô-học, đức Thế Tôn ấn chứng cho con tên là “Ni Sa Đà”(132). Sắc tướng vọng trần đã hết sạch, hiển bày sắc tánh tịnh diệu thâm áo viên mãn. Con đã do nơi sắc tướngchứng quả A-la-hán. Hôm nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì sắc trần là hơn hết.

Tôn giả Hương Nghiêm(133) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Lúc đó con nghe đức Thế Tôn dạy con quán sát chín chắn các pháp hữu vi, con bèn từ giã đức Thế Tôn, trở về tĩnh tọa nơi tịnh thất. Các thầy tì kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào trong mũi con. Con quán chiếu mùi hương ấy, nó không phải từ gỗ mà ra, không phải từ hư không mà đến, không phải do khói mà có, không phải do lửa phát sinh; bay đi thì không chỗ trụ, cũng không từ đâu mà đến. Do quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt trong con tự tiêu vong, trí vô lậu bừng sáng; đức Thế Tôn ấn chứng cho con danh hiệu Hương Nghiêm. Hương trần đã diệt, hiển bày hương tánh tịnh diệu thâm áo viên mãn. Con đã do cái hương nghiêm tịnh ấy mà chứng quả A-la-hán. Hôm nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì hương trần là hơn hết.

Hai vị đại Bồ Tát Dược VươngDược Thượng(134), cùng năm trăm vị Phạm-thiên trong chúng hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Chúng con từ vô thỉ kiếp, từng là lương y của thế gian, miệng thường nếm các loại cỏ, cây, vàng, đá trong thế giới Ta-bà này, có đến mười vạn tám ngàn thứ. Chúng con biết rõ tất cả, như thứ nào có vị đắng, thứ nào có vị chua, thứ nào vị mặn, thứ nào vị nhạt, thứ nào ngọt, thứ nào cay, vân vân. Chúng con cũng biết rõ tánh của thứ nào cần hòa hợp nhiều thứ để trị một bệnh; thứ nào mới sinh ra, một mình nó đã đủ khả năng trị một bệnh. Lại như thứ nào cần phải sao, nấu, nướng cho biến chất thì mới công hiệu; thứ nào tánh lạnh để trị chứng nóng, thứ nào tánh nóng để trị chứng lạnh; thứ nào tánh độc, thứ nào không độc; tất cả những loại thuốc như vậy, chúng con đều biết rõ. Chúng con phụng sự đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp, biết rõ tự tánh của vị trần, không phải không, không phải có, không phải tức thân tâm, không phải rời thân tâm. Chúng con do phân biệt vị trần mà được khai ngộ; nhờ đức Thế Tôn ấn chứng cho anh em chúng con danh hiệu Dược VươngDược Thượng. Hôm nay, ở trong pháp hội này, chúng con là Pháp-vương-tử. Chúng con do từ vị trầngiác ngộ, được lên địa vị Bồ-tát. Đức Thế Tôn hỏi nhân duyênphương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của chúng con thì vị trần là hơn hết.

Đức Bồ Tát Bạt Đà Bà La(135) và mười sáu vị Bồ-tát đồng bạn, cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Chúng con xưa kia, ở vào thời đại Phật Oai Âm Vương(136) trụ thế, từng nghe phápxuất gia tu hành. Đến kì tắm gội của chư tăng, con theo thứ lớp mà vào phòng tắm. Trong lúc tắm, bỗng con thấy rõ nước chính là cái nhân dẫn đến giác ngộ. Nước vốn không rửa bụi trần, cũng không rửa thân thể, khoảng giữa an nhiên vắng lặng, cái tướng xúc trần hoàn toàn không thể nắm bắt. Con được Phật ấn chứng cho tên Bạt Đà Bà La. Hạt giống huân tập khi xưa con vẫn không quên, ngày nay con được theo đức Thế Tôn xuất gia, do phát hiện được chân tánh mầu nhiệm của xúc trần mà con chứng nhập địa vị Bồ-tát Đẳng-giác. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì xúc trần là hơn hết.

Tôn giả Đại Ca Diếp và tì kheo ni Tử Kim Quang(137), từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Vào một kiếp xa xưa, ở thế giới này có đức Phật ra đời, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng. Thuở ấy con được thân cận Phật, được nghe pháp tu hành. Sau khi Phật diệt độ, con thắp đèn sáng liên tục để cúng dường xá-lợi; lại dùng vàng tía để thếp tượng Phật. Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân con thường toàn vẹn, ngời sáng màu vàng tía; tì kheo ni Tử Kim Quang đây là quyến thuộc của con, cũng đồng thời cùng phát tâm như vậy. Con quán sát sáu trần trong thế gian đều biến đổi hoại diệt, tự thể của chúng là không tịch. Con tu định diệt tận, nhờ đó mà thân tâm rỗng rang, có thể trải qua trăm ngàn kiếp chỉ như thời gian một cái khảy móng tay. Do quán chiếu các pháp rỗng không nên pháp trần tiêu diệt, từ đó mà con chứng quả A-la-hán. Đức Thế Tôn chứng nhận con tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Tướng sinh diệt của pháp trần đã diệt thì pháp tánh nhiệm mầu hiển hiện, bao nhiêu lậu hoặc đều tiêu trừ. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì pháp trần là hơn hết.

Tôn giả A Na Luật từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Từ khi mới xuất gia, con thường ham ngủ, bị đức Thế Tôn quở trách là loài súc sinh. Nghe lời Thế Tôn quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày đêm không ngủ, đến nỗi mù cả hai mắt. Đức Thế Tôn thương xót, chỉ dạy cho con pháp tu xoay cái thấy trở về nguồn tánh, chiếu soi cho đến khi thấy rõ được tự tánh vốn sáng suốt thì chứng nhập được kim cang tam muội. Con không dùng mắt mà có thể thấy khắp mười phương thế giới, rỗng suốt tinh tường như xem trái cây trong lòng bàn tay; được đức Thế Tôn ấn chứng, con thành tựu quả vị A-la-hán. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì xoay cái thấy của nhãn căn trở về nguồn tánh thanh tịnh sáng suốt bản nhiên là pháp tu ưu việt nhất.

Tôn giả Chu Lị Bàn Đặc Già(138) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con vốn kém trí nhớ, không có khả năng học rộng nghe nhiều. Buổi đầu gặp đức Thế Tôn, được nghe pháp xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Thế Tôn, mà một trăm ngày cũng không nhớ nổi, hễ nhớ được mấy chữ trước thì quên mấy chữ sau, hễ nhớ được mấy chữ sau thì lại quên mấy chữ trước. Thế Tôn thương xót con là kẻ ngu muội, dạy con an cư nơi vắng vẻ, tu tập phép điều hòa hơi thở ra vào. Lúc bấy giờ, vâng lời Thế Tôn dạy, con quán chiếu từng hơi thở, từ thô trọng đến vi tế; trước chỉ điều hòa hơi thở ra vào, sau soi thấu tận cùng chỗ sinh diệt của nó: bắt đầu hít vào gọi là “sinh”, hơi đầy trong phổi gọi là “trụ”, bắt đầu thở ra gọi là “dị”, thở ra hết hơi gọi là “diệt”; bốn tướng ấy trôi chảy chuyển biến từng sát na. Thực tập như thế ít lâu, tâm con bỗng nhiên rỗng sáng, được đại vô ngại; cho đến khi các lậu hoặc dứt hết, con chứng thành quả vị A-la-hán, trước pháp tòa của Thế Tôn, được ấn chứng thành hàng Vô-học. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì tập trung tâm ý quay về quán chiếu hơi thở ra vào, thấy rõ các tướng sinh trụ dị diệt của hơi thởtâm niệm đều rỗng không thanh tịnh, đó là pháp tu thù thắng nhất.

Tôn giả Kiều Phạm Bát Đề(139) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con mang khẩu nghiệp, bởi trong kiếp quá khứ con đã khinh mạn giễu cợt một vị sa môn, nên nhiều đời mang tật nhai lại như trâu. Đức Thế Tôn chỉ dạy cho con pháp môn “tâm địa một vị thanh tịnh”. Nhờ tu tập pháp môn này mà con diệt trừ được tâm phân biệt, chứng nhập tam-ma-địa. Con quán chiếu cái tánh biết vị không phải do tự thể thiệt căn sinh ra, cũng không phải từ ngoại vật mà có. Liền đó con vượt khỏi mọi lậu hoặc của thế gian, trong thì giải thoát thân tâm, ngoài thì bặt tăm thế giới; vĩnh viễn xa lìa ba cõi, như chim sổ lồng, rửa sạch cấu nhiễm, diệt hết vọng trần, được pháp nhãn thanh tịnh, chứng thành quả vị A-la-hán. Đức Thế Tôn ấn chứng cho con vào hàng Vô-học. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì trả cái vị về cho sự phân biệt của thiệt căn, xoay cái biết về bản tánh nhất vị thanh tịnh, đó là pháp tu tập hữu hiệu nhất.

Tôn giả Tất Lăng Già Bà Ta(140) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con khi mới phát tâm theo đức Thế Tôn xuất gia học đạo, thường nghe đức Thế Tôn dạy rằng: Mọi sự việc ở thế gian đều là khổ, chẳng có gì vui. Trong khi đi khất thực ở trong thành, con vẫn chú tâm tư duy quán chiếu pháp môn Phật dạy, không ngờ chân con đạp phải cái gai độc giữa đường, toàn thân đau nhức. Lúc đó con quán niệm: Trong thân có cái biết để biết đau nhức. Tuy trong thân căn có cái biết để biết đau nhức, nhưng đó chỉ là cái biết hư vọng, cho nên mới có đau nhức; còn cái biết bản nhiên nơi chân tâm thanh tịnh thì không có cái đau nhức, cũng không có cái biết đau nhức. Con lại suy nghĩ: Trong một thân thể này lẽ đâu lại có đến hai tánh biết? Con nhiếp niệm không bao lâu, bỗng dưng thân tâm rỗng không thanh tịnh; hai mươi mốt ngày sau thì lậu hoặc tiêu trừ hết sạch, chứng thành quả vị A-la-hán; đức Thế Tôn ấn chứng cho con là bậc Vô-học. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì đừng quan trọng thân căn, mà hãy giữ tinh thuần giác tánh, đó là pháp tu nhân ưu thắng nhất.

Tôn giả Tu Bồ Đề từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con luôn được vô ngại. Con tự nhớ những kiếp thọ sinh của con nhiều như cát sông Hằng. Lần thọ sinh này, từ lúc mới đầu ở trong thai mẹ, con đã biết về tánh không tịch của thân tâm. Cho đến khi ra khỏi thai mẹ, con lại biết cả vạn pháp trong mười phương thế giới cũng là không tịch. Sau khi xuất gia theo đức Thế Tôn, con lại tuyên thuyết pháp ấy, khiến cho mọi người cùng chứng nhập tánh không tịch ấy. Nhờ đức Thế Tôn hiển phát tánh giác là chân không, nên con tỏ ngộ được diệu tánh chân không tròn đầy sáng suốt, thành tựu quả vị A-la-hán, liền chứng nhập biển không sáng ngời vi diệu của Như Lai, tri kiến đồng như Phật. Đức Thế Tôn ấn chứng cho con thành bậc Vô-học, lại là người chứng ngộ tánh không cao hơn hết trong hàng Nhị-thừa, vì tuy con chứng ngộ tánh không mà không trụ nơi cái không. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì quán chiếu tất cả các tướng ngã, pháp đều là không tướng; cả không tướng và đối tượng của không tướng cũng đều không; xoay các pháp sinh diệt hư vọng trở về đệ nhất nghĩa không, có mà thật chẳng có gì, đó là pháp chuyển hóa ý căn hữu hiệu nhất.

Tôn giả Xá Lợi Phất từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con từ vô lượng kiếp đến nay, nhãn thức thường thanh tịnh. Số đời con thọ sinh nhiều như cát sông Hằng; các pháp biến hóa trong thế gianxuất thế gian, hễ thấy là biết rõ ràng thông suốt, không hề bị chướng ngại. Trước đây, một hôm con đang đi trên đường thì gặp ba anh em thầy Ca Diếp(141), dụng ý theo con để thuyết pháp. Con được nghe giáo pháp “nhân duyên” mà tỏ ngộ được cái tâm rộng lớn bao la không bờ bến. Con theo đức Thế Tôn xuất gia, chỗ thấy biết sáng tỏ tròn đầy, được đại vô úy, chứng quả A-la-hán, làm trưởng tử của Phật, sinh ra từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp Phật. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì do nhãn thức mà chuyển thành trí tuệ vô ngại, trí tuệ phát sáng cùng cực, thấu suốt đến tri kiến Phật; đó là pháp tu thù thắng nhất.

Đức Bồ Tát Phổ Hiền(142) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con đã từng là pháp vương tử của chư Phật nhiều như cát sông Hằng. Chư Phật trong mười phương đều dạy các vị đệ tửcăn cơ Bồ-tát hãy tu tập hạnh Phổ Hiền; đó là lấy tên con mà đặt tên cho hạnh tu vậy. Bạch đức Thế Tôn! Con dùng nhĩ thức phân biệt tất cả sự thấy biết của chúng sinh. Nếu ở một phương nào khác, dù cách xa đến hằng sa thế giới, có người phát tâm tu hạnh Phổ Hiền, thì ngay lúc ấy, con cưỡi voi sáu ngà, phân thân làm trăm, ngàn, đều đến chỗ người ấy; dù người ấy có bị nghiệp chướng sâu dầy mà không thấy được con, con cũng âm thầm sờ đầu, an ủi ủng hộ, khiến cho người ấy được thành tựu hạnh nguyện. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, thì theo như con vừa bạch lên đức Thế Tôn, nguyên chỗ tu nhân lúc ban đầu, con chỉ dùng ánh sáng trí tuệ của nhĩ thức để nhận biết cơ cảm của chúng sinh một cách tự tại; theo con, đó là pháp tu hiệu quả nhất.

Tôn giả Tôn Đà La Nan Đà(143) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Khi con mới theo đức Thế Tôn xuất gia học đạo, tuy giữ giới luật đầy đủ, nhưng trong lúc thiền định, tâm con thường bị tán loạn, chưa đạt được vô lậu. Đức Thế Tôn dạy con và thầy Câu Hi La(144), hãy chú mục nhìn nơi chóp lỗ mũi. Con bắt đầu thực tập pháp ấy, sau hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở ra vào lỗ mũi, hình trạng như khói; tị thức an định, ánh sáng trí tuệ phát sinh, tròn đầy thấu suốt, khắp thế giới biến thành trống không thanh tịnh, trong suốt như ngọc lưu li. Tướng khói dần dần cũng tiêu mất, hơi thở hóa thành trắng. Đến khi tâm khai ngộ, các lậu dứt hết, hơi thở ra vào hóa thành ánh sáng, soi khắp mười phương thế giới, chứng A-la-hán, đức Thế Tôn thọ kí cho con, trong tương lai sẽ thành Phật. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo con thì quán hơi thở để nhiếp tâm, cho đến khi cái hơi thở tiêu mất tướng thô trọng mà hoàn toàn trở thành bạch tịnh. Giữ như thế càng lâu thì định lực càng sâu, hơi thở bạch tịnh cũng tiêu mất mà hóa thành ánh sáng trí tuệ, chiếu soi mười phương, diệt trừ hết lậu hoặc. Như vậy, quán hơi thở nơi tị căn là pháp tu thù thắng nhất.

Tôn giả Phú Lâu Na từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con từ nhiều kiếp đến nay, biện tài vô ngại, tuyên dương các pháp khổ, không, thấu suốt thật tướng của vạn pháp. Như thế cho đến các pháp môn bí mật thâm áo của hằng sa các đức Như Lai, ở trong đại chúng, con đều đem nghĩa lí vi diệu mà chỉ bày một cách tự tại, không bị chướng ngại. Đức Thế Tôn biết con có đại biện tài, bèn đem pháp luân âm thanh dạy con tuyên dương. Con trợ lực đức Thế Tôn trong việc hoằng dương chánh pháp; và do sức thuyết pháp vô úy mà con chứng quả A-la-hán, đức Thế Tôn ấn chứng cho con là người thuyết pháp đứng đầu tăng đoàn. Nay đức Thế Tôn hỏi nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo con thì dùng thiệt thức phô diễn pháp âm để hàng phục mọi ma oán, tiêu trừ mọi lậu hoặc, đó là pháp tu ưu thắng nhất.

Tôn giả Ưu Ba Li(145) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Chính con được theo đức Thế Tôn vượt thành xuất gia;(146) chính mắt con được thấy đức Thế Tôn tinh cần tu khổ hạnh suốt sáu năm; lại chứng kiến đức Thế Tôn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, giải thoát ra khỏi mọi lậu hoặc tham dục của thế gian. Con vâng theo giới pháp do đức Thế Tôn trao truyền, cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh(147), các tánh nghiệp và già nghiệp(148) thảy đều thanh tịnh, thân tâm vắng lặng, chứng quả A-la-hán. Con nắm giữ cương kỉ trong tăng chúng, được đức Thế Tôn ấn chứng là người trì giới tu thân bậc nhất. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, con đã dùng giới luật để chế phục thân thức; thân thức không khởi hiện cho nên thân được tự tại đối với xúc trần. Con lại dùng giới luật để chế phục tâm, mà tâm được thông suốt; tiến tới chỗ không còn có giới để chấp trì, cũng không còn có tâm để giữ giới, thân và tâm đều viên thông tự tại; không có ý niệm giữ giới mà không có giới nào bị hủy phạm, đó là pháp tu thù thắng nhất.

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Lúc trước, trên đường đi khất thực, con được gặp ba anh em thầy Ca Diếp(149), giảng nói cho con nghe nghĩa lí giáo pháp nhân duyên sâu xa của đức Thế Tôn, tâm liền tỏ ngộ, phát tâm xuất gia, được đức Thế Tôn ban cho áo ca sa mặc trên mình, râu tóc tự rụng, phát sáng thần thông, chứng quả A-la-hán, du hành khắp mười phương không bị chướng ngại, được đại chúng xưng là thần thông bậc nhất. Không phải chỉ riêng đức Thế Tôn, mà cả chư Phật mười phương đều khen ngợi thần lực của con là viên minh thanh tịnh, tự tại vô úy. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì xoay ý thức vọng tưởng phân biệt trở về tánh trong lặng thường trú, tâm sáng suốt hiển bày, như lắng nước đục, để lâu thì thành trong sáng; đó là pháp tu thù thắng nhất.

Tôn giả Ô Sô Sắt Ma(150) chắp tay đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con thường nhớ trước kia, trong một kiếp xa xôi, tánh con quá nhiều tham dục. Lúc ấyđức Phật ra đời, hiệu là Không Vương(151), dạy rằng: người đa dâm là đống lửa mạnh; nhân đó Ngài dạy con quán chiếu các hơi nóng lạnh ở tay chân và khắp thân mình. Con nhờ quán chiếu như thế mà ánh sáng linh diệu lắng đọng ở bên trong, tâm đa dâm được chuyển hóa thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật đều gọi con là Hỏa Đầu. Con do sức hỏa quang tam muội chứng quả A-la-hán; tâm liền phát nguyện: Khi nào có đức Phật thành đạo, con sẽ hiện làm thân lực sĩ để hàng phục tà ma, ủng hộ Phật pháp. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì quán sát kĩ càng các hơi nóng nơi thân tâm đều lưu thông vô ngại; từ đó mà các lậu đều tiêu trừ, lửa trí tuệ phát sinh, được vô thượng giác, đó là pháp tu ưu thắng nhất.

Đức Bồ Tát Trì Địa từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con nhớ kiếp xưa, gặp thời đức Phật Phổ Quang(152) xuất hiện ở đời, con là một tì kheo, thường để ý xem xét nơi các bến đò, các trục lộ giao thông, nếu có chỗ đất mấp mô, nhỏ hẹp, gây khó khăn nguy hiểm cho bộ hành đi lại, phương hại đến ngựa, xe, con phát tâm làm cầu cống, hoặc sửa đường, hay gánh đất cát đổ đầy chỗ trũng cho mặt đất bằng phẳng; hoặc ở nơi chợ búa, có người sức yếu cần mang giúp đồ vật, con liền mang giúp người đó đem đến tận nơi, để đồ vật xuống là đi ngay, không lấy tiền công. Con đã làm việc siêng năng cực nhọc như thế trải qua vô lượng đức Phật ra đời, đến thời kì đức Phật Tì Xá Phù(153) tại thế, ở thế gian nhiều nơi bị đói kém, con đã giúp cõng người, không kể đi gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe bò bị lún xuống sình lầy, con phụ đẩy xe lên khỏi chỗ lầy, khiến cho người và vật không còn lo khổ. Vị quốc vương đương thời, một hôm thỉnh Phật Tì Xá Phù vào vương cung cúng dường trai phạn, con liền sửa sang đường đất bằng phẳng đợi Phật đi qua. Đức Phật xoa đầu con dạy rằng: Hãy bình tâm địa thì tất cả đất đai trên thế giới đều bình! Con nghe lời dạy ấy, tâm liền tỏ ngộ. Con quán thấy vi trần nơi thân thể mình cùng tất cả vi trần tạo thành thế giới đều không có gì sai khác. Dù ở trong thân hay thế giới bên ngoài, tự tánh vi trần không cọ xát nhau; cho đến các thứ đao binh cũng không có chỗ va chạm. Con ở nơi pháp tánh mà ngộ vô sinh nhẫn, chứng quả A-la-hán; rồi lại hướng tâm về đại thừa, nay đang ở trong hàng Bồ-tát; được nghe các đức Như Lai tuyên dạy “tri kiến Phật như diệu liên hoa”, con thể hội đầu tiên, trở thành thượng thủ. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên cùng phương tiện chứng ngộ viên thông, thì con quán chiếu vi trần nơi thân cănthế giới đều bình đẳng không sai khác, vốn từ như lai tạngtùy duyên phát hiện. Trần tướng tiêu vong thì trí tuệ tròn sáng, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề; đó là pháp tu tối thượng.

Đức Bồ Tát Nguyệt Quang(154) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên. Ngài dạy các vị Bồ-tát tu tập phép quán nước để vào chánh định; tức là quán chiếu trong tự thân, tánh nước không chướng ngại. Quán chiếu từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, cho đến tinh, huyết, nước đại tiểu tiện, xoay vần trong thân, đều đồng một tánh nước. Con thấy nước trong thân với nước trong các biển nước thơm ở các cõi Phật ngoài thế giới, đều bình đẳng không sai khác. Bấy giờ con vừa thành tựu phép quán nước này, chỉ thấy nước mà chưa thấy được “không thân”. Lúc đó con là một tì kheo, đang ngồi thiền trong phòng, người đệ tử của con dòm qua cửa sổ nhìn vào phòng, chỉ thấy trong phòng đầy nước, không có gì khác. Chú tiểu ấy còn nhỏ dại, không biết gì, bèn lấy một miếng ngói ném vào trong nước, nghe “tũm” một tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi. Sau đó con xuất định thì cảm thấy đau nhức nơi tim, giống như thầy Xá Lợi Phất bị ác quỉ đập đầu(155) vậy. Con tự suy nghĩ: “Mình đã chứng quả A-la-hán, từ lâu đã không còn duyên bệnh, tại sao hôm nay bỗng dưng tim bị đau, hay là quả vị đã bị thối thất rồi chăng?” Vừa khi ấy, chú đệ tử của con trở lại, thuật cho con nghe sự việc vừa xảy ra. Con bảo chú ấy: “Nếu lại thấy nước như lúc nãy, con hãy mở cửa phòng, vào trong nước lấy miếng ngói kia ra.” Chú đệ tử vâng lời. Con lại nhập định, chú ấy lại thấy trong phòng đầy nước, có miếng ngói nằm trong đó rõ ràng. Chú ấy liền mở cửa phòng, vào lấy miếng ngói trong nước ra. Sau đó con xuất định, thì thân thể không còn đau đớn nữa. Trải vô lượng kiếp sau đó con đã được gặp vô lượng chư Phật, cho đến thời đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, con mới chứng được “không thân”, cùng với các biển nước thơm trong khắp mười phương thế giới đồng một tánh chân không, không hai không khác. Ngày nay con ở trong pháp hội của đức Thế Tôn, được tên Đồng Chân, và được dự vào hội chúng Bồ-tát. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, con do quán chiếu tánh nước một vị thông suốt mà chứng vô sinh nhẫn. Nếu muốn thành tựu viên mãn quả vị Vô thượng Bồ đề, thì pháp tu thủy quán ấy có hiệu quả bậc nhất.

Đức Bồ Tát Lưu Li Quang từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh. Ngài khai thị cho hàng Bồ-tát về bản giác diệu minh, dạy quán chiếu thế giớichúng sinh đều do sức lay động của gió vọng duyên chuyển biến mà hình thành. Lúc bấy giờ con quán chiếu sự an lập của không gian; quán chiếu sự trôi chảy của thời gian; quán chiếu cái động cái tĩnh của thân; quán chiếu mỗi động niệm của tâm; tất cả những chuyển động đều đồng một thể, không hai, không khác. Con thấy rõ tánh chất của những thứ chuyển động này là không từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu. Tất cả các loài chúng sinh nhiều như vi trần trong khắp mười phương đều đồng một tánh hư vọng. Nếu nhìn hẹp hơn đối với chúng sinh của một thế giới trong ba ngàn đại thiên thế giới, thì cũng giống như hàng trăm con muỗi bị nhốt trong một cái bình nhỏ, cứ ở trong cái khoảng chật hẹp ấy mà kêu vo ve râm rỉ với nhau. Con gặp đức Phật Vô Lượng Thanh không bao lâu thì chứng được vô sinh nhẫn. Lúc đó tâm đã khai ngộ, con thấy cõi nước của đức Phật Bất Động ở phương Đông, và trở thành pháp vương tử trong chúng hội của Ngài, thừa sự chư Phật khắp mười phương, thân tâm rỗng sáng, thấu suốt không ngăn ngại. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, do con quán sát phong đại không có chỗ nương, đến không từ đâu, đi không chỗ tới, mà tỏ ngộ tâm bồ đề, vào tam-ma-địa, hợp với tâm ấn vi diệu của chư Phật mười phương trao truyền; đó là pháp tu tối thắng.

Đức Bồ Tát Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Thuở xưa con với đức Thế Tôn cùng thừa sự đức Phật Định Quang(156). Lúc bấy giờ con chứng được “thân vô biên”, tay cầm bốn viên bảo châu thật lớn, soi sáng cõi Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, đều hóa thành hư không; lại nơi tự tâm hiện ra trí “đại viên cảnh”, trong đó phóng ra mười thứ ánh sáng vi diệu quí báu, chiếu khắp cùng tột hư không mười phương. Khắp các cõi Phật đều nhập vào gương trí đại viên, hòa nhập với thân con. Thân con đồng như hư không, không chướng ngại lẫn nhau; cho nên thân này có thể đi vào vô lượng quốc độ để rộng làm Phật sự vô cùng tự tại. Con có được thần lực như thế là do con quán chiếu kĩ càng, thấy rõ bốn đại không có tự thể, do vọng tưởng mà có sinh diệt, tứ đại đồng như hư không, không sai khác; cõi Phật do bốn đại làm thành, cho nên vốn cũng đồng như hư không. Do thấy rõ cái tánh “đồng” này mà chứng vô sinh nhẫn. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, do con quán chiếu hư không vô biên mà vào tam-ma-địa, từ đó mà có thần lực nhiệm mầu sáng suốt tròn đầy; đó là pháp tu thù thắng nhất.

Đức Bồ Tát Di Lặc(157) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con nhớ lại vô số kiếp trong đời quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Con được theo Ngài xuất gia, nhưng tâm còn nặng về danh vọng thế gian, thích giao du thân cận với các nhà quyền quí. Lúc bấy giờ đức Phật dạy con tu tập định “duy tâm thức”, được vào tam-ma-địa. Trải vô lượng kiếp đến nay, con dùng pháp tam muội ấy phụng sự hằng sa chư Phật, cái tâm cầu danh vọng thế gian tiêu diệt mất hết. Cho đến thời đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới thành tựu được pháp tam muội “thức tâm diệu viên vô thượng”. Bấy giờ con quán thấy quốc độ của chư Phật trong tận cùng cõi hư không, dù sạch, dù dơ, dù có, dù không, đều do tâm thức con biến hóa chuyển hiện ra. Bạch đức Thế Tôn! Do con tỏ ngộ chư quốc độ dơ sạch đều do tâm thức biến hiện, mà nơi thức tánh lại lưu xuất vô lượng các đức Như Lai; và ngày nay con được đức Thế Tôn thọ kí, sẽ kế tiếp thành Phật nơi cõi này. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, con do quán chiếu kĩ càng mười phương chỉ có thức; thức tâm tròn sáng, xa lìa tánh “biến kế chấp” và tánh “y tha khởi”, chứng nhập tánh “viên thành thật”, được vô sinh nhẫn; đó là pháp tu tối thượng.

Đức Bồ Tát Đại Thế Chí(158) cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

– Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang(159). Thời đó có 12 đức Phật kế tục nhau ra đời trong một kiếp; đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang(160), đã dạy con tu tập pháp môn “niệm Phật tam muội”. Ví như có một người chuyên nhớ, và một người chuyên quên, thì hai người ấy, dù gặp nhau cũng như không gặp nhau, dù thấy nhau cũng như không thấy nhau. Nếu cả hai người đều nhớ đến nhau, nhớ mãi thì cái nhớ càng khắc sâu, cho đến đời này sang đời khác, như bóng theo hình, không bao giờ xa cách. Chư Phật mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nếu con cứ trốn tránh thì mẹ nhớ cũng chẳng được gì! Nếu con nhớ mẹ đồng thời như mẹ nhớ con, thì kiếp kiếp mẹ con không bao giờ xa cách nhau. Nếu tâm chúng sinh luôn luôn nghĩ nhớ Phật, thì hiện tại hay tương lai, nhất định thấy Phật. Thấy Phật rồi thì không bao giờ xa cách Phật nữa, không cần phải nhờ phương tiện gì mà tâm tự khai ngộ; như người ướp mùi thơm thì thân thể có mùi thơm, như thế gọi là “hương quang trang nghiêm”. Bản thân con đã dùng tâm niệm Phật mà được vô sinh nhẫn. Nay ở thế giới Ta-bà này, con nguyện tiếp dẫn tất cả những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ; đức Thế Tôn hỏi về nhân duyênphương tiện chứng ngộ viên thông, con không chọn lựa riêng biệt căn nào, mà thu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm thường xuyên nối tiếp mà vào tam-ma-địa; đó là cách tốt nhất.

 

(xin xem tiếp tập 2)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12568)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12095)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10594)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant