Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Kiền Đà Quốc Vương

23 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14497)
Kinh Kiền Đà Quốc Vương


Kinh Kiền Đà Quốc Vương

 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Nguyên tác Hán ngữ [1]

Dịch từ Phạn văn sang Hán văn: Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao

Dịch từ Hán văn sang Việt văn: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ, Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ

Hiệu đính: HT Thích Như Điển, Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

 

Nghe như vầy.

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ cùng với 1250 vị Tỳ kheo câu hội.

Bấy giờ, có vị quốc vương, hiệu là Kiền Đà, phụng thờ Bà la môn. Có người Bà la môn sinh sống ở trong núi, trồng nhiều cây trái. Bấy giờ, có người đốn củi làm hư hại cây trái, người Bà la môn thấy được liền đem nhau đến chỗ vua mà tâu rằng: “Kẻ này chẳng được gì, làm hư hại cây trái của tôi. Vua nên giết hắn để trị tội.”

Vua kính thờ Bà la môn, chẳng dám trái lời, liền giết người làm hư hại cây. Chẳng bao lâu sau, có con trâu ăn lúa của người. Người chủ đánh đập, cắt đứt một sừng của trâu, máu chảy phủ mặt, đau đớn không thể nhịn chịu. Trâu đi thẳng đến chỗ vua, thưa rằng: “Tôi thật chẳng được gì, ăn một chút lúa của người, bị họ nhìn thấy mà đánh đập, cắt sừng của tôi.”

Người chủ lúa cũng đi đến chỗ vua. Vua hiểu được lời nói của chim thú, bảo với trâu rằng: “Ta sẽ vì ngươi, giết hắn trị tội.”

Trâu vội vã trả lời: “Hôm nay, dù có giết người này, cũng không thể làm cho tôi không đau đớn. Chỉ nên mong răn bảo về sau đừng làm kẻ khác như tôi thôi.”

Nhà vua liền than rằng: “Ta thờ Bà la môn, hay ngồi dưới gốc cây ăn trái, bảo ta giết người ấy, chẳng được như trâu nầy.” Liền cho gọi người Bà la môn mà hỏi rằng: “Hôm nay, làm việc này, liệu có phước chăng?”

Người Bà la môn đáp: “Có thể trừ được tai vạ, sau được phước giàu sang, sống lâu.”

Vua lại hỏi: “Có được miễn sinh tử chăng?”

Đáp rằng: “Không thể miễn được sinh tử.”

Vua nghĩ thầm rằng: “Phải dùng Đạo này để thờ kính.” Liền lệnh cho quần thần chuẩn bị xe ngựa, đến chỗ của Phật, năm vóc sát đất, đảnh lễ Đức Phật, bạch rằng: “Con nghe Đạo của Phật cao tột, lồng lộng giáo hóa, độ vô số thiên hạ. Nguyện xin được lãnh thọ lời Pháp để cải đổi chính mình.”

Đức Phật liền trao cho vua Ngũ giới, Thập thiện. Vì tất cả trời đất, con người, sinh vật, nói pháp không sinh không diệt.

Vua thi lễ đầu mặt sát đất, bạch Đức Phật rằng: “Nay sùng phụng, tôn thờ giới pháp, có được phước chăng?”

Đức Phật dạy rằng: “Bố thí, trì giới, hiện đời được phước. Nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ được đức vô lượng. Về sau sanh lên cõi trời, cũng có thể được làm vua Chuyển luân thánh vương [1], cũng có thể được vô vi, con đường vượt thoát thế gian.”

Đức Phật liền vì vua hiện tướng tốt đẹp, oai thần rực rỡ. Vua liền sanh lòng hoan hỷ, giải thoát tâm ý, liền đắc được đạo quả Tu Đà Hoàn.

Ngài A Nan chỉnh y áo, đầu mặt sát đất, đảnh lễ Đức Phật mà bạch rằng: “Vua và trâu đây, xưa có nhân duyên thế nào? Lời nói, ý nghĩ của trâu đã giải tỏa, xa lìa Bà la mônphụng thờ Phật đạo. Thấy Phật nghe pháp, liền được dấu vết của Đạo.”

Đức Phật dạy rằng: “Thuở xưa, thời Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, vua và trâu là anh em, cùng là Ưu bà tắc, đều cùng nhau một ngày một đêm thọ trì trai giới. Vua giữ giới tinh tấn không giải đãi, thọ mạng hết sanh lên cõi trời, tuổi thọ hết xuống làm quốc vương. Trâu lúc ấy, phạm giới ăn tối, sau lãnh tội báo, tội ấy trở lại làm trâu, trăm đời có đủ hiểu biết nên đến thức tỉnh tâm ý của vua. Bảy ngày sau, trâu thọ mạng hết sanh lên cõi trời.”

Đức Phật dạy: “Bốn chúng đệ tử, thọ trì trai giới, không thể phạm được.”

Các vị Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Trời, Rồng, Quỷ thần nghe Kinh rồi hoan hỷ, ra trước Đức Phật đảnh lễlui về.

Kiền Đà Quốc Vương Kinh

 

Dịch xong ngày 20 tháng 12 năm 2013

 

 

No. 506

犍陀國王經

後漢安息國三藏安世高譯

聞如是:

一時,佛在舍衛國祇樹給孤獨園,與千二百五十比丘俱。

時有國王,號名犍陀,奉事婆羅門,婆羅門居在山中,多種果樹。

時有採樵人,毀敗其果樹,婆羅門時見之,便將詣王所,言:「是人無狀,殘敗我果樹,王當治殺之。」王敬事婆羅門,不敢違之,即為殺敗樹者。

自後未久,有牛食人稻,其主逐捶牛,折其一角,血流被面,痛不可忍。牛徑到王所白言:「我實無狀,食此人少稻,今為其見捶折我角。」稻主亦追到王所,王曉鳥獸語,告牛言:「我當為汝治殺之。」牛即報言:「今雖殺此人,亦不能令我不痛,但當約勅,後莫取人如我耳。」

王便感念言:「我事婆羅門,但坐果樹,令我殺人;不如此牛也。」便呼婆羅門問言:「今事此道,有何福乎?」

婆羅門報言:「可得攘災致福富貴長壽。」

王復問言:「可得免於生死不?」

報言:「不得免於生死也。」

王獨念言:「當用此道為事。」便勅群臣嚴駕,往到佛所,五體投地,為佛作禮,白言:「我聞佛道至尊,巍巍教化,天下所度無數,願受法言,以自改操。」佛即授王五戒十善,為說一切天地人物無生不死者。

王以頭面著地為禮,白佛言:「今奉尊法戒,當得何福?」

佛言:「布施持戒,現世得福;忍辱、精進、一心、智慧者,其德無量,後上天上,亦可得作遮迦越王,亦可得無為度世之道。」佛即為王現相好威神光耀,王即歡喜意解,便得須陀洹道。

阿難正衣服,頭面著地,為佛作禮,白佛言:「此王與牛,本何因緣?牛語意便解,捨婆羅門,而事佛道,見佛聞法,即得道迹。」

佛言:「乃昔拘那含牟尼佛時,王與牛為兄弟,作優婆塞,俱持齋一日一夜。王守法精進不懈怠,壽終昇天上,壽盡下為國王;牛時犯齋夜食,後受其罪,罪畢復作牛,百世尚有宿識,故來開悟王意。牛後七日,壽終上生天上。」

佛言:「四輩弟子!受持齋戒,不可犯也。」

諸比丘僧、比丘尼、優婆塞、優婆夷、天、龍、鬼神,聞經歡喜,前為佛作禮而去。

犍陀國王經

 



[1] Nguyên tác: “Già gia việt vương”, tức Chuyển luân thánh vương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33160)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6536)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11254)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30392)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7967)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12238)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11584)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12792)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34730)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52252)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10497)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10699)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10458)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13065)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16250)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21823)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9606)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10381)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16217)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16515)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13792)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9185)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11735)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11251)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16287)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12686)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12617)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14986)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11953)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13121)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14522)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20669)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13207)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10931)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20683)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14342)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20360)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17647)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14007)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31851)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12011)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant