Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Kiền Đà Quốc Vương

23 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14515)
Kinh Kiền Đà Quốc Vương


Kinh Kiền Đà Quốc Vương

 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Nguyên tác Hán ngữ [1]

Dịch từ Phạn văn sang Hán văn: Hậu Hán An Tức Quốc Tam Tạng An Thế Cao

Dịch từ Hán văn sang Việt văn: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ, Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ

Hiệu đính: HT Thích Như Điển, Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

 

Nghe như vầy.

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ cùng với 1250 vị Tỳ kheo câu hội.

Bấy giờ, có vị quốc vương, hiệu là Kiền Đà, phụng thờ Bà la môn. Có người Bà la môn sinh sống ở trong núi, trồng nhiều cây trái. Bấy giờ, có người đốn củi làm hư hại cây trái, người Bà la môn thấy được liền đem nhau đến chỗ vua mà tâu rằng: “Kẻ này chẳng được gì, làm hư hại cây trái của tôi. Vua nên giết hắn để trị tội.”

Vua kính thờ Bà la môn, chẳng dám trái lời, liền giết người làm hư hại cây. Chẳng bao lâu sau, có con trâu ăn lúa của người. Người chủ đánh đập, cắt đứt một sừng của trâu, máu chảy phủ mặt, đau đớn không thể nhịn chịu. Trâu đi thẳng đến chỗ vua, thưa rằng: “Tôi thật chẳng được gì, ăn một chút lúa của người, bị họ nhìn thấy mà đánh đập, cắt sừng của tôi.”

Người chủ lúa cũng đi đến chỗ vua. Vua hiểu được lời nói của chim thú, bảo với trâu rằng: “Ta sẽ vì ngươi, giết hắn trị tội.”

Trâu vội vã trả lời: “Hôm nay, dù có giết người này, cũng không thể làm cho tôi không đau đớn. Chỉ nên mong răn bảo về sau đừng làm kẻ khác như tôi thôi.”

Nhà vua liền than rằng: “Ta thờ Bà la môn, hay ngồi dưới gốc cây ăn trái, bảo ta giết người ấy, chẳng được như trâu nầy.” Liền cho gọi người Bà la môn mà hỏi rằng: “Hôm nay, làm việc này, liệu có phước chăng?”

Người Bà la môn đáp: “Có thể trừ được tai vạ, sau được phước giàu sang, sống lâu.”

Vua lại hỏi: “Có được miễn sinh tử chăng?”

Đáp rằng: “Không thể miễn được sinh tử.”

Vua nghĩ thầm rằng: “Phải dùng Đạo này để thờ kính.” Liền lệnh cho quần thần chuẩn bị xe ngựa, đến chỗ của Phật, năm vóc sát đất, đảnh lễ Đức Phật, bạch rằng: “Con nghe Đạo của Phật cao tột, lồng lộng giáo hóa, độ vô số thiên hạ. Nguyện xin được lãnh thọ lời Pháp để cải đổi chính mình.”

Đức Phật liền trao cho vua Ngũ giới, Thập thiện. Vì tất cả trời đất, con người, sinh vật, nói pháp không sinh không diệt.

Vua thi lễ đầu mặt sát đất, bạch Đức Phật rằng: “Nay sùng phụng, tôn thờ giới pháp, có được phước chăng?”

Đức Phật dạy rằng: “Bố thí, trì giới, hiện đời được phước. Nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ được đức vô lượng. Về sau sanh lên cõi trời, cũng có thể được làm vua Chuyển luân thánh vương [1], cũng có thể được vô vi, con đường vượt thoát thế gian.”

Đức Phật liền vì vua hiện tướng tốt đẹp, oai thần rực rỡ. Vua liền sanh lòng hoan hỷ, giải thoát tâm ý, liền đắc được đạo quả Tu Đà Hoàn.

Ngài A Nan chỉnh y áo, đầu mặt sát đất, đảnh lễ Đức Phật mà bạch rằng: “Vua và trâu đây, xưa có nhân duyên thế nào? Lời nói, ý nghĩ của trâu đã giải tỏa, xa lìa Bà la mônphụng thờ Phật đạo. Thấy Phật nghe pháp, liền được dấu vết của Đạo.”

Đức Phật dạy rằng: “Thuở xưa, thời Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, vua và trâu là anh em, cùng là Ưu bà tắc, đều cùng nhau một ngày một đêm thọ trì trai giới. Vua giữ giới tinh tấn không giải đãi, thọ mạng hết sanh lên cõi trời, tuổi thọ hết xuống làm quốc vương. Trâu lúc ấy, phạm giới ăn tối, sau lãnh tội báo, tội ấy trở lại làm trâu, trăm đời có đủ hiểu biết nên đến thức tỉnh tâm ý của vua. Bảy ngày sau, trâu thọ mạng hết sanh lên cõi trời.”

Đức Phật dạy: “Bốn chúng đệ tử, thọ trì trai giới, không thể phạm được.”

Các vị Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Trời, Rồng, Quỷ thần nghe Kinh rồi hoan hỷ, ra trước Đức Phật đảnh lễlui về.

Kiền Đà Quốc Vương Kinh

 

Dịch xong ngày 20 tháng 12 năm 2013

 

 

No. 506

犍陀國王經

後漢安息國三藏安世高譯

聞如是:

一時,佛在舍衛國祇樹給孤獨園,與千二百五十比丘俱。

時有國王,號名犍陀,奉事婆羅門,婆羅門居在山中,多種果樹。

時有採樵人,毀敗其果樹,婆羅門時見之,便將詣王所,言:「是人無狀,殘敗我果樹,王當治殺之。」王敬事婆羅門,不敢違之,即為殺敗樹者。

自後未久,有牛食人稻,其主逐捶牛,折其一角,血流被面,痛不可忍。牛徑到王所白言:「我實無狀,食此人少稻,今為其見捶折我角。」稻主亦追到王所,王曉鳥獸語,告牛言:「我當為汝治殺之。」牛即報言:「今雖殺此人,亦不能令我不痛,但當約勅,後莫取人如我耳。」

王便感念言:「我事婆羅門,但坐果樹,令我殺人;不如此牛也。」便呼婆羅門問言:「今事此道,有何福乎?」

婆羅門報言:「可得攘災致福富貴長壽。」

王復問言:「可得免於生死不?」

報言:「不得免於生死也。」

王獨念言:「當用此道為事。」便勅群臣嚴駕,往到佛所,五體投地,為佛作禮,白言:「我聞佛道至尊,巍巍教化,天下所度無數,願受法言,以自改操。」佛即授王五戒十善,為說一切天地人物無生不死者。

王以頭面著地為禮,白佛言:「今奉尊法戒,當得何福?」

佛言:「布施持戒,現世得福;忍辱、精進、一心、智慧者,其德無量,後上天上,亦可得作遮迦越王,亦可得無為度世之道。」佛即為王現相好威神光耀,王即歡喜意解,便得須陀洹道。

阿難正衣服,頭面著地,為佛作禮,白佛言:「此王與牛,本何因緣?牛語意便解,捨婆羅門,而事佛道,見佛聞法,即得道迹。」

佛言:「乃昔拘那含牟尼佛時,王與牛為兄弟,作優婆塞,俱持齋一日一夜。王守法精進不懈怠,壽終昇天上,壽盡下為國王;牛時犯齋夜食,後受其罪,罪畢復作牛,百世尚有宿識,故來開悟王意。牛後七日,壽終上生天上。」

佛言:「四輩弟子!受持齋戒,不可犯也。」

諸比丘僧、比丘尼、優婆塞、優婆夷、天、龍、鬼神,聞經歡喜,前為佛作禮而去。

犍陀國王經

 



[1] Nguyên tác: “Già gia việt vương”, tức Chuyển luân thánh vương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12346)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28807)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12376)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53046)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35489)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12405)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26045)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13318)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16086)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13129)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14510)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20480)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18991)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18653)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12185)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12313)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13860)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11404)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17193)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11709)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18342)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11940)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12883)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18908)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18422)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant