Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh

13 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 14676)
Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh


Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh

(Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh)

 

- Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502[1]

- Dịch Phạn sang Hán: Tây Tấn, Sa môn Pháp Cự dịch

- Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ - Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ

- Hiệu đính: HT Thích Như Điển – Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

 

 

Tôi nghe như vầy.

Một thuở nọ, Đức Phật đang an cư mùa hạ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Lúc bấy giờ trong chúng có nhiều vị trưởng lão Thanh văn ở hai bên Đức Thế Tôn trong hang động, dưới gốc cây để an cư.

Lúc ấy có chúng gồm nhiều vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một phía. Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ[2]. Khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ rồi, an trụ trong trầm lặng. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Đức Phật thuyết pháp rồi, tuỳ hỷ vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễlui về.

Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ các vị trưởng lão Tỳ kheo[3], đảnh lễ dưới chân các vị trưởng lão rồi ngồi vào một phía. Bấy giờ các vị trưởng lão Tỳ kheo khởi niệm như vầy: Chúng ta nên tiếp nhận các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc một người nhận hai, ba hay nhiều người. Nghĩ như vậy rồi liền bèn tiếp nhận, hoặc một người nhận một người, hoặc nhận hai, ba hay nhiều người, hoặc có vị trưởng lão nhận đến sáu mươi người.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải toà mà ngồi. Lúc ấy, Đức Thế Tôn quán sát các vị Tỳ kheo rồi bảo các vị Tỳ kheo rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta nay vui mừng cho các vị Tỳ kheo đã thực hành các việc chân chánh. Cho nên, Tỳ kheo! Phải siêng năng, tinh tấn.”

Ở nước Xá Vệ lúc nầy, tháng ca-đề[4] đã mãn, các Tỳ kheo sống tại các thôn xóm[5] nghe rằng: Đức Thế Tôn an cư ở nước Xá Vệ, tháng ca-đề đã mãn rồi, may y đã xong, đắp y ôm bát đang du hành trong nhân gian, nước Xá Vệ. (Các vị Tỳ kheo ấy) dần đi đến nước Xá Vệ, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân xong, rồi lui ngồi vào một phía.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các vị Tỳ kheo trong nhân gian thuyết pháp các loại, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi; Ngài yên lặng.

Lúc ấy, các vị Tỳ kheo trong nhân gian đã nghe Đức Phật thuyết pháp, vui mừng, tuỳ hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà đi; đi đến chỗ các vị Tỳ kheo trưởng lão, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi lui ngồi vào một phía. Bấy giờ, các vị trưởng lão nghĩ như vầy: Chúng ta nên nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến nhiều người, tức liền tiếp nhận lấy.” Hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến có vị nhận sáu mươi người. Các vị Tỳ kheo trưởng lão ấy nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian chỉ dạy giới pháp, làm người mẫu mực, khéo hiểu biết thứ lớp, trước sau.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải tòa mà ngồi, quán sát các Tỳ kheo, bảo các Tỳ kheo: “Lành thay! Lành thay! Các Tỳ kheo, ta vui mừng khi các ông đã làm các việc chân chánh. Các Tỳ kheo! Chư Phật trong quá khứ cũng có chúng Tỳ kheo làm các việc chân chánh như chúng đây ngày nay. Chư Phật ở vị lai có các đại chúng cũng sẽ như hôm nay đang có, làm các việc chân chánh giống như đại chúng ngày hôm nay. Vì sao vậy? Vì hôm nay, trong chúng đây các vị Tỳ kheo trưởng lão có vị đắc Sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, từ bi hỷ xả, không nhập xứ, thức nhập xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ được đầy đủ. Có vị Tỳ kheo đã hết sạch ba kết[6] đắc Tu đà hoàn không đọa vào cõi ác, pháp quyết định hướng đến tam bồ đề[7], còn sanh vào trong cõi trời người bảy lần[8], rốt ráo cõi khổ. Có Tỳ kheo ba kết đã sạch hết, tham sân si giảm bớt, đắc Tư đà hàm. Có Tỳ kheo năm hạ phần kết[9] đã hết sạch, đắc A na hàm, sanh Bát niết bàn[10], không còn trở lại cõi đời nầy nữa. Có Tỳ kheo đắc cảnh giới vô lượng thần thông: thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí. Có Tỳ kheo tu quán bất tịnh để đoạn trừ tham dục, tu tâm từ bi để đoạn trừ sân hận, tu quán vô thường để đoạn trừ ngã mạn, tu An-na-bàn-na niệm[11] để đoạn trừ các giác[12] tưởng. Thế nào là Tỳ kheo tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ giác tưởng? Đó là vị Tỳ kheo nương nơi làng xóm mà ở, cho đến quán diệt nơi hơi thở ra, như thật rõ biết quán diệt nơi hơi thở ra. Đó gọi là tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ các giác tưởng.”

Đức Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo đã nghe Đức Phật nói rồi hoan hỷ phụng hành.

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh

 

Dịch xong ngày 12/01/2014



[1] Tương đương “Kinh Bố Tát” số 815 trong Tạp A Hàm (Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0099, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống), bản dịch Việt của HT Thích Đức Thắng và HT Thích Tuệ Sỹ hiệu chú.

[2] Hán dịch: 示教照喜 thị, giáo, chiếu, hỷ: khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ. Sđd.

[3] Hán dịch:上座比丘 Thượng tọa Tỳ kheo: chỉ cho các vị Tỳ kheo trưởng lão.

[4] 迦提月“ca-đề nguyệt”, kaṭṭika (P), thường chỉ tháng sau ngày giải chế an cư. Sđd.

[5] 人間毗丘 “nhân gian Tỳ kheo”, gāmantavihārin (P), Tỳ kheo sống tại các thôn xóm/ Tỳ kheo ở giữa người đời. Sđd.

[6] 三結 “Tam kết” (kiết) gọi đủ là Tam kết (kiết) sử Samyojanani (p): Thân kiến kiết sử: Sakkaya-ditthi (p), Nghi kiết sử: Vici-kiccha (p), Giới cấm thủ: Silabhata-paramaso (p)

[7] 三菩提“Tam bồ đề”, nói cho đủ là “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” tức là đắc Niết bàn. Đắc Niết bàn tức là Như Lai pháp thân.

[8] 七有 “Thất hữu” hay “Thất chủng sanh”, Sattakkhattuparama (P): là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cõi dục (Trời – Người) cho đến bảy lần, mới đắc A-la-hán.

[9] 五下分結 “Ngũ hạ phần kết”, Pañca āvarabhāgiya-saṃyojanāni (P): Năm loại phiền não trói buộc chúng sanh hữu tìnhDục giới. Sở dĩ gọi là hạ phần là bởi vì nó ở hạ giới, tức Dục giới, khác với thượng giới, tức là Sắc giớiVô sắc giới. Năm loại là: 1. Dục kết: những phiền não tham dục; 2. Sân kết: những phiền não giận hờn; 3. Thân kiến kết: phiền não ngã kiến, chấp ngã; 4. Giới thủ kết: phiền não giữ gìn những giới luật phi lý, vô đạo; 5. Nghi kết: phiền não nghi ngờ chân lý.

[10] 般涅槃 “Bát niết bàn”, parinirvāṇa (S), parinibbāna (P) là tịch diệt hoàn toàn, đồng nghĩa với “Niết bàn” nirvāṇa (S).

[11] 安那般那念 “An-na-ban-na niệm”, Anāpānassati (P): niệm hơi thở ra vào.

[12] Giác, đây chỉ cho giác tưởng phân biệt, hay vọng tưởng phân biệt, saṅkappa (P).


====== Nguyên tác Hán ngữ =====


No. 502

佛為年少比丘說正事經

西晉沙門法炬譯

如是我聞:

一時佛住舍衛國祇樹給孤獨園夏安居。爾時眾多上座聲聞,於世尊左右樹下窟中安居。時有眾多年少比丘詣佛所,稽首佛足,退坐一面,佛為諸年少比丘,種種說法,示教照喜。示教照喜已,默然住。諸年少比丘聞佛所說,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。

諸年少比丘往詣上座比丘所,禮諸上座足已,於一面坐。時諸上座比丘作是念:「我等當攝受此諸年少比丘,或一人受一人,或一人受二、三多人。」作是念已,即便攝受,或一人受一人,或受二、三多人,或有上座乃至受六十人。

爾時世尊十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。爾時世尊觀察諸比丘已,告比丘:「善哉,善哉!我今喜諸比丘行諸正事,是故比丘!當勤精進。」

於此舍衛國滿迦提月諸處人間比丘,聞世尊於舍衛國安居滿迦提月已,作衣竟,持衣鉢,於舍衛國人間遊行。漸至舍衛國,舉衣鉢,洗足已,詣世尊所,稽首禮足已,退坐一面。爾時世尊為人間比丘種種說法。示教照喜已,默然。

爾時人間比丘聞佛說法,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。往詣上座比丘所,稽首禮足,退坐一面。時諸上座,作是念:「我等當受此人間比丘,或一人受一人,或二、三乃至多人,即便受之。」或一人受一人,或二、三乃至有受六十人者。彼上座比丘受諸人間比丘,教戒教授,善知先後次第。

爾時世尊月十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。觀察諸比丘,告諸比丘:「善哉,善哉!諸比丘,我欣汝等所行正事,樂法等所行正事。諸比丘!過去諸佛亦有比丘眾,所行正事,如今此眾;未來諸佛所有諸眾,亦當如是,所行正事,如今此眾。所以者何?今此眾中,諸長老比丘,有得初禪、第二禪、第三禪、第四禪、慈悲喜捨、空入處、識入處、無所有入處、非想非非想處,具足住;有比丘三結盡得須陀洹,不墮惡趣,法決定向三菩提,七有天人往生,究竟苦邊;有比丘三結盡,貪恚癡薄,得斯陀含;有比丘五下分結盡,得阿那含,生般涅槃,不復還生此世;有比丘得無量神通境界,天耳、他心智、宿命智、生死智、漏盡智;有比丘修不淨觀斷貪欲,修慈心斷瞋恚,修無常想斷我慢,修安那般那念斷覺想。云何比丘修安那般那念斷覺想?是比丘依止聚落,乃至觀滅出息,如觀滅出息覺,是名修安那般那念斷覺想。」

佛說此經已,諸比丘聞佛所說,歡喜奉行。

佛為年少比丘說正事經


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18961)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14452)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13589)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13940)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16165)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17601)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12880)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16393)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13133)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12792)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14124)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16481)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14390)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11332)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13165)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13510)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10235)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13706)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16271)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11900)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12767)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant