Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I. Lịch Sử Kinh Hoa Nghiêm

22 Tháng Hai 201400:00(Xem: 10135)
Chương I. Lịch Sử Kinh Hoa Nghiêm

LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM 

HT Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013

Chương I.
Lịch Sử Kinh Hoa Nghiêm

 

I - KHÁI NIỆM VỀ LỊCH SỬ KINH HOA NGHIÊM
 
Về mặt học thuật, chúng ta học lịch sử phần lớn căn cứ vào dữ liệu mà người trước đã ghi lại để đánh giá. Nhưng đứng ở lãnh vực tôn giáo để quan sát, chúng ta lại có nhận thức về lịch sử khác hơn là nhưõng điều được các nhà học thuật ghi nhận.

Thật vậy, muốn học lịch sử của kinh Hoa Nghiêm hay lịch sử Phật giáo Ðại thừa, chúng ta phải có tinh thần Ðại thừa. Tâm hồn Ðại thừa mới có thể tiếp thu giáo nghĩa Ðại thừa.

Phàm phu thì say đắm ngũ dục thế gian, an phận trong sanh tử luân hồi. Chúng ta tự khẳng định là nhà tôn giáo thì phải có tâm hồn thoát tục, tìm lẽ sống cao thượng theo như Phật dạy.

 Chúng ta cũng không giống nhà học thuật, vì họ chỉ nghiên cứu Phật học, còn cuộc sống không dính líu gì đến pháp Phật mà họ am tường. Trong đạo thường dùng câu : "Người uống nước, tự biết mùi vị của nó như thế nào". Cũng vậy, người an trụ trong pháp mầu của Như Lai, tụng niệm, tham thiền, lễ bái với tất cả tấm lòng, mới hiểu được thế giới Phật.

Ðiều tôi muốn truyền đạt, hướng dẫn các anh em trở thành nhà tôn giáo thật trong tương lai, mới hiểu được thế nào là lịch sử Phaät giáo Ðại thừa.

Từ hiểu biết theo học thuật thông thường, tiến lên một bước nữa để hiểu lịch sử Ðại thừa Phật giáo theo tinh thần của người tu có niềm tin, có trí tuệ. Và bước sang lịch sử kinh Hoa Nghiêm, chúng ta phaûi phát bồ đề tâm. Có thể nói chúng ta học Ðại thừa bằng bồ đề tâm của chính mình, không học bằng vọng thức. Tôi nói và các anh em tiếp nhận tinh ba của giáo nghĩa bằng tâm hồn thanh tịnh, không phải chỉ dừng lại ở phaân tích, học hiểu theo văn tự, ngữ ngôn.

Kinh Hoa Nghiêm có 3 bộ : Bộ thứ nhất gọi là đại Hoa Nghiêm do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. Bộ thứ hai là trung Hoa Nghiêm do Báo thân Lô Xá Na chuyển và bộ thứ ba do ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết. Như vậy, kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Ðức Phật khác hơn các hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà chúng ta học.

Cả 3 bộ kinh này đều ở cung rồng Ta Kiệt La. Nhưng hai bộ đại kinh và trung kinh quá đồ sộ, không thể mang về, nên Ngài Long Thọ Bồ tát chỉ thỉnh được bộ tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100.000 bài kệ. Và mang về nhân gian, Ngài lọc lại, chỉ còn một nửa là 45.000 bài kệ.

Bộ tiểu Hoa Nghiêm mà Ngài Long Thọ đem về, rồi truyền sang Trung Hoa, được dịch ra tiếng Trung Hoa, còn lại ngày nay 2 bộ. Bộ Hoa Nghiêm 60 quyển do Ngài Giác Hiền dịch đời Tấn và bộ 80 quyển dịch ở đời Ðường, dưới sự bảo trợ của Tắc Thiên Hoàng Ðế, quen gọi là Võ Hậu.

Bộ kinh Hoa Nghiêm chúng ta học chủ yếu nương theo bộ kinh đời Ðường. Kinh Hoa Nghiêm do Báo thân viên mãn Lô Xá Na và kinh do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật chuyển thì chúng ta khoâng thấy được Báo thânPháp thân Phật, nên không thể nghe, không thể đọc và không hiểu được.

Ðiều này gợi cho chúng ta khi học Phật pháp, nhất là học Ðại thừa, đòi hỏi ta học, hiểu và sống hoàn toàn mang tính chất Ðại thừa. Việc này không đơn giản, vì chúng ta phải có quá trình thiết thân thể nghiệm pháp trong cuộc sống.

Chúng ta có thể học văn hóa, lịch sử dễ dàng, nhưng học Phật giáo thì phải học bằng niềm tin của chính mình. Và niềm tin cũng không thể nhồi nhét hay cưỡng bức mà có được. Có thể có bằng cấp Phật học, nhưng thiếu niềm tin, không thể trở thành nhà truyền giáo, chỉ là học giả.

Ðiều tiên quyết đối với người tu là bước đầu học Phật bằng niềm tin. Học, hiểu và sống được với pháp Phật. Và niềm tin phát xuất từ việc chúng ta tiếp xúc với bên ngoài, tức phương tiện hay học được pháp của Phật ứng hóa thân thuyết.

Ðối với người theo tinh thần Ðại thừa Phật giáo, nhất là học kinh Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, Phật là Phật đã thành hiện thân lại làm người ở nhân gian và từ thân người này, Ngài tu thành Phật để hướng dẫn chúng ta đi theo lộ trình của Ngài, đó là ứng thân Phật.

Nhờ nghe Phật ứng thân Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, chúng ta lần thâm nhập, thấy được Báo thân Phật, mới phát hiện được con người thật của chính mình, gọi là Báo thân. Bằng bồ đề tâm của con người thật của chính mình nghe Báo thân Phật thuyết pháp, tự giác ngộ; ta trở thành Pháp thân Phật, biết được Pháp thân Phật thuyết cho ta nghe.

Như vậy, chúng ta học Phật trải qua ba giai đoạn. Trước tiên, ta học pháp của ứng thân Phật thuyết là 12 bộ kinh Phật đều là phương tiện. Ðến đây, chưa đủ, vì chỉ mới thông qua hình thức. Cần bước sang giai đoạn hai quan trọng hơn, phát bồ đề tâm.

Bồ đề tâm là trí giác, từ trí giác quán sát điểm cuối cùng của 12 phần giáo theo Ðại thừa là Phương Ðẳng hay Phương Quảng. Phương Ðẳng chỉ cho Phật Báo thânPhương Quảng chỉ cho Phật Pháp thân, không thể vói tới bằng vọng thức.

Những điều ta học, suy nghĩ, lãnh hội, nói hay chưa phải là đạo. Ðó chỉ là phương tiện ban đầu để ta bước vào hành trình tâm linh, thấy theo Hoa Nghiêm. Theo đó, chúng ta thấy sự đa dạng của phần bên trong mỗi người, mỗi loài, tạo thành lục đạo, tứ sanh, cho đến thế giới của Hieàn thánh, Bồ tát, Như Lai. Những điều này chúng ta học được từ Phật Thích Ca Mâu Ni, từ những lời dạy của Ngài còn lưu lại.

Nhưng tiến hơn, những điều chúng ta học từ Báo thân Phật thuyết pháp là những gì Phật đã làm và để lại cho loài người, giữ cho Phật pháp tồn tại lâu dài, lợi lạc cho nhơn thiên. Và cao hơn là Pháp thân Phật chuyển, gồm có vi trần bài kệ. Mọi việc, mọi sự sống, mọi hành động của chúng ta đều thể hiện Pháp thân Phật. Những gì chúng ta làm, tư duy và có kết quả là Pháp thân Phật thuyết. Không phải Pháp thân là cái vô hình nào thuyết.

Hiểu kinh Hoa Nghiêm là từ văn tự đi vào tư duy, vào thiền định, phát sinh được trí tuệ và dùng trí tuệ quán sát mọi sự, mọi vật. Kinh Hoa Nghiêm dẫn chúng ta vào pháp giới hay nhìn thế giới chân thật. Và biết được việc ở dạng chân thật, thì ta không còn lỗi lầm trên sinh hoạt hiện tượng của cuộc đời. Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta cốt lõi ấy.

Theo phán giáo của Ngài Trí Giả, Ðức Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21 ngày. Chỉ có 21 ngày ngắn ngủi, làm sao Phật nói được vô lượng bài kệ gọi là vi trần ? Trong khi các bộ kinh khác, Ðức Phật noùi trong thời gian dài hơn mà lại không nhiều.

Phật nói Hoa Nghiêm 21 ngày trong thiền định. 21 ngày của cuộc sống vật chất theo đời thường tất nhiên quá ngắn ngủi. Nhưng 21 ngày tư duy thiền định thiết nghĩ thật lớn lao không thể tính được. Ai không hành đạo, không công phu tu tập, không thể nào biết được điều này.

Một niệm tâm trong thiền định, Bồ tát cứu độ được vô số chúng sanh. Ngài Thiên Thai chứng được 3.000 pháp biến dịch trong một niệm tâm. Và 3000 pháp này tác động lẫn nhau, tạo thành trùng trùng duyên khởi theo Hoa Nghiêm.

21 ngày Phật tư duy dưới cội bồ đề lại càng lớn không thể tưởng, vì hoạt động dưới dạng Pháp thân, trở thành đại tự nhiên. Tư duy bằng vọng niệm chẳng là bao. Nhưng tư duy dưới cội bồ đề nghĩa là ở dạng bản thể của sự vật, ở chơn như tâm thì Phật, chúng sanh và tâm, tuy ba nhưng thông làm một.

Từ Bồ đề đạo tràng, Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm 21 ngày, nhưng thuyết được tất cả. Thuyết tất cả, nghĩa là thuyết những gì xảy ra từ khi Ngài phát tâm bồ đềgiáo hóa chúng sanh cho đến ngày thành Phật. Và hiện giờ, Ngài đang tiếp tục giáo hóa. Tất cả mọi người trên khắp năm châu bốn biển vẫn đang tiếp tục học pháp với Tỳ Lô Giá Na Phật, là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch sử kinh Hoa Nghiêm theo tinh thần Ðại thừa.

Thật vậy, Ðức Phật vẫn còn giáo hóahộ niệm cho chúng ta, chúng ta mới tu học được. Nếu không có lực gia trì đó, Phật pháp không thể tồn tại đến ngày nay.

Thái độ của người học Phật giáo Ðại thừa nói chung và lịch sử kinh Hoa Nghiêm nói riêng, là phải thấy cái bao la vô cuøng tận, cái chúng ta hiểu được giống như con muỗi uống nước biển. Tôi thấm thía ý này trong kinh Pháp Hoa dạy rằng khi nào tu tròn hạnh Bồ tát, thành Phật mới hiểu được Phật. Vì vậy, cho rằng học hết giáo lý là xong, quaû là sai lầm lớn.

Trên tinh thần bao la vô tận của Phật pháp, chúng ta phải nhận ra thọ mạng Phật pháp tồn tại thường hằng miên viễn ở dạng Pháp thân vĩnh hằng bất tử. Ðức Phật chỉ phương tiện hiện Niết bàn, nhưng kỳ thật Ngài vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi, ở bên cạnh chúng ta trong từng niệm tâm .


II - LỊCH SỬ TRUYỀN THỪA VÀ PHÁT TRIỂN KINH HOA NGHIÊM

Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản. Thật vậy, theo sự nghiên cứu, kinh Hoa Nghiêm chỉ còn tìm thấy rải rác trong vài tác phẩm ở Ấn Ðộ. Ðó là Bộ Ðại Trí Ðộ luận của Ngài Long Thọ có dẫn dụng kinh Hoa Nghiêm và những tác phẩm chú sớ như Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận, hoặc Thập địa kinh luận giải thích về hai phẩm : thập trụ, thập địa của kinh. Như vậy, chỉ có một phần nhỏ của kinh được truyền thừa. Còn toàn bộ kinh Hoa Nghiêm không có.

Tuy nhiên, về sau, kinh Hoa Nghiêm được truyền sang Trung Quốc có 3 bộ, nhưng đều phát xuất từ nước Vu Ðiền của Trung Á (Ngày nay thuộc khu tự trị của Trung Quốc).

Kinh Hoa Nghiêm mang về Trường An, đến đời Tấn thì Ngài Phật Ðà Bạt Ðà La (Giác Hiền) là người đầu tiên dịch sang tiếng Trung Quốc bộ lục thập Hoa Nghiêm, gồm có 60 quyển, thường gọi là bộ cựu dịch.

Cách 200 năm sau, đến đời Ðường, Ngài Thập Sa Nan Ðà dịch, chia thành 80 quyển, gọi là bát thập Hoa Nghiêm hay bộ tân dịch.

Và cũng ở đời Ðường, Ngài Bát Nhã dịch riêng phẩm Nhập pháp giới, gọi là tứ thập Hoa Nghiêm gồm 40 quyển.

Kinh Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốc, tiến đến thành lập tông Hoa Nghiêm. Sơ Tổ của tông này laø Ngài Ðỗ Thuận (557- 640), nhưng đến Ngài Trí Nghiêm (602-668) là nhị Tổ mới chính thức thành lập tông Hoa Nghiêm.

Và Tổ thứ ba của tông này rất nổi tiếng, đó là Ngài Pháp Tạng (Hiền Thủ, 643-712). Phải nói là đến thời của Ngài Pháp Tạng mới luận giải kinh Hoa Nghiêmgiảng kinh này cho Tắc Thiên hoàng hậu.

Ngài Ðỗ ThuậnTrí Nghiêm cùng giảng giải kinh theo bộ lục thập Hoa Nghiêm. Nhưng Ngài Ðỗ Thuận chịu ảnh hưởng của hệ Bát Nhaõ, vì lúc ấy pháp tánh học thịnh hành. Còn Ngài Trí Nghiêm chịu ảnh hưởng của Duy Thức, tức pháp tướng học do Ngài Huyền Trang xương minh và theo đó mà phát triển Hoa Nghiêm.

Ngài Pháp Tạng lý giải theo bộ bát thập Hoa Nghiêm. Ngài giảng giải đầy đủ hơn, vì đã tổng hợp được hai hệ tư tưởng Bát NhãDuy thức của sơ Tổ và nhị Tổ, kết hợp thành bộ Hoa Nghiêm sớ. Ðây là cốt lõi của tông Hoa Nghiêm, làm cho Phật pháp thịnh hành ở thời này.

Hai vị Tổ Ðỗ ThuậnTrí Nghiêm đều là người Hán. Riêng Ngài Pháp Tạng sanh ở Trung Quốc mà gốc người Trung Á. Vì vậy, Ngài thừa hưởng được tư tưởng triết học Aán Ðộ và văn minh Trung Quốc; đồng thời tổng hợp được tinh ba của hai luồng tư tưởng vĩ đại này, tạo thành nét đặc thù nổi bật của tông Hoa Nghiêm, khiến cho giới trí thức đời Ðường bấy giờ phải thán phục
Có thể nói tông Hoa Nghiêm phát triển mạnh ở Trung Quốctư tưởng kinh Hoa Nghiêm thích hợp với người Trung Quốc. Trước khi kinh này được truyền sang, tư tưởng Lão Trang thịnh hànhTrung Quốc, có cái nhìn về vũ trụ gần giống với tinh thần Hoa Nghiêm, nên người trí thức đương thời dễ tiếp thu được tư tưởng Hoa Nghiêm.

Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, kinh Hoa Nghiêm phát triển được là nhờ các vị cao đức thông suốt được áo nghĩa Hoa Nghiêm và biết kết hợp với tinh thần Lão Trang để triển khai thành tư tưởng chỉ đạo của tông Hoa Nghiêm.

Tư tưởng Lão Trang quan niệm mọi sinh hoạt của vũ trụ vận hành theo lý "Tự nhiên", tự nhiên là "Vô", và tính chất của "Vô" là bản thể của vũ trụ. Và theo Trang Tử :"Ðạo không chỗ nào không có, ở chỗ con kiến, con dế, ở chỗ cỏ Ðế cỏ Bại, ở chỗ gạch gói, ở chỗ phân tiểu ..."

Người trí thức chịu ảnh hưởng Lão Trang có thể thấy vấn đề nói trên của họ sáng hơn khi tiếp thu tư tưởng Hoa Nghiêm do các vị cao Tăng lý giải; theo đó, mọi sự , mọi vật đều bình đẳng, trong tốt có xấu, trong xấu có tốt. Tất cả sinh hoạt tương quan tương duyên chằng chịt trong pháp giới.

Người chứng đạo thấy rõ sự tác động của mối tương quan sâu xa ấy, mà thuật ngữ gọi là lý sự vô ngại pháp giới, thì sẽ hóa giải được tất cả. Còn chướng ngại, vướng mắc, không dung thông thì trở thành đối nghịch, đối đầu, từ đó phiền não trùng trùng duyên khởi.

Thực chất của sự hành trì theo yếu nghĩa Hoa Nghiêmthiện ác đều do chính ta tạo nên, kinh gọi là muôn pháp duy tâm tạo. Liễu ngộ Hoa Nghiêm thì tất cả viên dung vô ngại vì mọi loài trong pháp giới cho đến con ong, cái kiến, cỏ cây, hoa lá đều là pháp âm của Tỳ Lô Giá Na Phật.

Kinh Hoa Nghiêm chuyên chở một tư tưởng quá lớn lao, người bình thường không tiếp thu nổi, không hiểu thì làm sao ứng dụng được. Vì thế, dù là tư tưởng siêu tuyệt như vậy, vẫn bị mai một.

Phải có những bậc danh đức ngộ đạo hiện hữu, như Ngài Ðỗ Thuận, Trí Nghiêm, Pháp Tạng nắm trọn được tinh yếu của Hoa Nghiêm và lý giải cũng như thể hiện trong cuộc sống, mới có thể phát triển tư tưởng này sáng chói lên. Nhưng về sau, không có người thừa kế đủ khả năng tiếp nối đạo nghiệp, ngọn đèn Hoa Nghiêm cũng phải tàn lụn.

Tiếp theo, kinh Hoa Nghiêm được một nhà sư Trung Hoa mang sang Nhật Bản, nhưng không thuyết giảng. Ðến đời Thánh Vũ thiên hoàng, Ngài Thẩm Tườngnhà sư Triều Tiên sang Nhật Bản, kinh này mới được Ngài giảng giải và tông Hoa Nghiêm ra đời.

Ðặc biệt là nhờ công đức thuyết pháp của Ngài Thẩm Tường khiến cho Thánh Vũ thiên hoàng phát tâm xây dựng ở Nara tượng Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn nhất thế giới. Có điều kỳ lạ cần nhắc lại, theo truyền thuyết, người ta chỉ đúc được pho tượng này tới cổ, vì phần đầu của tượng quá lớn, đường kính của mặt tượng Tỳ Lô Giá Na rộng đến 5 thước, nên rót đồng vô chảy xuống đến cổ là bị rã.

Sau đó, nhà sư Phật Triết, từ Giao Châu, Việt Nam đóng bè tre sang Nhât Bản. Ngài Hạnh Cơ Bồ tát ra đón Ngài Phật Triết ở bờ biển về để chỉ dạy phương cách đúc tượng.Pho tượng được hoàn thành một cách hoàn hảo, nên Thánh Vũ thiên hoàng thỉnh Ngài Phật Triết về chủ lễ điểm nhãn tượng. Và Ngài soạn ra nghi thức cúng dường khai quang, còn truyền tụng đến ngày nay.

Như đã nói, tư tưởng Hoa Nghiêm quá trác tuyệt, khó tiếp thu. Vì vậy, công đức hoằng truyền kinh Hoa Nghiêm mà Ngài Thẩm Tường đã tu tạo, không có người tiếp nối đạo mạch. Những gì tiêu biểu còn lưu lại dấu vết như tông Hoa Nghiêm, chùa Ðông Ðại và tượng Tỳ Lô Giá Na, thì chỉ còn hiện hữu như một kỷ niệm mà thôi.

Tóm lại, kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Aán Ðộ, nhưng vì quá cao siêu, hiếm người tiếp thu được và tất nhiên việc phát triển càng khó hơn nữa. Phải đợi đến khi truyền sang Trung Quốc hay Nhật Bản và phải gặp những vị vua chúa có phước báoquyền thế phát tâm mới đủ điều kiện hỗ trợ cho công việc phiên dịch, truyền bá kinh, cũng như xây dựng chùa chiền, đúc tượng được thành công.

Riêng ở Việt Nam, Phật giáo đương nhiên cũng có phần ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm. Một số vị cao Tăng cũng thọ trì kinh này, ứng dụng được phần nào tinh ba của kinh trong cuộc sống. Tuy nhiên, nói chung, bộ kinh này không phát triển mạnh được ở Việt Nam.

III - NỘI DUNG KINH HOA NGHIÊM

Theo phán giáo của Thiên Thai Trí Giả đại sư, sau khi Ðức Phật thành đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày và sau đó Ngài đến Lộc Uyển độ 5 anh em Kiều Trần Như, bắt đầu lập giáo khai tông. Trên đường hoằng truyền chánh pháp, Ðức Phật giảng kinh Phương Ðẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn.

Cách phán giáo của Trí Giả đại sư được Phật giáo Ðại thừa tán đồng. Phật giáo nguyên thủy cũng ghi nhận giống ở điểm sau khi thành đạo, Phật ngồi tư duyBồ đề đạo tràng trong 21 ngày. Theo kiến giải của Phật giáo Ðại thừa, trong 21 ngày tư duy ấy, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm trong thiền định.

Thiết lập pháp hội Hoa Nghiêm với hội chúng, hội trường có điểm khác lạ. Theo kinh Hoa Nghiêm lục thập quyển thì có 8 hội, nhưng kinh Hoa Nghiêm bát thập quyển ghi nhận có 9 hội. Ðến phần kết của hội Hoa Nghiêm vẫn có mặt Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, nhưng các Ngài không nghe được. Ý này được kinh diễn tả rằng chúng Thanh văn như người mù, người điếc dự hội.

Vì khó hiểu như vậy, một số người cho kinh Hoa Nghiêmtính cách giả tưởng. Ngày nay, chúng ta có thể hiểu ý này qua thực tế như vấn đề trình bày trong cuộc hội thảo dành cho các nhà bác học thì người có trình độ Ðại học trở xuống có tham dự cũng không thể nào hiểu được.

Pháp Phật nói cho Bồ tát, hàng nhị thừa không thể biết, huống chi là phàm phu. Cần hiểu rằng không riêng gì Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... mà kể cả chúng ta cũng hiện diện trong hội Hoa Nghiêm, nhưng không thấy, không nghe vì bị ngũ ấm ngăn che, vướng mắc sắc ấm. Ðức Phật nói kinh Hoa Nghiêm, tức hành đạo trong thiền định, dùng tâm chuyển vật. Chúng ta chưa thấy tâm, làm sao thấy được sự chuyển vật.

Thực tế cho thấy các vị chân tu hành đạo dưới dạng tâm, tâm họ thanh tịnh, an vui, tác động cho người trông thấy họ liền phát tâm bồ đề và an vui theo. Trái lại, người dùng lời nói ngọt ngào, nhưng phát xuất từ tâm gian ác bên trong, nên chúng ta cảm nhận ghê sợ và không tin được.

Từ đó, hành đạo của Ðại thừa đặt nền tảng trên sinh hoạt của tâm là chính. Nếu tâm thực sự tốt sẽ kết thành quả tốt, dù cho hành động bề ngoài không tốt. Sức mạnh phi thường của tâm chi phối, khiến việc thành tựu, không cần phải cử thân động niệm, kinh gọi là vô tác diệu lực. Ðó là ý chính mà kinh Hoa Nghiêm muốn đeà cập đến.

Khi Ðức Phật đắc quả Vô thượng giácBồ đề đạo tràng, không còn lệ thuộc ngũ ấm thân, phát hiện ra con người thật bên trong, tức chân linh, thấy được quyến thuộcBồ tát vây quanh.

Riêng chúng ta chưa đaéc đạo, còn bị ngũ ấm bao vây, phiền não khống chế, không thể thấy con người chân thậtthế giới thật. Thí dụ khi thức, chúng taquyến thuộc là người bằng xương thịt, mang ngũ ấm thân như ta. Khi ngủ, thế giới ấy kheùp lại và chúng ta sinh hoạt với thế giới chiêm bao, tức thế giới của thần thức, của nghiệp. Bấy giờ dù phú quý, quyền uy ở trên cuộc đời cao tột đến đâu chăng nữa, nhưng đã tạo ác nghiệp thì trong giấc chiêm bao hay luùc lìa đời, bị những cảnh ác xấu ấy hiện ra lôi kéo, hành hạ.

Như vua Ðường, vua Tần Thủy Hoàng đủ quyền sinh sát thiên hạ trong tay, có hàng rào gươm mác, hầu cận che chở an lành; nhưng nhắm mắt ngủ, vòng rào an toàn này chẳng còn tác dụng gì. Trái lại, họ phải gánh chịu những cảnh ác độc, nợ máu hoành hành dữ dội đến mức ngã bệnh, phải nhờ Ngài Huyền Trang cầu nguyện. Ðó chính là thế giới của nghiệp thức chủ động toàn bộ mọi sinh hoạt sau khi chúng ta chết.

Người tu thanh tịnh, cuộc sống thực tếhẩm hiu, nhưng đến khi ngủ hay nhập thiền định, trần gian tạm bợ khép lại, mở ra cho họ thế giới an lành của Phật, Bồ tát, thần tiên. Ðây vẫn còn thuộc thế giới của thần thức, chưa phải chơn tâm, chưa thật. Tuy nhiên, vọng thức này thiện cũng tốt hơn là ác, vì còn giúp được ta tiến bước thêm vào cảnh giới thần tiên.

Bước đầu thuộc vòng tương đối, bỏ ác để thiện pháp sanh ra, làm cho ta được an lạc. Trên nền tảng ấy, bước chân vào đạo, trước tiên cần an tâm, chỉ cần bình yên để tu là đủ. Không được an lạc tối thiểu, có tu cùng kiếp cũng đọa. Dù cuộc sống bên ngoài có khó khăn, maø lòng an vui, vẫn tiến tu đạo nghiệp được.

Thế giới của thức biến thuộc vọng, chúng ta chỉ nhờ nó để thấy cảnh giới Cực lạc hay dạo chơi lên Ðâu Xuất, đảnh lễ Bồ tát Di Lặc, cảm nhận an lành. Ðến khi thức giấc lại chạm trán với cuộc sống khác hẳn, nghĩa là kinh Hoa Nghiêm muốn nhắc nhở chúng ta tu như vậy vẫn còn ở trong quỹ đạo của nghiệp thức.

Bắt đầu Ðức Phật nhập định, ma quân đến quấy phá, nhằm chỉ cho tất cả liên hệ trong vòng thức ấm, tất cả nghiệp chướng trần lao tiêu tan, mới được bình yên. Thế giới thứ nhất có ác ma hiện, dẹp tan được chúng, không còn gì có thể quấy rầy. Trời trong mây tạnh mới tạo thành Bồ đề đạo tràngChơn tâm hay Tỳ Lô Giá Na Pháp thân hiện, mới thấy Bồ tát vi trần. Và Phật Pháp thân ấy nói với các vị Bồ tát trong thiền định, không phải người bằng xương thịt nói và cũng không nói cho người nhân gian. Vì vậy, người nhân gian làm thế nào biết được và tạng kinh Hoa Nghiêm phải đợi đến Long Thọ Bồ tát kiết tập.

Ðến pháp hội thứ hai, đi vào thế giới Quang Minh điện của Phật, nghĩa là ánh quang Phật thuyết pháp. Aùnh quang này chiếu đến Trời Phạm Thiên, vị Ðại Phạm Thiên vương xuống Bồ đề đạo tràng thỉnh Phật thuyết pháp.

pháp hội một, thuyết bằng thiền định dành cho người trụ định mới nghe được. Ðến pháp hội thứ hai, Phật thuyết bằng ánh quang, đòi hỏi người có trí tuệ, nghe bằng bồ đề tâm, huệ giải thoát mới thâm nhập được. Lúc ấy, người tu ngộ đạo nhìn sông núi, cá chim đều là Phật thuyết pháp.

Sau đó, Phật thuyết ở Trời Ðao Lợi, đến Dạ Ma thiên, Ðâu Suất thiên, Tha Hoá Tự Tại. Ðến đây, Ngài giảng thập hồi hướng, thập địa của Bồ tát. Có thể hiểu rằng đạt đến trình độ tu chứngTha Hóa Tự Tại mới có khả năng hành Bồ tát đạo. An trụ cảnh giới Tha Hóa Tự Tại, việc giáo hóa chúng sanh của hành giả hoàn toàn tự tại, không ai ngăn cản, phá rối được, đến nơi nào việc đều thành tựu viên mãn.

Trái lại, ta còn bị chướng ngại nhiều, phải tự biết chưa nghe được pháp Bồ tát, chưa làm được việc của Bồ tát. Tốt nhất chúng ta chỉ là quyến thuộc, nương theo Bồ tát làm việc để tu tạo công đức. Thật vậy, chúng ta tu ở nhân gian có đồng nguyện, đồng hạnh với Phật, Bồ tát. Các Ngài muốn thực hiện việc cứu khổ độ sanh, phải mượn chúng ta làm thay, hộ niệm cho việc ta thành công và ta được chia nửa phần công đức.

Phật nói kinh Hoa Nghiêm ở Trời Tha Hoá Tự Tại nhằm chỉ cho biết đối tượng của pháp cao sâu này phải là Bồ tát, là người có đầy đủ phương tiện giáo hoá chúng sanh. Trên tinh thần ấy, kinh Hoa Nghiêm thích hợp với các bậc vua chúa. Sang Trung Quốc, bộ kinh này hình thành nhờ Tắc Thiên hoàng hậu bảo trợ công tác phiên dịch và chú sớ kinh.

Ðến Nhật Bản, Thánh Vũ thiên hoàng chịu ảnh hưởng tinh thần Hoa Nghiêm đã ra lệnh cho toàn dân phải nộp đồng để đúc tượng Tỳ Lô Giá Na lớn nhất thế giới, đến nay vẫn còn ở Nara. Tượng này phải trải qua mấy đời vua mới hoàn thành. Nếu không phải là người có thế lực nhất nước đề xướng thì không thể nào thực hiện được những kỳ tích như vậy. Kinh diễn tả sức mạnh hành đạo ấy dưới dạng Trời Tha Hoá Tự Tại, còn đối với người nghèo đói mà khuyeân điều đó thật khó nghe.

Bồ tát pháp trong kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất là Bồ tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi, tức tiểu vương mới có thể hành đạo tự tại. Bồ tát nhị địa phải là Chuyển luân Thánh vương cai quản bốn phương thiên hạ, ai nghe đến danh cũng phải kính nể. Bồ tát đệ tam địa phải làm vua Trời Ðao Lợi, cai quản 33 tầng trời. Cứ như vậy lần lên cõi Trời Dục cao nhất là Tha Hoá Tự Tại.

Ðức Phật giảng cho các vị trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người có phước báo, quyền uy ở trần gian nên phát tâm làm Phật sự, dễ tu tạo công đức lớn lao. Nếu không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó không còn điều kiện tạo coâng đức, như vua Tần Bà Sa La bị A Xà Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.

Từ cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, Ðức Phật trở lại Phổ Quang đường thuyết thập nhẫn, thập định. Cuối cùng, Ngài trở lại thực tế cuộc sống ở rừng Thệ Ða nói phẩm Nhập Pháp giới.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12508)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14107)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10847)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10512)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11189)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11998)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13129)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13631)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33653)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11335)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12922)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13056)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11623)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17889)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11429)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11847)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11487)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18971)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12539)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11320)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13135)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15750)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11807)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11689)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12762)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12629)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13964)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12978)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12934)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13295)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12757)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12686)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11733)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11722)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12323)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12380)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19815)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11989)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16880)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15057)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16112)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12870)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12217)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11913)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11922)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16504)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13227)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12483)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11816)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19855)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11149)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11252)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10400)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11089)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10958)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10034)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11745)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant