Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương II. Quan Niệm Về Đức Phật Theo Kinh Hoa Nghiêm

22 Tháng Hai 201400:00(Xem: 8936)
Chương II. Quan Niệm Về Đức Phật Theo Kinh Hoa Nghiêm

LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM 

HT Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013

Chương II.
Quan Niệm Về Đức Phật Theo Kinh Hoa Nghiêm

 

I - QUAN NIỆM VỀ ÐỨC PHẬT TRONG THỜI KỲ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Ðạo Phật bắt nguồn từ Ðức Phật lịch sử, Ngài đản sanh năm 624 trước Công nguyên, là hoàng tử duy nhất của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia ở nước Ca Tỳ La Vệ, thuộc miền Trung Ấn Ðộ.

Với hoài bão tìm một cuộc sống giải thoát khổ đau sanh tử cho con người, Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân tìm chân lý. Sau 6 năm học hỏi và thiết thân thực nghiệm các pháp tu của ngoại đạo, Ngài đến núi Già Da, nhập định dưới cội bồ đề. Qua 49 ngày tư duy, Ngài đắc quả Vô thượng Chánh đẳng giác.

Từ đó, Ðức Phật bắt đầu hoằng hóa lợi sanh. Ngài đến Lộc Uyển giảng pháp, độ 5 anh em Kiều Trần Như, hình thành Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng đầu tiên. Giáo đoàn của Ngài dần dần mở rộng, tập họp 1.250 vị Tỳ kheo cùng sống với Ðức Phật. Giữa Ngài và các vị Tỳ kheo này gần gũi nhau, gắn bó trong tình thầy trò. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là những đệ tử theo tu học với Phật đều kính nể Ngài như bậc Thầy sáng suốt nhất.

Phần lớn các Tỳ kheo đều xuất thaân từ ngoại đạo hay các tổ chức khác thời bấy giờ, họ trở về quy phục với Ðức Phật vì Ngài là vị mô phạm sáng suốt nhất, thường được họ tôn danh là bậc đại Ðạo sư, là vị Thánh cao cả nhất trong hàng Thánh.

Ðó là hình ảnh Ðức Phật tại thế toàn giác, toàn trí được tôn sùng như vậy trong thời Phật giáo nguyên thủy. Với trí tuệ vô lậu, sáng suốt hoàn toàn, Ngài giảng dạy các pháp khác nhau tương ưng với căn tánh, hành nghiệp của đối tượng cần giáo hoá. Vì vậy, Phật giáo Ðại thừa đã chia pháp Phật thành tam thừa hay ngũ thừa, nhưng tựu trung, người hữu duyên tiếp nhận pháp Phật, đều được thăng hoa, giải thoát.

Phật tại thế, Ngài là đấng Ðạo sư minh triết bậc nhất, lời dạy của Ngài là chân lý và người ứng dụng có kết quả tốt là Thánh Tăng. Nhưng Phật diệt độ, thì Tam bảo mất phần Phật bảo, vị Thầy sáng suốt không còn nữa. Từ đó đặt ra vấn đề ai là người có đủ tư cách quyết định sinh hoạt của giáo đoàn.

Trước tình trạng khó khăn không ai đủ khả năng thay Phật lãnh đạo, đã dẫn đến chủ trương sử dụng giáo pháp Phật làm tiêu chuẩn quyết định. Vì vậy, Thượng tọa bộ đề ra giáo pháp còn, tức Phật còn, không ai có quyền thay đổi giáo pháp.

Nhưng sau 100 năm, chủ trương này không được toàn thể Tăng chúng tán thành. Theo họ, Phật tại thế, tùy thời, tùy chỗ giảng dạy các pháp khác nhau. Nay, không còn Phật trực tiếp ứng xử các pháp tương ưng một cách đúng đắn, lợi lạc, thì không thể áp đặt lời Phật, khống chế mọi người.

 Từ sự bất đồng này phát sinh ra nhiều ý kiến khác nhau giữa các bộ phái, gọi là thời kỳ bộ phái, nhưng chính yếuThượng toạ bộ và Ðại chúng bộ.

Thượng toạ bộ cố gắng giữ y nguyên hình thái sinh hoạt của thời Ðức Phật tại thế, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Họ cho rằng khi không có Phật, nên lấy giáo pháp làm Phật, gọi là Phật Pháp thân, nghĩa là Phật sanh thân không còn nữa, thì chúng ta nên nương giáo pháp Ngài để sống, lấy đó làm kim chỉ nam hành đạo, không được sửa đổi. Như vậy, Phật hiện hữu dưới dạng giáo pháp Pháp thân.

Quan niệm của Thượng tọa bộ đặt nặng Phật Pháp thân hay giáo pháp chính là Phật, đã không được đại chúng chấp nhận. Tư tưởng Ðại thừa từ đây nảy sinh với lập luận rằng từ Lộc Uyển đến Sa La song thọ, hơn 300 hội, Phật thuyết pháp không giống nhau. Vấn đề đặt ra cho người hiện tại nên lựa chọn, sử dụng pháp nào thích hợp và những gì không thể thích nghi, có thể tự quyết định cách khác.

Từ ngả rẽ này, Ðại chúng bộ lấy chư Tăng làm chuẩn, cho rằng Phật hiện hữu trong Tăng đoàn. Khi cần sửa đổi điều gì trong sinh hoạt Phật pháp, ý kiến được tập thể chư Tăng tán đồng kể như có giá trị quyết định

Như vậy, từ niềm tin tuyệt đối vào giáo pháp, đã biến đổi thành chủ trương tin Tăng đoàn. Vì Phật tại thế, sinh hoạt chắc chắn phải khác hiện tạithời đạiquốc độ khác, tất yếu dẫn đến sinh hoạt phải khác.

 Những gì Phật dạy hay chưa nói đến, khi có sự kiện xảy ra, phải họp Tăng quyết địnhđại chúng bằng lòng thì Phật hoan hỷ. Trên tinh thần lấy Tăng làm chính, phạm Phật, Tăng cứu được, nhưng phạm Tăng, Phật không cứu.

Ngày nay, trên thế giới, tinh thần này vẫn có giá trị, chúng Tăng thay Phật đưa ra quyết định chung. Phật không nằm trong giáo pháp nữa, nhưng nằm ngay trong suy nghĩ của Tăng đoàn.

 Tinh thần Phật giáo Ðại thừa sử dụng giáo pháp Pháp thân của Phật giáo nguyên thủy, kết hợp với hiểu biết của chư Tăng trong hiện tại, sửa đổi thành Pháp thân của Ðại thừa, gọi là thanh tịnh Pháp thân, mà về sau được kinh Hoa Nghiêm diễn dịchthanh tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na.

Giáo pháp là di chúc và chư Tăng thanh tịnh là sự sống. Vì vậy, chư Tăng hoà hợp nhau thanh tịnh chế định ra giáo pháp, tức nguyên tắc sống phù hợp, lợi lạc an vui, được coi là Pháp thân Phật thuyết ra, khác với Pháp thân theo Phật giáo nguyên thủygiáo pháp gồm có một số điều không thích nghi với sinh hoạt mới của thời đại.

Thực tế cho thấy những gì chư Tăng họp lại, chế định ra, dễ được chấp nhận hơn là theo truyền thống. Mặc dù cần trân trọng truyền thống, nhưng cũng không thể không quan tâm nhiều đến nhận thức, tình cảm của người đang sống. Bỏ qua điều này sẽ đưa đến thất bại trầm trọng.

Ý thức như vậy, Phật giáo Ðại thừa chủ trương lấy thanh tịnh Pháp thân làm chuẩn mực tu hành. Tuy nhiên, cần chú ý phải hoà hợp thanh tịnh thực sự từ đáy lòng, không phải chỉ hòa ngoài mặt hay hòa trên đầu môi chót lưỡi. Thiết nghĩ khi chư Tăng hoà hợp thanh tịnh, chế định được gì, thì cái đó tồn tại.

Tóm lại, khi Phật tại thế, Ngài hiện hữu như đấng toàn giác, toàn trí, toàn thiện. Tư cách tuyệt mỹ ấy soi sáng tâm trí mọi người thăng hoa, đã được lịch sử ghi lại rõ ràng.

Vấn đề quan niệm về Ðức Phật như thế nào chỉ đặt ra sau khi Ngài diệt độ. Ở thời kỳ Phật giáo nguyên thủy (tính từ Phật tại thế đến sau Phật nhập diệt 100 năm), ngoài sanh thân Phật đã không còn nữa, người ta hình dung ra Ðức Phật vẫn hiện hữu trong giáo pháp Pháp thân, Tăng đoàn Pháp thân, tức Ngài còn hằng hữu qua lời dạy trong kinh điển, qua sinh hoạt hòa hợp thanh tịnh của chư Tăng ở khắp năm châu.



II - QUAN NIỆM VỀ ÐỨC PHẬT THEO ÐẠI THỪA PHẬT GIÁO 

Ðức Phật tại thế, Ngài là đấng toàn giác, toàn trí, hướng dẫn mọi người thăng hoa tri thứcđạo đức. Sau khi Phật diệt độ, nảy sanh nhiều quan niệm khác nhau về Ngài.Ở thời Phật giáo nguyên thủy, khi sanh thân Phật không còn, người ta nghĩ Phật vẫn hiện hữu trong kinh tạng của Ngài lưu lại, gọi là giáo pháp Pháp thân.

Quan niệm giáo pháp Pháp thân được Ðại chúng bộ triển khai thành Tăng đoàn Pháp thân nghĩa là Phật vẫn sống trong sinh hoạt của tập thể hoà hợp Tăng. Từ đó, mỗi người tin Phật, học Phật, thể hiện cuộc sống theo Phật thì Phật hiện hữu trong suy tư, trong việc làm của họ. Vì vậy có bao nhiêu người hướng tâm về Ngài, thì có bấy nhiêu Phật, dẫn đến hình thành tư tưởng thiên bá ức hoá thân Phật của Phật giáo Ðại thừa.

Theo tinh thần Ðại thừa, Ðức Phật Thích Ca là một ứng thânTa bà, để khai thị cho chúng sanh con đường vào Phật tri kiến. Sau khi ứng thân Phật Niết bàn, nhưõng Tỳ kheo mang hình thức giống Phật và truyền bá chánh pháp, tiêu biểu cho Phật tại trần gian, gọi là hóa Phật.

Tư tưởng hóa Phật được dân Tây Tạng đổi thành Phật sống, người ta tin và gần gũi với Phật sống hơn là Phật vô hình. Theo họ, chỉ có Lạt Ma mới có khả năng tiếp cận với Phật, và vị này là nhịp cầu tâm linh truyền thông giữa mọi người và Phật. Vì vậy, theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, đức Ðạt Lai Lạt Ma tiêu biểu cho Phật tại thế, được kính trọng tuyệt đối.Mỗi vị Tăng suy nghĩ về Phật, thì hiện hữu Phật; hóa Phật là Phật do chúng ta hình dung, nghĩ tưởng mà có. Từ góc độ ấy, Phật giáo Ðại thừa đưa ra quan niệm Báo thân Phật hay thân phước đức trí tuệ của Phật.

Báo thân Phật không phải là một thân lạ lùng ở nơi xa xôi nào, nhưng tồn tại ngay trong sanh thân Ngài, được cấu tạo từ sự kết hợp trí tuệ và những việc làm thánh thiện, lợi ích của Ngài đoái với đời.

Thật vậy, trên bước đường hoằng hóa độ sanh, với tri kiến thấy đúng như thật, Ngài hiểu rõ khả năng, hoàn cảnh của từng người và tùy theo đó mà chỉ dạy; họ đều thăng hoa trên đường đạo hạnh, tăng trưởng phước lạc.

 Với nhân cách toàn thiện, trí tuệ toàn bích, đạo đức toàn mỹ, đức Phật dễ dàng thành công trong việc giáo hoá. Báo thân hay hành vi đạo đức, không chút lỗi lầmtrí tuệ siêu tuyệt của Ngài đã ảnh hưởng, tác động cho người, xây dựng thành một tập thể xuất giatại gia đạo đức, sáng suốt. Hướng dẫn và dung hóa giáo đoàn gồm 12.000 Tỳ kheo thuộc trình độ khác nhau, thành phần phức tạp, không phải là điều đơn giản.

Trong 80 năm trụ thế, Ðức Phật cảm hóa từ hàng vua chúa quyền quý, người giàu sang, học thức, cho đến người thứ dân nghèo khổ, thất học, từ người hiền lành đến kẻ sát nhân; tất cả đều được chuyển đổi, thăng tiến tốt đẹp.

 Từ Báo thân viên mãn, đầy đủ phước đức, trí tuệ, Ðức Phật dùng vốn quý giá ấy để cấu tạo một thân thứ ba gọi là Pháp thân. Pháp thân không phải là cái gì siêu hình, trừu tượng ở trong hư không. Bằng trí tuệ của bậc Chánh Biến Tri, Ðức Phật biết rõ và vận dụng được nguyên lý tạo nên con ngườithế giới. Từ đó, mọi vật, mọi hiện tượng trong trời đất, mọi việc của các loài đều không chướng ngại đối với Ngài. Và hơn theá nữa, Ðức Phật chi phối toàn bộ các pháp, sử dụng chúng một cách tự tại; các pháp trở thành thân Ngài. Ðức Phật sử dụng Pháp thân chuyển hoá xã hội đương thời, lúc ấy sanh thân Phật trở thành Pháp thân hay được coi là Pháp thân.

Chúng ta cũng có Pháp thân, nhưng vì không có Báo thân viên mãn, tức không đầy đủ trí tuệ, đạo đức nên Pháp thân không hoạt động được, kinh gọi là Như Lai tại triền; ví như vàng bạc có trong quặng mỏ, nhưng không biết khai thác, không dùng được.

 Ðức Phật cũng mang thân tứ đại ngũ uẩn như mọi người, nhưng Ngài biết dùng sanh thân ấy để tạo thành Pháp thânBáo thân và đạt quả vị Vô thượng Ðẳng giác. Trong khi chúng sanh phát triển nghiệp và phiền não, đời đời kiếp kiếp trôi lăn trong sanh tử khổ đau.

Trên nền tảng cuộc sống bình thường của sanh thân, Ðức Phật phát triển tinh thần, tăng trưởng trí tuệđạo đức để nuôi lớn Báo thân. Và từ tinh thần này hội nhập lại sanh thân, tác động đến mọi người, mọi việc. Nói chung là Ngài điều động được các pháp một cách tự tại, tức sử dụng được Pháp thân.

Tuy ba thân : sanh thân, Báo thân và Pháp thaân, thực sự chỉ là một thân, hiện hữu trong con người thật, Thích Ca Mâu Ni, được lịch sử ghi nhận.

Tóm lại, Phật giáo nguyên thủy quan niệm Ðức Phật có sanh thânPháp thân.

Phật giáo trong thời kỳ bộ phái lại chủ trương Báo thânứng thân.

Sau đó, Phật giáo Ðại thừa kết hợp hai tư tưởng này lại để hình thành quan niệm tam thân Phật : ứng hóa thân, Báo thânPháp thân. Nghĩa là quan niệm sanh thân của Phật giáo nguyên thủy vaø Phật giáo thời bộ phái giống nhau, vẫn giữ nguyên, nhưng mang tên khác là ứng hóa thân. Ứng thân chỉ cho Phật Thích Ca, hóa thân là những vị gìn giữ chánh pháp Phật tồn tại trên thế gian.

Ngoài ra, Phật giáo Ðại thừa đặt nặng vấn đề tri thứcđạo đức nên lấy Báo thân viên mãn hay phước đức trí tuệ làm thân. Ðây là điểm quan trọng khác biệt giữa Phật và chúng sanh, vì không tu đầy đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi, không thể nào đaït quả vị Phật.

Sau cùng, Ðại thừa kết hợp giáo pháp Pháp thân của quan niệm nguyên thủy với Tăng đoàn Pháp thân của thời bộ phái, biến đổi thành thanh tịnh Pháp thân. Như vậy, danh từ Pháp thân tuy giống nhau, nhưng tư tưởng cốt lõi bên trong khác nhau.

Theo tinh thần Ðại thừa, ngày nay sanh thân Phật vắng bóng trên cuộc đời, tri thứcđạo hạnh của Ngài đầu tư cho loài người vẫn là mô hình kiểu mẫu hướng dẫn cho những người đồng hạnh đồng nguyện với Ngài trên khắp năm châu.

Sanh thân không còn hiện hữuPháp thân vẫn thường trụ vĩnh hằng, được vô số tâm hồn lớn nối tiếp, tạo thành mạng mạch Phật giáo lưu truyền, lợi lạc cho chúng hữu tình qua suốt 25 thế kỷ.

III - QUAN NIỆM VỀ ÐỨC PHẬT THEO KINH HOA NGHIÊM

Kinh Pháp Hoakinh Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nòng cốt của Phật giáo Ðại thừa. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi kinh Hoa Nghiêm triển khai về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên thuyết diệu pháp.

Quan niệm về Ðức Phật theo Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ Phật nguyên thủy là đức Thích Ca. Ngài cũng mang thân tứ đại giống như chúng tatrải qua quá trình tu hành, đắc quả Vô thượng Bồ đề.

Quan điểm cho rằng Phật là người giống như ta và tiến tu thành bậc chánh giác, được xét lại trong thời Phật giáo phát triển. Vì câu hỏi được đặt ra là tại sao người đều giống nhau, nhưng chỉ duy nhất có Phật thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị tu hành khác thì có người thành Tổ, có người làm trụ trì hoặc người chẳng đạt được quả vị nào.

Phật giáo phát triển bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, nhìn bên trong cái thực của con người, tức chân linh để định giá trị khác nhau của mỗi người. Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, phần cốt lõi quan trọng hơn vì lõi thế nào thì hiện ra bên ngoài thế đó. Bên trong hàm chứa coát cách của Phật, Tổ, tất yếu bên ngoài phải hiện tướng hảo trang nghiêm. Ðó là do các Ngài đã tích lũy công đức tu hành nhiều đời, không phải một kiếp làm được, một đời thành Phật được như chúng ta lầm tưởng. Chúng sanh tạo nghiệp ác, chất chứa trong nhiều đời cũng giống như vậy.

 Từ đó, hình thành kinh Bổn sanh, Bổn sự, nói về vô số tiền kiếp của Phật xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác giống như chiếc áo mặc cho chân linh. Ðó là quan niệm mới của Phật giáo phát triển bắt đầu quán sát người ở hai mặt : mặt bề ngoàisanh thân hay thân mạng hữu hìnhthân mạng vô hình bên trong là Báo thân, tức hành vi tạo tác của chúng ta.

 Do công đức tu hành tạo nên con ngườiBồ tát, Thánh hiền, Phật. Nghiệp chướng trần lao thì tạo thành chúng sanh trôi lăn trong sáu đường sanh tử. Như vậy, chúng ta có hai con người : con người bằng xương thịt và con người bằng chân linh. Ðại thừa chú trọng đến phần chân linh, căn cứ vào sanh thân Phật để tìm hiểu chân linh hay nhận ra Báo thân Phật.

Theo Ðại thừa, Báo thânphước đức, trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa người thành tựu dễ dàng vì lời nói, hành động, việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu tuyệt và đạo đức hoàn toàn thánh thiện.

Ðại thừa nhìn về Phật qua tri thứcđức hạnh của Ngài và triển khai Báo thân. Suy nghĩ về Báo thân, nương Báo thân Phật tu hành nhằm mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình. Trên bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, ta cũng làm vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.

Ðức Phật dạy rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi, viên mãn hạnh Bồ tát. Vô lượng kiếp quá khứ, Phật, Hiền Thánh đều trải thân hành Bồ tát đạo, làm lợi ích chúng hữu tình, mới đạt đến Vô thượng Ðẳng giác. Ngày nay, muốn thành tựu quả vị như Phật, chúng ta cũng phải phát tâm bồ đề, dấn thân tu Bồ tát đạo. Ðó là tư tưởng nồng cốt của Phật giáo Ðại thừa.

Tiến đến đỉnh cao của hệ tư tưởng này là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Ðức Phật và cách tu thế nào để thành Phật, tức Bồ tát pháp. Tinh thần Hoa Nghiêm cho chúng ta ý niệm về Ðức Phật hoàn toàn mới, khác hẵn các bộ kinh Ðại thừa khác. Ðức Phật không bị giới hạn trong một loại hình cố định nào.

Thật vậy, Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta tầm nhìn phóng khoáng, theo đó không có gì không phải là Phật, đó mới là Ðức Phật chân thật. Phật này là Phật huệ, trí tuệ Phật hiện vô thân đồng nữ thì đồng nữ đó là Phật, hiện trong thân trưởng lão thì trưởng lão là Phật, v.v...

Tư tưởng đặc biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Ðức Phật toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt đến trình độ nhất định nào đó mới có thể hiểu, sống và hành đạo như vậy.

Ðứng trên lập trường bao quát, thấy Phật là tất cả, là pháp giới, được kinh Hoa Nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với 10 loại thân : Ngũ ấm thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân, Hư không thân. Hay có thể nói 10 loại hình này là diễn tiến sự sống từ thấp nhất tiến đến quả vị Phật và từ Phật giới chi phối ngược xuống toàn bộ các loài hưõu tình, vô tình.

1- Ngũ ấm thân : 
Trái với quan niệm thông thường cho rằng Thượng đế tạo ra con ngườivũ trụ, theo Hoa Nghiêm, trước tiên lấy ngũ ấm làm căn bản, vì tất cả muôn vật đều phát xuất từ ngũ ấm : sắc, thoï, tưởng, hành, thức. Ðức Phật cũng hiện hữu từ ngũ ấm, Ngài tiến đến quả vị toàn giác vì Ngài không bị ngũ ấm chi phối. Chúng sanh cũng mang thân ngũ ấm, nhưng bị nó ràng buộc triệt để, luôn gánh chịu khổ đau sanh tưû.Ðức Phật khẳng định rằng ngũ ấm cấu tạo nên con ngườicon người bị lệ thuộc nó. Chính vì còn kẹt vào thân vật chất, tức sắc uẩn, chúng ta còn bị bốn thứ : đói, khát, nóng, lạnh hành hạ. Khi sống với thức uẩn, mặc dù chưa phải là chơn tâm, chúng ta cũng đã thoát khỏi sự ràng buộc của bốn tướng này. Thí dụ như trong giấc mơ, chúng ta không ăn cũng không thấy đói.

 Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc được sơ quảxa lìa được đói khát, nóng lạnh. Vì vậy, Thiền sư trong lúc nhập định không cần ăn uống, ngủ nghỉ, mà không cảm giác đói khát, mệt mỏi, vì họ đang sống với chân linh, vượt ngoài sự chi phối của thân xác.

Thân của Ðức Phật khởi đầu cũng phát xuất từ thân ngũ ấm như chúng ta và Ngài cũng sử dụng nó. Nhưng chính yếu là Phật điều khiển được thân hoàn toàn theo mục tiêu mà Ngài đặt ra.

Ðối với Phật, Ngài mang thân ngũ ấm trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành Vô thượng Ðẳng giác để giáo hóa chúng sanh. Khi việc đáng làm đã làm, người đáng độ đã độ, Ngài rời bỏ thân một cách nhẹ nhàng. Ðức Phật khác hơn chúng sanh là như vậy.

Chúng sanh thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên với nó. Ðức Phật thì tự tại hoàn toànbiến đổi được ngũ uẩn thành Pháp thân mà kinh diễn tả là : "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai".

Ðưùc Phật sử dụng và phát triển ngũ uẩn thành ngũ phần Pháp thân, đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài. Vì vậy, ngũ uẩn được kinh Hoa Nghiêm coi là một trong 10 thân của Phật Tỳ Lô Giá Na.

2- Quốc độ thân
Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sanh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân, chỉ cho sơn hà đại địa. Nói chung, sự sống đơn bào tiến lên đa bào, phát triển lần đến các sinh vật hữu tình và vô tình.

Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm; đó là vô tình thuyết pháp. Thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào caûnh quang, tạo thành lực hấp dẫn đưa ta đến với Phật đạo.

Trong kinh thường diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo, Phật hiện thân trong tất cả các loài, không riêng gì loài người, Ngài đã từng làm nai, chim, sư tử ... Trong vuõ trụ, cỏ cây hoa lá cho đến động vật đều có Tỳ Lô Giá Na ảnh hưởng đến và trong các hữu tình chúng sanh thuộc tứ sanh lục đạo cũng chịu lực chi phối của Tỳ Lô Giá Na để tồn tại.

3- Chúng sanh thân : 
Loại thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá Na là trải thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở, nuôi sống, dung nhiếp muôn loài. Không loài nào mà tâm đại bi Phật không tác động đến, thể hiện sự hiện hữu loại thân thứ ba của Phật gọi là chúng sanh thân.

 Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt với phàm phu, ràng buộc họ, làm cho khổ đau.

Trên tinh thần tất cả đều đẹp, những người thật dạ tu hành ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong núi rừng, nhưng có cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba đời mười phương Phật, họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng nếu khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ này mới tu được, ở chỗ kia buồn khổ, thì không thể nào sống trong thiền môn. Riêng tôi, vào thời niên thiếu, có lúc hành đạo, ở dưới gốc cây, sống thật đạm bạc, cảm nhận hạnh phúc kỳ diệu.

Thiết nghĩ, người nào vân du hành đạo dễ nhận ra ý này. Khi trụ tâm tu hành, cái gì cũng đẹp, nhưng bắt đầu xây cất tinh xá, chùa chiền, thu nhận đồ chúng thì cũng bắt đầu khổ với trần duyên. Thật vậy, tâm hồn chúng ta thoáng, không chấp vật, cái gì đối với ta cũng tốt. Nhưng chấp một cái là trùng trùng duyên khởi phiền não sanh ra.

Bước theo lộ trình Hoa Nghiêm, chúng ta cũng tập mang tinh thần rộng lớn như vậy, tập làm những việc bao dung, giúp đỡ người phát triển. Ðó là con đường đưa chúng ta đến quả vị toàn giác trong tương lai. Nói cách khác, ngũ uẩn phát triển đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài.

4- Thanh văn thân
Từ trong chúng sanh thân, nhận ra cuộc đời không bền chắc, khởi tâm đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ, tức Thanh văn thân, cũng là một loại hình thân của Phật.

Thanh văn có 4 hạng : Tăng thượng mạn Thanh văn học nhiều nhưng chỉ để nói khoác. Chúng ta cần cân nhắc, đừng để rớt vô hạng này.

Hạng thứ hai, thú tịch Thanh văn, học và chấp vào pháp đã được. Họ sống với pháp đó cho đến lần tách rời cuộc đời, không biết gì đến thế gian. Khi đắc đạo, họ hướng thẳng về an trú Niết bàn.

 Hạng thứ ba là thoái chuyển Thanh văn, phát tâm bồ đề, làm lơïi ích chúng hữu tình, nhưng nghiệp và phiền não bản thân còn nhiều, bị chúng sanh gây khó khăn. Họ không thể tiến tu Bồ tát đạo, phải lui trở lại tu hạnh viễn ly. Sau cùng là Bồ tát thị hiện Thanh văn,ï thực sự là Bồ taùt, nhưng ở trong hàng Thanh văn để giáo dưỡng họ.

Bốn hạng Thanh văn trên đều mang hình thức đệ tử Phật, dù họ tu cách nào, Phật lực cũng chi phối đến thân họ. Ðối với người Tây Tạng, hàng tu sĩ được quý trọng như Phật sống. Tinh thần này được kinh Pháp Hoa diễn tảthế gian tướng thường trụ, tức ở trong loài người, mang thân người duy trì được Phật pháp qua hành động và tư tưởng trong cuộc sống.

 Vì vậy, người tu theo pháp Phật, trắc nghiệm 37 phẩm trợ đạo giữa lòng cuộc đời, được coi như là Pháp thân của đức Phật hay Thanh văn thân là một phần trong tổng thân của Phật Thích Ca.

5- Duyên giác thân
Trong hàng đệ tử Phật, Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy. Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.

Hàng Duyên giác hay Bích Chi Phật ẩn tu, thâm nhập thiền định, nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ sanh lục đạo và hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy, thì họ vẫn được coi là một hiện thân của Phật trên cuộc đời.

6- Bồ tát thân : 
Thanh văn tu hành tập thể và Duyên giác hay Ðộc giác ẩn tu quán sát các pháp. Tổng hợp hai cách tu này, có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát.

Bồ tát hay bậc giác hữu tình tức người đem ánh sáng giác ngộ đến các loài hữu tình. Họ phát tâm bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến giúp đỡ, cũng là do Phật lực chi phối đến.

Trên tinh thần hành đạo cứu đời vì tiếp nhận được lực Tỳ Lô Giá Na, nên Bồ tát thân cũng là thân của Phật.

Khi người tu tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như Lai thân. Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên Giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau tu hành như Thanh văn. Vì Như Lai thân không từ đâu tới và cũng khoâng đi về đâu. Chính thân đó tác động đến các loài chúng sanhgiáo hoá được tất cả mà không cần cử thân động niệm.

Từ ngũ ấm thân, trải qua quá trình tu hành tiến lên quốc độ thân, chúng sanh thân, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát thân và Như Lai thân là thân thứ 7 của Phật.

quả vị Như Lai, không cần làm tất cả các việc trước nữa, nhưng các loài hữu tình chúng sanh tự phát tâm tu và tự giải thoát. Ðó là đặc biệt của sự giáo hóa bằng Như Lai thân, không cần cứu độ mà mọi loài được nương nhờ, tự tôn kính, quy ngưỡng Phật.Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt đến vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động, mà vẫn hoá độ được chúng sanh. Hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, nhưng bằng trí tuệ, nên gọi là trí thân (thân thứ 8 )

 Dùng trí thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ phát tâm bồ đềChúng sanh chịu sự chi phối của trí thân gồm cả hữu tình và vô tình chúng sanh tức nhứt thiết pháp. Tất cả pháp, không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới được.

Trí Như Lai chiếu tới đâu thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Ðức Phật. Ðó là điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm quan niệm về Ðức Phật. Trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến chuyển thành pháp của Phật.

 Ví dụ trí tuệ Như Lai tác động vào chúng ta, khiến chúng ta phát nguyện theo Phật đạo và cũng tác động qua các pháp, biến gạch ngói, đất đá thành chùa chiền. Tu sĩ, tín đồ, chùa, cảnh vật, pháp khí hiện hữu để Phật pháp tồn tại, phát triển, thì tất cả đều là Pháp thân của Ðức Phật ( thân thứ 9 )

 Quang cảnh thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát tâm tu theo, tức Pháp thân của Phật đã thuyết pháp.

Có thể nói Pháp thân Phật theo tinh thần Hoa Nghiêm được triển khai rộng hơn ý niệm Pháp thân của Phật giáo nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp Phật còn lưu lại.

 Kinh Hoa Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Từ căn bản ấy, tất cả mọi sự vật trên cuộc đời đều biến thành Phật pháp nếu có huệ Như Lai rọi vào. Một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì đều biến thành Phật khi người tạo ra nó hoặc chiêm ngưỡng, kính lễ nhận được huệ Như Lai, có ý niệm về Phật.

Trái lại, không có huệ Như Lai đầu tư vào, thì đất đá vẫn là đất đá. Triển khai mạnh về ý nghĩa này, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.

Tiến theo lộ trình Hoa Nghiêm, đạt đến đỉnh cao nhất là Hư không thân hay Tỳ Lô Giá Na thân. Tỳ Lô Giá Na dịch là phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến pháp thành Pháp thân. Lúc ấy, trí và lyù bất nhị, kết hợp thành một. Thiết nghĩ đây là loại hình của thế giới tu chứng, khó diễn tả bằng ngôn ngữ bình thường.

10 thân Phật nói trên là tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lýtrí tuệ, chi phối ngược xuống 9 loại hình, từ hàng Thánh giả đến người thường trên cuộc đời và cả loài hữu tình, vô tình.

Trong vô hình, lực Tỳ Lô Giá Na chi phối xuống hữu tình chúng sanh và vô tình khí thế giới, khiến cho tất cả phaùt tâm bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, kết hợp thành pháp giới.

 Ðó là thế giới huyền môn của đạo Phật dành cho những người tiến bước theo Bồ tát đạo, đạt đến bằng sự tu chứng thật sự, nằm ngoài lạm bàn của phàm phu điên đảo vọng tưởng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11597)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16499)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19586)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11811)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12576)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15621)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13572)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17953)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11124)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant