Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương III. Ý Nghĩa Đề Kinh Hoa Nghiêm

22 Tháng Hai 201400:00(Xem: 9239)
Chương III. Ý Nghĩa Đề Kinh Hoa Nghiêm

LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM 

HT Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013

Chương III.
Ý Nghĩa Đề Kinh Hoa Nghiêm

Kinh Hoa Nghiêm là tên tóm gọn của Ðại Phương

Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Chữ "Ðại" trong tên kinh, không có nghĩa đối lại với tiểu. Ở đây, "Ðại" chỉ cho đại dụng hay tổng thể. Ðức Phật đắc đạo, thấy được tổng thể sự vật, hay nắm bắt được chân lý.

Chúng ta đang bước theo dấu chân Phật, tức đang hướng tới chân lý, chưa nắm bắt được chân lý, làm sao chúng ta thấy chân lý, thấy đại dụng ?

Trước tiên, chúng ta thấy chân lý qua giáo lý, mà Ðức Phật thường ví như ngón tay chỉ mặt trăng. Phật chỉ đâu chúng ta thấy đó. Thực sự chúng ta không thấy, nhưng nhờ giáo lý soi sáng, từng bước nhận ra chân lý. Hàng Thanh văn tu theo lộ trình này. Tôi cũng vậy, trải qua hàng chục năm siêng năng đọc tụng kinh điển với tất cả tấm lòng, mới thấy từng phần chân lý tương đối chính xác. Tuy chỉ thấy mặt trăng hay chân lý ở đàng xa một cách lờ mờ, chưa nắm bắt được, nhưng ít ra cũng nhận biết được nó để chúng ta đi tới.

Kế đến, chúng ta suy nghiệm lời Phật dạy để hiểu sâu xa hơn. Trước chúng ta chỉ nghe thuyết giảng hoặc đọc kinh để tưởng tươïng, hình dung ra chân lý. Nay, chúng ta hạ thủ công phu, tập trung tư tưởng, suy nghĩ thì chân lý từ từ hiện rõ nét. Ðó là cách tu của Duyên giác nỗ lực thiền quán làm vấn đề sáng ra.

Ðến giai đoạn ba, hành Bồ tát đạo vào đời trắc nghiệm 6 pháp ba la mật và 4 pháp nhiếp, biết rõ căn tánh hành nghiệp của chúng sanh. Từ đó, thay đổi nghiệp thức, hành uẩn của ta và người. Bồ tát bắt đầu nắm bánh xe tạo hóa, chuyển đổi từng phần sự vật theo ý muốn.



Quá trình tu tam thừa giáo như vậy, giúp chúng ta nắm được phương tiện trong tay mới chuyển được vật. Không trải qua ba giai đoạn này, việc tu hành không thể đạt kết quả tốt. Tùy theo phương tiệnchúng ta nắm được phần nào thì vận dụng được phần đó.

Trên lộ trình Bồ tát đạo, chúng ta khám phá đại dụng và càng làm, càng thấy nhiều điều chưa biết. Chúng ta vẫn sinh hoạt trong tổng thể, phần phá vô minh, phần chứng pháp thân. Có thể nói ở giai đoạn này, chúng ta tu sáng hơn, tự tin hơn và có thành công hơn. Tiến tu như vậy, ánh sáng trí tuệ cho ta thấy được tổng thể của sự vật, thấy được sự chi phối toàn bộ của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Ðưùc Phật trong kinh Hoa Nghiêm là Tỳ Lô Giá Na Pháp thân hay Ðại Nhựt Như Lai hằng hữu bất sanh bất diệt, nắm bắt toàn bộ tổng thể của sự vật. Ý này được kinh diễn tả là Ngài đắc đạo, khám phá ra bàn tay tạo hóa hay người thợ xây ngôi nhà và từ đó Ngài chủ động hoàn toàn vận mạng của Ngài.

Kinh Hoa Nghiêm muốn chỉ cho chúng ta lộ trình tu hành khám phá và nắm bắt được tổng thể của sự vật.

Ðại là tổng thể. Từ tổng thể phân ra thời giankhông gian. Thời gian luôn di chuyểnkhông gian luôn biến động và chúng luôn tác động lẫn nhau, cũng như chi phối tất cả sự vật. Mọi vấn đề đều phát sanh từ thời gian, không gian.

Phương là chiều đứng và quảng là chiều rộng, cộng lại là vũ trụ. Hay thời giankhông gian hợp lại tạo thành vũ trụ và sự sống muôn loài, sự vật vận hành, tức vũ trụ biến đổi, xoay vần đều không nằm ngoài thời không.

Pháp thân Phật vĩnh hằng, nhưng từ tổng thể phát sinh ra Báo thânứng hóa thân Phật có đổi khác. Thật vậy, giáo lý Phật bất biến nhưng thường tùy duyên. Trên nền tảng ấy, tổng thể hay Phật giáo muôn đời không thay đổi. Tuy nhiên, để tồn tại thích nghi, sinh hoạt từng chỗ, từng lúc có biến đổi. Nếu giữ nguyên khuôn mẫu cố định, thì phải bị loại ra ngoài cuộc sống của trời đất.

Ðại hay tổng thể bất biến, nhưng nhờ phần dụng là Báo thân linh hoạt, tức đạo đứctri thức được vận dụng thích nghi lợi lạc nên tồn tại mãi. Trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy rõ nếu giữ được hai thứ vốn quý giá là đạo đứctri thức thì ở đâu chúng ta cũng được quý trọng. Tu theo Hoa Nghiêm là tu trong tổng thể của sự vật, lấy những gì đẹp nhất của nó trang nghiêm cho ta, chứa đựng tri thứcđạo đức của nhân loại trong đầu ta, trong trái tim ta, thể hiện thành Báo thân Phật.

Chư Phật đều giống nhau ở điểm tri thứcđạo đức vẹn toàn, làm Thầy trời người, được cung kính cúng dường. Tuy nhiên, cách hành đạo của các Ngài khác nhau. Thí dụ Phật Tịnh Lưu Ly chỉ giữ tâm trong sáng và dùng tâm ấy cảm hóa người trong sáng theo. Phật Hương Tích thì dùng mùi hương cảm hóa người phát tâm tu thành Phật. Phật Di Ðà thì sử dụng phương tiện lầu các, ao thất bảo, chim nói pháp, v. v...để giáo hóa.Từ tổng thể Pháp thân hiện ra hoạt động của Báo thân trong trời đất, tùy duyên cứu độ chúng sanh bằng mọi cách, không ngừng nghỉ. Ðó là hiện hữu của Như Lai, bất độngbiến hóa lợi ích không cùng.

Tinh thần này được Phật giáo Ðại thừa triển khai thành "Dĩ bất biến ứng vạn biến", theo đó sự vật thay đổi như thế nào, ta vẫn thích nghi được, để tồn tại. Không thích nghi thì chắc chắn bị tiêu diệt, như lịch sử đã từng ghi nhận thảm họa đổ lên Phật giáo Ấn Ðộ xưa kia và ngày nay một số nước Phật giáo nguyên thủy.

Ðức Phật cũng trụ ở trạng thái bất biến, tức an trú đại thiền định ở cung trời Ðâu Suất. Từ trạng thái Phật ở thể tĩnh, Ngài khởi tâm đại bi, ứng vạn biến, chọn thành Ca Tỳ La Veä làm nơi Ðản sanh vào thời gian cách đây hơn 2500 năm, đó là hiện thân Phật Thích Ca Mâu Ni ở thể động.

Hiện hữu trên cuộc đời, Ðức Phật vận dụng đạo đứctri thức chuyển hóa mọi tư tưởngviệc làm sai lầm của hàng trí thức đương thời. Ðức Phật chỉ cho mọi người nhận ra chính họ làm chủ cuộc đời của họ, đừng dại khờ giao vận mạng cho người mà mình không hề biết rõ. Trước đó, tất cả mọi người đều lệ thuộc thần linh, nhưng nay Phật dạy ngược lại, dạy chúng ta chủ động, sử dụng ngay tri thức của ta để tự quyết định mọi thành bại của đời ta. Tu sĩ Ðại thừa nối gót theo Phật, hành đạo ở nơi nào đều sử dụng ngũ minh để giải quyết nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật cho người dân nơi đó.

Kinh Hoa Nghiêm nối kết lại những tư tưởng Ðại thừa Viên giáo, gồm có 36.000 bài kệ nói về việc làm cao quý của các Bồ tát, tiêu biểu bằng hoa. Hoa ở đây là tất cả loài hoa, không phải chỉ có hoa sen như kinh Pháp Hoa.

Bồ tát theo Hoa Nghiêm góp nhặt được tất cả hoa hay tinh ba của muôn loài. Dưới mắt Bồ tát, mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội đều tốt, quan trọng là phải thấy được điểm tốt đẹp của người và quan hệ với họ ở mặt tốt đó. Thật vậy, thể nghiệm lời Phật dạy, Tổ sư Pháp Tạng không thấy bà Võ Hậu hoàn toàn xấu ác như người ta thường chê bai. Và Ngài đã khai thác được mặt tốt, cảm hóa bà trở thaønh người bảo trợ cho việc phiên dịch kinh Hoa Nghiêm.

Chúng ta không nói cái nào hay, cái nào dở. Mỗi thứ đều có nét đẹp riêng. Tu Bồ tát đạo, ai có điều gì tốt, chúng ta học cái tốt ấy. Theo Hoa Nghiêm, chúng ta lấy tinh ba của cuộc đời, văn minh của nhân loại để trang bị cho trí năngphục vụ lợi ích cho đời, không phải chỉ sử dụng một cái duy nhất, rớt vô cục bộ.

Theo tôi, hiểu biết càng nhiều càng tốt. Triết học Ðông Tây, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, v. v... chúng ta đều am tường. Biết để sống với đời, cảm hóa người, mới hành Bồ tát đạo được và chỉ có con đường này dẫn chúng ta đến quả vị toàn giác.

Tóm lại, đề kinh Hoa Nghiêm tuy ngaén gọn, nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu xa, chỉ cho chúng ta thấy Ðức Phật của kinh Hoa Nghiêm là tổng thể của vũ trụ, tức Tỳ Lô Giá Na Pháp thân. Ðức Phật này chi phối muôn sự muôn vật vì Ngài đã trang nghiêm bằng chân thiện mỹ vẹn toàn, nghĩa là đạo đứctri thức Phật bao trùm muôn loài, tác động cho tất cả hữu tình vô tình chúng sanh thăng hoa trên đường thánh thiện.

Có thể nói đề kinh có vài chữ, nhưng bao hàm tất cả kinh. Vì vậy, theo tinh thần Hoa Nghiêm, tất yếu không chỉ giới hạn ở việc học ngữ ngôn văn tự, nhưng học và ứng dụng trong cuộc sống như thế nào để chúng ta xứng đáng làm Thầy, đúng như ý Phật dạy.

Thể nghiệm pháp Phật, chúng ta bieát rõ tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, năng lực của đối tượng và tùy theo đó giúp họ trưởng thành. Chúng ta tự khẳng định vai trò đạo sư của người tu sĩ, theo ta thì người được lợi lạc nhiều mặt, nương đạo đức của ta thì người trưởng dưỡng được đạo tâm, nhờ chỉ dạy của ta mà người nâng được nhận thức sáng suốt hơn, cuộc sống an lạc hơn, phát triển hơn. Không phải người theo để nuôi ta, làm tôi mọi cho ta. Ðức Phật không bao giờ đào tạo những người ăn hại.

Bước theo lộ trình Hoa Nghiêm, nối tiếp sự nghiệp hoằng hóa độ sanh của Ðức Phật, thể hiện đúng tư cách nhà truyền giáo, chúng ta hiện hữu trên cuộc đời vì lợi íchhạnh phúc cho số đông.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12478)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10345)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12322)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11624)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28781)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12346)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52990)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35471)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21363)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10671)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26015)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13303)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13721)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17552)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13110)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11584)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14489)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20438)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18964)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19531)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18619)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12171)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12288)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13833)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14997)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15024)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13975)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11386)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17160)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14959)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20173)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14601)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13824)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11692)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15041)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14541)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11641)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13147)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11928)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15829)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12863)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18886)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18409)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant