Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Vu Lan Bồn

26 Tháng Hai 201400:00(Xem: 15034)
Kinh Vu Lan Bồn


KINH VU LAN BỒN

 

Tam tạng pháp sư Trúc Pháp Hộ (người nước Nhục-chi) dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tây-Tấn (265-316).

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn tại Gia-nã-đại, năm 2011.

(Dịch từ bản Hán văn “Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh”, kinh số 685, tạng Đại Chánh, quyển 16, trang 779.) Nguyên tác: 1 quyển [1]

 

 

Chính tôi nghe như vầy:

Một thời đức Thế Tôn

Ngự tại khu vườn rừng

Kì-đà Cấp-cô-độc

(Tức tinh xá Kì-viên),

Ở kinh thành Xá-vệ.

 

 *

Tại tinh xá, bấy giờ,

Tôn giả Đại Mục Liên

Vừa chứng sáu thần thông,

Muốn cứu độ cha mẹ,

Đền đáp ơn sinh dưỡng;

Nên dùng sức thiên nhãn

Quan sát khắp thế gian,

Nhìn thấy thân mẫu mình

Sinh trong chốn ngạ quỉ,

Không có gì ăn uống,

Hình hài trông tiều tụy,

Gầy ốm da liền xương.

Tôn giả lòng đau xót,

Liền bưng bát cơm đầy,

Đem đến dâng lên mẹ.

Bà chụp ngay bát cơm,

Tay trái thì che đậy,

Tay phải vốc cơm ăn;

Nhưng cơm chưa vào miệng

Đã hóa thành than lửa!

Bà không thể ăn được.

Tôn giả quá thương tâm,

Kêu khóc thật bi thảm;

Liền mau về trước Phật,

Bạch rõ cảnh tượng này.

 

 *

Nghe xong, đức Phật dạy:

Này, thầy Mục Kiền Liên!

Tội chướng của mẹ thầy,

Gốc rễ kết đã sâu;

Năng lực một mình thầy

Không thể nào giải cứu!

Tâm hiếu thuận của thầy,

Dù rúng động trời đất,

Nhưng ở trong thế gian,

Những vị uy lực lớn

Như thiên thần, địa thần,

Chúng ma vương tà ngụy,

Các đạo sĩ ngoại đạo,

Cả bốn vị Thiên Vương,

Cũng không làm gì được!

Phải nhờ sức uy thần

Của Tăng Chúng mười phương,

Mẹ thầy mới siêu thoát.

Như Lai nhân dịp này,

Sẽ chỉ dạy cho thầy

Một phương pháp cứu tế,

Giúp những kẻ khổ nạn

Tiêu trừ mọi tội chướng,

Thoát khỏi cảnh khổ đau.

 

 *

Phật bảo Đại Mục Liên:

Trong ngày lễ Tự Tứ

Của Tăng Chúng mười phương

Vào ngày Rằm tháng Bảy,

Quí thầy hãy thành tâm

cha mẹ hiện tại

Đến bảy đời quá khứ,

bà con quyến thuộc

Đang trong vòng khổ nạn,

Mà sắm sửa trai phạn

Đủ mùi vị thơm ngon,

Đặt vào trong chiếc bồn;

Cùng các loại trái cây;

Và các vật cần dùng

Như thau bồn đựng nước,

Đồ dùng múc, rưới nước;

Thuốc men, hương, đèn, dầu;

Giường, chiếu, gối, chăn, màn ...

Đem tất cả dâng cúng

Đại Đức Tăng mười phương.

 

 *

Tất cả chư Thánh Chúng

Vào ngày Tự Tứ ấy,

Hoặc đang tu thiền định

Nơi núi non thanh vắng;

Hoặc thường đi kinh hành

Trong rừng cây thâm u;

Hoặc chứng bốn quả Thánh;

Hoặc Thanh-văn, Duyên-giác,

Đã chứng sáu thần thông,

Đang giáo hóa tự tại;

Hoặc chư Bồ-tát lớn

Đã lên hàng Thập-địa,

Nhưng phương tiện thị hiện

Làm thân tướng tì kheo ...

Tất cả những vị ấy

Tụ hội trong Tăng Chúng,

Đều đồng đẳng nhất tâm

Thọ dụng bữa trai tăng

Cúng dường Tăng Tự Tứ.(*)

Chúng Tăng Tự Tứ này,

Đủ giới pháp thanh tịnh,

Nên phước đức mênh mông.

Người nào được cúng dường

Tăng Chúng Tự Tứ trên,

Thì cha mẹ bà con

Đời này của người ấy:

Nếu đã quá vãng rồi,

Tức thì được thoát khỏi

Cảnh khổ ba đường dữ,

Sinh về cảnh giới lành,

Cơm áo có tự nhiên;

Nếu còn đang tại thế

Được hưởng nhiều phước lạc,

Sống lâu đến trăm tuổi.

Còn các bậc cha mẹ

Trong bảy đời quá khứ,

Thì tự tại hóa sinh

Lên ở các cõi trời,

Đầy ánh sáng hoa lệ,

Hưởng phước lạc vô biên.

 

 *

Bấy giờ Phật qui định:

Tăng Chúng trong mười phương

Trước hết, vì trai chủ,

Định tâm ý chú nguyện

Cho cha mẹ hiện tại

Đến bảy đời quá khứ,

Rồi sau mới thọ thực.

Và trước khi thọ thực,

Hãy đặt các thức ăn

Trước bàn Phật trai đường,

Hoặc ở nơi chùa tháp,

Sau khi chú nguyện xong,

Tăng Chúng mới thọ thực.

 

 *

Phật dạy điều ấy xong,

Tôn giả Mục Kiền Liên

Cùng chư vị Bồ-tát,

Tất cả đều hoan hỉ.

Tiếng khóc than bi thảm

Của tôn giả Mục Liên

Tức thì không còn nữa.

Thân mẫu ngài Mục Liên,

Cũng ngay trong ngày ấy,

Thoát cảnh khổ ngạ quỉ.

 

 *

Bấy giờ ngài Mục Liên

Lại bạch đức Thế Tôn:

Nay thân mẫu của con,

Nhờ công đức Tam Bảo,

Nhờ uy lực Tăng Chúng,

Nên đã được siêu thoát.

Nếu trong đời vị lai,

Tất cả hàng Phật tử,

Muốn hành hạnh hiếu thuận,

Cũng vâng theo cách thức

Đức Thế Tôn đã dạy

Về pháp Vu-lan-bồn,

Độ cha mẹ hiện tại

Đến cha mẹ bảy đời;

Như thế có được không?

 

 *

Đức Thế Tôn dạy rằng:

Thầy hỏi thật đúng lúc,

Chính Như Lai muốn nói,

Mà thầy lại hỏi rồi.

Này Đại Mục Kiền Liên!

Bất luận Phật tử nào:

Dù là các tì kheo,

Hoặc giả tì kheo ni,

Hay quốc vương, vương tử,

Tể tướng và đại thần,

Các quan viên lớn nhỏ,

Cho đến cả muôn dân,

Phải có lòng từ hiếu,

Phải thực hành hiếu hạnh.

Họ phải vì cha mẹ

Hiện tại đến bảy đời,

Vào ngày Rằm tháng Bảy

(Là ngày “Phật hoan hỉ”,

Ngày “Chúng Tăng tự tứ”),

Hãy sắm sửa trai phạn,

Đầy đủ các hương vị,

Đựng trong bồn vu-lan,

Cúng dường mười phương Tăng

Vừa thọ pháp Tự Tứ.

Xin các ngài chú nguyện

Cho cha mẹ hiện tại

Được sống lâu trăm tuổi,

Không các thứ tật bệnh,

Không phiền muộn, khổ đau;

cha mẹ bảy đời

Thoát cảnh khổ ngạ quỉ,

Được sinh trong loài người,

Hoặc lên các cõi trời,

Hưởng phước lạc vô cùng.

 

 *

Đức Thế Tôn dạy tiếp:

Đệ tử của Như Lai

Thực hành hạnh hiếu thuận,

Thì mỗi niệm mỗi niệm

Thường nghĩ nhớ cha mẹ

Hiện tại đến bảy đời.

Rằm tháng Bảy mỗi năm,

Đem tâm thành từ hiếu

Tưởng nhớ đến cha mẹ

Đang còn sống hiện tại

Và bảy đời quá khứ.

Hãy sắm sửa đầy đủ,

Vật thực cùng phẩm vật,

Cúng dường Phật và Tăng,

Báo đáp ơn sinh dưỡng,

Ơn yêu thương đùm bọc

Của hai đấng sinh thành.

Tất cả đệ tử Phật

Phải vâng giữ hành trì

Thắng pháp Vu Lan Bồn

Như Lai dạy trên đây.

 

 *

Bấy giờ ngài Mục Liên

Cùng bốn chúng đệ tử,

Nghe lời dạy của Phật,

Tất cả đều vui mừng,

Nguyện vâng giữ, hành trì.

(*) Hai câu này được dịch từ câu “Thọ bát-hòa-la phạn” trong kinh văn chữ Hán. Trong câu ấy, chữ “thọ” (nhận) và chữ “phạn” (cơm) là hai chữ Hán; còn ba chữ “bát-hòa-la” là dịch âm của chữ Phạn “pravàrana”, có nghĩa là “tự tứ”. Vậy, câu kinh văn chữ Hán “thọ bát-hòa-la phạn” ánHHcó nghĩa là: thọ dụng bữa cơm tự tứ, – ở đây có nghĩa là bữa cơm do đàn việt cúng dường PhậtChúng Tăng trong ngày Tự Tứ (tức bữa cơm trưa ngày Rằm tháng Bảy âm lịch). Trước đây có vị đã dịch cụm từ “bát-hòa-la phạn” là: “bát cơm lục hòa”, e không chính xác.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22262)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16003)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15015)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18930)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14432)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14403)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13567)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13541)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11806)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13225)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13920)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15013)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16439)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11887)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17578)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13691)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12842)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14846)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16370)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12072)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12757)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12881)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12757)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14155)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14095)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16455)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12370)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11294)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11015)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13182)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13147)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12993)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13484)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12714)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13954)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10212)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13689)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16249)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11627)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12654)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10782)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10928)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11873)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12742)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11045)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12605)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11303)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant