Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục

13 Tháng Ba 201400:00(Xem: 26883)
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục

Lý Việt Dũng

canh-duc-truyen-dang-luc


TỰA

 

 Hàn lâm học sĩ, Triều tán đại phu, Hành tả ti gián tri chế cáo và Tu quốc sử, Phán sử quán, Sự trụ quốc Nam Dương quận, Khai quốc Hầu Thực. Ấp nhất thiên bá hộ, Tứ tử Kim ngư đại, Thần Dương Ức soạn.

 Xưa Đức Phật Nhiên Đăng thọ kí Đức Thích Ca Văn sẽ tiếp nối Ngài. Vào hiền kiếp Đức Thích Ca giáng thần giáo hóa bốn mươi chín năm, bày phương tiện quyền thật đốn tiệm, ban lời dạy gồm bán mãn thiên viên tùy theo căn cơ để người học ngộ lí. Do đó có sự sai biệt của ba thừa tiếp vật lợi sanh mà độ chúng tới vô biên, lòng bi cứu độ ấy rộng lớn và phép tắc ấy đầy đủ vậy. Rồi Ngài nhập diệtSong Lâm, chỉ trông cậy đến Ẩm Quang (Ma ha Ca diếp) tiếp nhận tương truyền.

 Bắt đầu từ Đạt Ma chẳng lập văn tựchỉ thẳng nguồn tâm, chẳng bước qua thứ bậc mà lên thẳng Phật địa. Đến khi năm nhà hình thành thì Tông này mới bắt đầu thịnh, mồi thêm nghìn ngọn đèn và càng đông dần. Những người đạt bảo sở khá nhiều, số người chuyển pháp luân chẳng phải có một. Cái ý chỉ Đấng Đại Hùng (Phật) phó chúccon đường để chánh nhãn lưu thông, hành riêng ngoài giáo điển chẳng thể nghĩ bàn.

 Các vua Tống mở vận hội cổ xúy sự linh u của con người. Thái Tổ đem võ công như thần dẹp yên loạn lạc mà chuộng đất Phật mở cửa hóa duyên. Thái Tông anh minh tự biện luận và soạn thuật bí thuyên([1]), thỏa thích đến chơn đế. Hoàng thượng có khiếu văn tài noi chí (cha ông) mà viết lời tựa Thánh Giáo Dịch Tông Phong. (Các vua Tống góp phần) Soi sáng rừng chữ nghĩa cho đến nghĩa thiên([2]), khua tiếng vàng vang đến giác uyển, lời thầm khế với Liên hoa tạng thế giới (làm cho) dòng dõi hàng tôn túc Tây Thiên thịnh lên, những người tài sinh sôi nảy nở càng nhiều, người truyền liễu nghĩa luân phiên ra đời và dòng giáo hóa viên đốn đến tận từng địa phương.

 Ngài Đạo Nguyên là vị tăng ở xứ Đông Ngô. Với tâm thiền duyệt sâu xa, Ngài tầm nghĩa lý ẩn mật trong Không tông vạch ra Tổ đồ tiếp nối. Khi lời và câu của các nhà có sự lẫn lộn với nhau, Ngài chọn lựa ngữ lục của họ mà sắp xếp theo tông phái riêng. Từ bảy Đức Phật cho đến con cháu của Tông Đại Pháp Nhãn có khoảng năm mươi hai đời, gồm 1701 người, tập thành 30 quyển, đặt tên là Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, rồi đến cửa Khuyết dâng lên vua mong được truyền bá. Hoàng thượng là người ngoại hộ cho Phật pháp, khen việc làm cần cù hết lòng thận trọng của con nhà họ Thích và mong sách còn dài lâu. Rồi ban chiếu cho thần là Dương Ức, giữ chức Hàn Lâm Học Sĩ Tả ti Gián tri chế cáo; thần Lý Duy, giữ chức Binh bộ viên ngoại lang Tri chế cáo; và thần Vương Thự, giữ chức Thái thường thừa đồng tham gia sửa chữa xem xétquyết định cho in.

 Chúng thần mù mờ ý chỉ tam học([3])mê muội phương tiện về ngũ tánh([4]), thiếu tài năng phiên dịch của Lâm Xuyên, mờ mịt yếu chỉ lặng thinh của Tỳ-da. Kính vâng nghiêm mệnh chẳng dám ngại khó, trộm mượn chỗ yên tĩnh mà thong thả tìm kiếm khảo cứu ý nghĩa biên soạn của sách. Vì lấy chơn không làm gốc để thuật lại cái nhân nhập đạo của chư thánh đời trước, nêu lời nói khế lý của người xưa nên cơ duyên giao kích cũng như chống đỡ trước mũi tên, như (ngựa) trông bóng roi (biết đường đi) mà trí tạng phát quang ngõ hầu dẫn dắt kẻ hậu học. Mở thông thủ đoạn vào huyền học để người sau nhặt lấy, trưng dẫn chỗ xuất xứ dù nhiều cặn bã khả dĩ tìm ra chất dầu. Nếu có bậc đại sĩ dạy chúng dùng một âm thanh khai diễnhàm linh nghe rợn người điếc tai mới là sự chứng minh cho ngàn thánh. Đúng lúc đó nêu lên với tư chất đó nắm ít phân mà nên việc ấy. Nếu như (chúng thần) tự ý nhuận sắc thêm văn vẻ thì hỏng mất đường về theo ý chỉ đó, đã chẳng phải vì ngôn ngữ khác nhau giữa Hoa Ấn mà hầu như do khắc lầm để ngọc hư đi, hơn nữa việc ghi chép sự thật qua tư liệu ắt sự lầm lẫn vẫn tồn tại. Vì vậy nhờ có bài tựa viết minh bạch.

 Lời nói và hành động vốn xa nhau nhưng không thể không dùng văn tự. Thế nên cần có sự duyên về ngữ lục để làm tiêu chuẩn rõ ràng với từng thứ vết tích, muốn cho văn được nhất quán nên đoạn văn nào lộn xộn hoặc lời dạy thô lỗ đều lược bỏ đi. Đến cư sĩ Nho thần có hỏi đáp thì chức vụ tên họ được chép rõ ràng, tra xét lịch năm nếu có sai khác thì quy theo sách sử mà bỏ đi chỗ sai lầm. Để cho truyện thêm phần xác tín, chẳng phải (chúng thần) tự vạch bày huyền thú vì rất khó như ném hạt cải chạm đầu kim. Đuổi theo cơ nhanh như điện xẹt, khai thị diệu minh chơn tâm, noi theo thâm lý về khổ không thì lấy gì làm khế hợp với sự chỉ dạy (bằng văn tự) trong Truyền Đăng?

 Tốn công khoét thịt gây thương tích, nếu như chỉ tường thuật sự cảm ứng giữa hai bên bằng cách dẫn chứng hay chỉ kể lại về sự tích du phương tham vấn. Đây đã là tiêu chuẩn cho lịch sử về tăng mà đối với việc lý giải về thiền có gì để nắm? Tạm còn để lại danh mục của các thế hệ, chỉ mong chép lại sự truyền thừa tự nhiên mà bản cổ có ghi, hoặc giả bỏ đi cái thô thiển và giữ cái tinh hoa, góp nhặt những cái khác nhau hiện đang còn đủ, phải tìm manh mối trong văn học thiền mà bổ khuyết. Đại kháithêm thắt chọn lựa, do vậy đến khi viết tựa luận này thì sách có phần tăng thêm, có chỗ chẳng phải văn của cổ đức. (Có người đặt) câu hỏi: “Phần ghi thêm bên những môn đồ nối tiếp mạng mạch thiền tông chỉ gây thêm rườm rà (hai chữ “tuyên nhưỡng” lấy từ tập công văn của Trương Yến đời Đường, nghĩa là nhũng trường – rườm rà), cũng nên cắt bớt đi nhiều vị để được đơn giản?”.

 Gần hết năm đó mới duyệt xong thiên cuối. Chúng thần ý thức tự thấy thẹn đối với nội dung khó khăn sâu xa này, tủi hổ vì học vấn sơ sài thiên cơ vốn thiển cận và văn lực còn nghèo. Diệu đạo ở nơi người (chúng thần) tuy vạch tâm mà chờ đợi lời huyền tuyệt tục, mặt nhìn vách mà sống đã lâu, lạm đem ý riêng tư chọn lựa không phát huy hiệu quả. Cuối cùng gỡ xong đầu mối đem kính dâng lên làm sách vở, thật không đáng để bậc đế vương uổng công duyệt lãm.

Kính dâng đức vua.


([1]) Bí thuyên: Dùng phương tiện ngôn ngữ để giảng bày chỗ tuyệt đối sâu kín.

([2]) Nghĩa thiên: Chỉ chư Bồ tát từ Thập Trụ trở lên, vì họ khéo hiểu và giải nghĩa các pháp, thấy tất cả các pháp rỗng không nên gọi là nghĩa thiên.

([3]) Tam học: Ba môn tu học: Giới, định, huệ. Giới, phòng thân khẩu ý tạo ác nghiệp; Định, nhiếp tâm tán loạn trừ tạp niệm; Huệ, trí tuệ hay phát hiện bổn tánh các pháp, trừ phiền não và thấy Phật tánh.

([4]) Ngũ tánh hay ngũ chủng tánh: Tùy theo chủng tử vô lậu đã có của chúng sanh mà chia họ thành năm loại chủng tánh (theo Pháp tướng tông).

 (1) Định tánh thanh văn: Chủng tử vô lậu của họ hợp với quả vị thanh văn;

 (2) Định tánh duyên giác: Chủng tử vô lậu của họ hợp với quả vị duyên giác;

 (3) Định tánh Bồ tát: Chủng tử vô lậu của họ hợp với quả vị Bồ tát, Phật;

 (4) Bất định tánh: Chủng tử vô lậu gồm đủ ba thừa trên, quả vị bất định;

 (5) Vô tánh: Không có chủng tử vô lậu của ba thừa;

Xem cả tác phẩm pdf
Ý kiến bạn đọc
28 Tháng Hai 202001:01
Khách
Hoặc link này
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
https://drive.google.com/file/d/17HkVgyslXNmZjyPIiPVJeoDFHiT4PAxH/view?usp=sharing
nếu vẫn không được thì message qua email của mình john.cao@live.com để mình chia sẻ cho dễ.
28 Tháng Hai 202000:54
Khách
xin lỗi vì lần đầu sharing trên google drive. nếu link trên không được thì thử link này .
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
https://drive.google.com/file/d/17HkVgyslXNmZjyPIiPVJeoDFHiT4PAxH/view?usp=sharing
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10975)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53443)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12873)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15261)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19055)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19813)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15419)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15240)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20183)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23724)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12948)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19848)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13174)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28928)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11602)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18183)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16523)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12691)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13121)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12880)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12898)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13437)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11587)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14141)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17644)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22275)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13344)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14194)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105553)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14499)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19632)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38295)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15418)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34544)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15946)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11265)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15565)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13903)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12742)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13569)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19292)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 13050)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13370)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21475)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17857)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21755)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15968)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18970)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24595)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 13595)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant