Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Luận Đại Thừa Khởi Tín

10 Tháng Tư 201400:00(Xem: 14130)
Luận Đại Thừa Khởi Tín


LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666

Bồ-tát Mã Minh tạo luận
Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch.
Nguyên Hồng Việt dịch

luan_dai_thua_khoi_tin

  Quy mạng khắp 10 phương,
Biết khắp nghiệp tối thắng,
Sắc vô ngại tự tại,
Đấng Đại bi cứu đời.
Phật thân thểtướng,
Pháp tính biển chân như,
Chứa vô lượng công đức.
Người như thật tu hành,
Ví muốn khiến chúng sinh,
Trừ nghi xả tà chấp,
Khởi chính tín Đại thừa,
Giống Phật không tuyệt dứt.
 Luận :
Có pháp có thể phát khởi tín căn Đại thừa nên phải nói pháp ấy.
Nói pháp ấy có 5 phần.
Những gì là 5 ?
1. Phần nhân duyên.
2. Phần lập nghĩa.
3. Phần giải thích.
4. Phần tín tâm tu hành.
5. Phần khuyên tu lợi ích.
Trước tiên nói về phần nhân duyên.
Hỏi : Vì nhân duyên gì tạo luận này ?
Đáp : Vì có 8 nhân duyên.
Những gì là 8 ?
1. Nhân duyên chung là muốn làm cho chúng sinh lìa tất cả khổ được vui cứu cánh chứ không cầu danh lợi và sự tôn kính của thế gian.
2. Vì muốn giải thích nghĩa căn bản của Như Lai để chúng sinh hiểu đúng không sai lầm.
3. Vì muốn làm cho chúng sinhthiện căn thuần thục có thể kham nhận pháp Đại thừa lòng tin không thoái lui.
4. Vì muốn làm cho chúng sinh có ít căn lành tu tập tín tâm.
5. Vì muốn chỉ bày phương tiện tiêu nghiệp chướng ác, khéo giữ tâm mình, xa lìa ngu si kiêu mạn, thoát khỏi lưới tà.
6. Vì muốn chỉ bày tu tập chỉ quán, đối trị lỗi lầm của tâm phàm phuNhị thừa.
7. Vì muốn chỉ bày phương tiện chuyên niệm để sinh nơi trước Phật thì quyết định không thoái tín tâm.
8. Vì muốn chỉ bày lợi ích để khuyên tu hành. Vì các nhân duyên trên nên tạo luận.
Hỏi : Trong kinh đã có đủ các pháp này, sao phải nói lại ?
Đáp : Trong kinh tuy có pháp này nhưng vì chúng sinh căn hạnh không đồng, tiếp nhận khác nhau hiểu khác nhau.
Nghĩa là khi Như Lai còn tại thế, chúng sinh căn cơ linh lợi, người năng thuyếtNhư Lai thì thân tâm siêu việt, khi viên âm diễn nói khác loại đều hiểu nên không phải tạo luận.
Còn sau khi Như Lai diệt độ, có chúng sinh có thể do tự sức mạnh nghe rộng mà hiểu được, có chúng sinh cũng dùng sức mạnh nghe ít mà hiểu nhiều, có chúng sinh không có trí lực phải do luận giải rộng mới hiểu, cũng có chúng sinh lại cho rằng văn luận giải nhiều làm rối rắm, chỉ thích nắm lấy văn luận ít mà bao gồm nhiều nghĩa là có thể hiểu được. Vì vậy nên luận này muốn tóm thâu vô biên nghĩa của pháp rộng lớn sâu xa của Như Lai, đó là lý do phải làm luận này.
Đã nói xong phần nhân duyên, tiếp đến nói về phần lập nghĩa.
Về Đại thừa nói chung có 2 loại.
Những gì là hai ?
Một là pháp. Hai là nghĩa.
Nói pháp, tức là tâm chúng sinh. Tâm đó bao gồm tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Căn cứ nơi tâm này mà hiển thị nghĩa của Đại thừa.
Bởi vì sao ?
tướng chân như của tâm ấy là biểu thị cái thể của Đại thừa. Tướng nhân duyên sinh diệt của tâm ấy có thể biểu thị tướng dụng của tự thể Đại thừa.
Phần nói nghĩa có ba.
Những gì là ba ?
1. Thể lớn. Nghĩa là chân như của tất cả pháp là b.nh đẳng không tăng giảm.
2. Tướng lớn. Nghĩa là Như Lai tạng đầy đủ vô lượng tính công đức.
3. Dụng lớn. Nghĩa là có thể sinh nhân quả thiện của tất cả thế gian xuất thế gian. Tất cả chư Phật vốn đã vận dụng, tất cả Bồ-tát đều vận dụng pháp này mà đạt tới địa vị Như Lai.
Đã nói xong phần lập nghĩa. Tiếp đến nói phần giải thích.
Phần giải thích có ba.
Những gì là ba ?
1. Hiển thị chính nghĩa.
2. Đối trị tà chấp.
3. Phân biệt tướng phát tâm tiến tu chính đạo.
Hiển thị chính nghĩa, nghĩa là nơi một tâm pháp có 2 mặt.
Hai mặt ấy là gì ?
Một là tâm chân như và hai là tâm sinh diệt. Hai mặt ấy mặt nào cũng bao gồm tất cả pháp.
Nghĩa này là thế nào ?
Là 2 mặt này không tách rời nhau. Tâm chân như là cái thể chung bao quát tướng của pháp giới đồng nhất. Nghĩa là tâm tính không sinh không diệt, tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có sai khác, nếu lìa vọng niệm thì không có tất cả các tướng cảnh giới. Do vậy tất cả pháp xưa nay lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không biến đổi khác, không thể phá hoại, chỉ là một tâm nên gọi là chân như. Bởi tất cả lời nói đều là giả danh không thật, chỉ theo vọng niệm, không thể thủ đắc.
Nói chân như, cũng không có tướng.
Nghĩa là cái tột cùng của ngôn ngữ là nhân lời nói mà phá bỏ lời nói. Còn cái thể chân như này thì không gì có thể phá bỏ. Bởi tất cả các pháp đều chân, không gì có thể thành lập. Bởi tất cả các pháp đều là như, phải biết tất cả pháp là không thể nói, không thể nghĩ. Do đó gọi là chân như.
Hỏi : Nếu có nghĩa như vậy th. các chúng sinh làm sao tùy thuậnngộ nhập được ?
Đáp : Nếu biết tất cả các pháp tuy nói ra mà thực sự không ai có khả năng nói, không gì có thể nói, tuy nghĩ mà không ai có khả năng nghĩ, không gì có thể nghĩ. Đó gọi là tùy thuận.
Nếu lìa tâm niệm thì gọi là ngộ nhập.
Lại nữa, chân như này theo lời nóiphân biệt thì có 2 nghĩa.
Thế nào là hai ?
1. Là như thật không, vì có thể bày tỏ một cách rốt ráo đúng như thật.
2. Là như thật bất không, vì nó có tự thể đầy đủ công đức của tính vô lậu.
Gọi là không, vì bản lai không tương ưng với tất cả pháp nhiễm. Nghĩa là rời tướng sai biệt của tất cả pháp, do không có tâm niệm hư vọng. Phải biết tự tính chân như không có tướng có, không có tướng không, không có tướng khôngkhông không, không có tướng cũng có cũng không, không có tướng một, không có tướng khác, không có tướng không một không khác, không có tướng cũng một cũng khác. Nói tóm lại do tất cả chúng sinhvọng tâm, mỗi niệm mỗi niệm phân biệt, tất cả đều không tương ưng ; vậy nên nói là không.
Nếu rời lìa vọng tâm, thì không có gì có thể gọi là không.
Gọi là bất không, vì khi đã rõ thể tính của các pháp là không, không có hư vọng, thì đó là chân tâm thường hằng không thay đổi, đầy đủ các pháp thanh tịnh nên gọi là bất không. Bất không đó cũng không có tướng có thể thủ đắc, bởi cảnh giới ly niệm chỉ có thật chứng mới tương ưng mà thôi.
Tâm sinh diệt là do Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt. Nghĩa là bất sinh bất diệt hòa hợp với sinh diệt, không một không khác, gọi đó là thức A-lê-da. Thức này có 2 nghĩa, có thể gồm thâu tất cả các pháp và phát sinh tất cả các pháp.
Thế nào là hai ?
1. Là nghĩa của giác.
2. Là nghĩa của bất giác.
Nói nghĩa của giác, là nói cái thể của tâm lìa niệm. Cái tướng lìa niệm đó bằng với hư không, không chỗ nào không cùng khắp. Pháp giới một tướng tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai. Căn cứ pháp thân này mà nói thì gọi là bản giác. Bởi vì sao ? Vì nghĩa của bản giác là đối lại với nghĩa của thủy giác mà nói. Mà thủy giác thì đồng với bản giác.
Nghĩa của thủy giác là do bản giác mà có bất giác. Do bất giác nên nói có thủy giác. Lại do giác ngộ tột cùng nguồn tâm nên gọi là cứu cánh giác. Do không giác ngộ tột cùng nguồn tâm nên gọi là phi cứu cánh giác.
Nghĩa đó thế nào ?
Như người phàm phu giác biết niệm trước là ác, nên ngăn được niệm sau không cho khởi.
Tuy cũng gọi giác, nhưng vẫn là bất giác.
Như quán trí của Nhị thừa và các Bồ-tát mới phát tâm, giác ngộ nơi tướng niệm khác, tướng niệm không khác. Do xả bỏ tướng thô phân biệt chấp trước nên gọi là tương tự giác.
Như Pháp thân Bồ-tát v.v… giác ngộ nơi tướng niệm trụ, tướng niệm không trụ. Do lìa bỏ tướng thô phân biệt nên gọi là tùy phần giác.
Như các Bồ-tát bậc cùng tột, đầy đủ phương tiện, một niệm tương ưng, giác tâm mới khởi. Nhưng tâm không có tướng ban đầu bởi xa lìa động niệm vi tế, nên thấy được tâm tính, tâm liền thường trụ, nên gọi là cứu cánh giác.
Cho nên kinh nói : Nếu có chúng sinh có thể quán vô niệm, tức là hướng về Phật trí.
Lại nữa có thể biết tâm khởi không có tướng ban đầu. Mà nói biết tướng ban đầu, tức là nói vô niệm. Cho nên tất cả chúng sinh không gọi là giác, bởi từ bản lai, niệm niệm nối nhau, chưa từng lìa niệm bao giờ, nên gọi là vô thủy vô minh. Nếu được vô niệm thì biết được tướng sinh, trụ, dị, diệt của tâm, bởi vô niệmbình đẳng. Mà thật sự cũng không có thủy giác nào khác, bởi vì 4 tướng đều đồng thời hiện hữu và không độc lập, bởi bản lai bình đẳng, đồng một tính giác.
Lại nữa, bản giác theo nhiễm phân biệt, mà sinh 2 tướng, và cùng với bản giác không tách rời nhau.
Hai tướng ấy là gì ?
1. Là tướng thanh tịnh của trí.
2. Là tướng không thể nghĩ bàn của nghiệp.
Tướng thanh tịnh của trí là theo sức huân tập của chính pháp, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện nên phá được tướng hòa hợp của thức, diệt được tướng tương tục của tâm, hiển hiện pháp thân, trí hoàn toàn thanh tịnh.
Nghĩa đó thế nào ?
Nghĩa là bởi tất cả tướng của tâm thức đều là vô minh. Tướng vô minh lại không tách rời tính giác, không thể hủy hoại, cũng không phải không thể hủy hoại.
Như nước biển lớn, do gió làm động sóng.
Tướng nước và tướng gió không tách rời nhau, nhưng nước không có tính động. Nếu gió ngừng thì tướng động liền diệt, còn tính ướt thì không mất.
Tự tính thanh tịnh tâm của chúng sinh cũng vậy, do gió vô minh làm động. Tâm và vô minh đều không hình tướng, không tách rời nhau, nhưng tâm không có tính động. Nếu vô minh diệt thì sự tương tục diệt, còn tính trí thì không mất.
Tướng không thể nghĩ bàn của nghiệp là y nơi tướng thanh tịnh của trí có thể tạo ra tất cả cảnh giới thắng diệu. Nghĩa là cái tướng vô lượng công đức, thường không tuyệt dứt, tùy theo căn chúng sinh, tự nhiên khế hợp mà hiện nhiều lợi ích.
Lại nữa, thể tướng của bản giác có 4 nghĩa lớn sánh bằng hư không, như mặt gương trong sạch.
Thế nào là bốn ?
1. Là mặt gương của Như thật không.
Nghĩa là xa lìa tất cả tướng của tâm và cảnh giới. Không pháp nào có thể hiện, vì chẳng phải nghĩa của giác chiếu.
2. Là mặt gương của Nhân huân tập.
Nghĩa là Như thật bất không. Tất cả cảnh giới thế gian đều hiện ra trong gương, mà không có gì ở trong ra không có gì ở ngoài vào, không mất không hư, một tâm thường trú, bởi tất cả các pháp là tính chân thật. Lại nữa, bởi tất cả pháp nhiễm không thể nhiễm, thể của trí không lay động, đầy đủ vô lậuhuân tập cho chúng sinh.
3. Là mặt gương của Pháp xuất ly. Nghĩa là pháp bất không, vượt ra ngoài chướng phiền não, chướng sở tri, rời bỏ tướng hòa hợp của thức chỉ thuần trong sáng thanh tịnh.
4. Là mặt gương của Duyên huân tập.
Nghĩa là y nơi mặt gương của Pháp xuất ly, soi khắp tâm chúng sinh, khiến tu thiện căn và tùy theo niệm mà thị hiện.
Nói nghĩa của bất giác, nghĩa là do không biết như thật rằng pháp chân như là một, nên tâm bất giác khởi lên mà có niệm. Cái niệm không có tự tướng, không rời bản giác. Cũng như người mê vì chấp phương hướng nên mới có mê, nếu rời phương hướng thì không có mê.
Chúng sinh cũng vậy, dựa vào giác nên có mê, nếu rời tính giác thì không có bất giác. Do có cái tâm vọng tưởng bất giác biết được danh nghĩa, nên vì đó mà nói chân giác. Nếu rời tâm bất giác thì không thể nói có tự tướng chân giác.
Lại nữa, do bất giác nên sinh 3 tướng. Ba tướng đó kết hợp không rời với bất giác kia.
Ba tướng đó là gì ?
1. Là tướng của nghiệp vô minh. Do bất giác nên tâm động, gọi là nghiệp. Giác thì chẳng động, động thì có khổ, vì quả không rời nhân.
2. Là tướng năng kiến. Do tâm động nên có năng kiến, không động thì không có kiến.
3. Là tướng cảnh giới. Do năng kiến nên cảnh giới giả dối hiện ra, lìa kiến thì không có cảnh giới.
Do có duyên cảnh giới nên lại sinh ra 6 tướng.
Sáu tướng là gì ?
1. Là tướng trí. Do cảnh giới, tâm khởi phân biệt ưa thích và không ưa thích.
2. Là tướng liên tục. Do tướng trí nên sinh cảm giác khổ vui. Cảm giác khởi niệm, liên tục không gián đoạn.
3. Là tướng chấp thủ. Do cảnh giới duyên niệm của tướng liên tục duy trì những sự khổ vui mà tâm sinh chấp trước.
4. Là tướng chấp danh tự. Do vọng chấpphân biệt tướng danh ngôn giả dối.
5. Là tướng khởi nghiệp. Do danh ngôn, chấp trước theo danh ngôn mà gây các nghiệp.
6. Là tướng nghiệp buộc khổ. Nghĩa là do nghiệp mà chịu quả báo, không được tự tại.
Phải biết vô minh có thể sinh ra tất cả pháp nhiễm, bởi tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác.
Lại nữa, giác với bất giác có 2 tướng.
Hai tướng là gì ?
1. Là tướng đồng.
2. Là tướng khác.
Nói tướng đồng là như các thứ đồ gốm, đều đồng là tướng của bụi đất. Cũng vậy, các nghiệp huyễn của vô lậu, vô minh đều đồng là tướng của tính chân như.
Cho nên trong kinh theo nghĩa của chân như đó mà nói tất cả chúng sinh bản lai thường trụ nhập pháp Niết-bàn Bồ-đề, không phải là tướng tu được, không phải là tướng tạo tác được. Hoàn toàn không có gì được cả, cũng không có sắc tướng có thể thấy. Nhưng có thấy sắc tướng là chỉ do nghiệp nhiễm giả tạo ra, chứ không phải tính bất không của trí sắc, bởi tướng của trí không thể thấy được.
Nói tướng khác là như các thứ đồ gốm, mỗi thứ mỗi thứ không giống nhau. Cũng vậy vô lậuvô minh tùy theo nhiễm huyễn khác nhau mà tính nhiễm huyễn khác nhau.
Lại nữa, nhân duyên sinh diệt, nghĩa là chúng sinh do tâm, ., . thức chuyển.
Nghĩa đó thế nào ?
Do thức A-lê-da mà nói có vô minh bất giác khởi lên. Thấy được, hiện được, chấp thủ cảnh giới, khởi niệm liên tục nên gọi là .. . đó lại có 5 tên gọi.
Năm tên gọi là gì ?
1. Tên là nghiệp thức. Nghĩa là do sức vô minh bất giác tâm động.
2. Tên là chuyển thức. Nghĩa là do tâm động mà có tướng năng kiến.
3. Tên là hiện thức. Nghĩa là có thể hiện ra tất cả cảnh giới. Ví như gương sáng hiện ra các hình ảnh. Hiện thức cũng vậy, tùy theo đối cảnh 5 trần đến th. liền hiện, không có trước sau, bởi trong tất cả thời đều tự động khởi lên, như thường hiện tiền vậy.
4. Tên là trí thức. Nghĩa là phân biệt các pháp nhiễm tịnh.
5. Tên là tương tục thức. Do niệm niệm tương ứng nhau không gián đoạn, duy trì các nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ không cho mất, lại có thể thành tựu quả báo khổ vui hiện tạivị lai không sai trái, và có thể làm cho những gì đã trải qua, hiện giờ bỗng nhiên nhớ lại, và bất chợt vọng nghĩ đến những việc chưa xảy ra trong tương lai.
Cho nên 3 cái là giả dối, chỉ do tâm tạo ra.
Lìa tâm khôngcảnh giới 6 trần.
Nghĩa đó là thế nào ?
Là vì tất cả các pháp đều do tâm khởi vọng niệm sinh ra, nên tất cả sự phân biệtphân biệt tự tâm. Song tâm không thấy tâm, tâm không có tướng gì có thể thấy.
Phải biết tất cả cảnh giới thế gian đều do vọng tâm vô minh của chúng sinhtồn tại.
Cho nên tất cả pháp như bóng trong gương, không có tự thể có thể nắm bắt được. Đó chỉ là hư vọng nơi tâm, do tâm sinh th. các pháp sinh, tâm diệt th. các pháp diệt.
Lại nữa, nói ý thức, tức là nói cái tương tục thức này. Bởi các phàm phu, chấp trước sâu nặng, chấp ngã, ngã sở và các vọng chấp theo sự mà vin cái nọ bắt cái kia, phân biệt 6 trần, nên gọi là ý thức, cũng gọi là phân ly thức, cũng gọi là phân biệt sự thức. Thức này là do nghĩa kiến ái phiền não tăng trưởng.
Do huân tập của vô minh mà khởi ra thức, nghĩa đó không phải phàm phu biết được, cũng không phải trí tuệ Nhị thừa hiểu được. Phải Bồ-tát từ bắt đầu được chính tín phát tâm quán sát, nếu chứng được pháp thân thì biết được phần ít, nhưng cho đến cứu kính địa của Bồ-tát cũng không biết hết được, duy có Phật mới biết rõ cùng tột.
Bởi vì sao ? Vì tâm ấy tự tính bản lai thanh tịnh mà có vô minh, bị vô minh nhiễm mà có nhiễm tâm, tuy có nhiễm tâm mà thường không biến đổi. Cho nên nghĩa này duy có Phật mới biết được.
Nghĩa đó là tâm tính thường không có niệm nên gọi là bất biến. Bởi không thấu suốt là một pháp giới nên tâm không tương ứng mà bỗng nhiên niệm khởi lên nên gọi là vô minh.
Nhiễm tâm có 6 thứ.
Sáu thứ là những gì ?
1. Là chấp tương ưng nhiễm. Theo giải thoát của Nhị thừa và bậc tín tương ưng thì được xa lìa.
2. Là bất đoạn tương ưng nhiễm. Do bậc tín tương ưng, tu học phương tiện, rời bỏ dần dần, khi đến bậc tịnh tâm thì rời bỏ rốt ráo.
3. Là phân biệt trí tương ưng nhiễm. Do bậc cụ giới rời bỏ dần dần, đến bậc vô tướng phương tiện thì rời bỏ rốt ráo.
4. Là hiện sắc bất tương ưng nhiễm. Do sắc tự tại thì rời bỏ được.
5. Là năng kiến tâm bất tương ưng nhiễm.
Do bậc tâm tự tại thì rời bỏ được.
6. Là căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm.
Do tột cùng bậc Bồ-tát được vào bậc Như Lai thì rời bỏ được.
Về nghĩa không rõ là một pháp giới thì từ bậc tín tương ưng, quán sát tu học mà đoạn, vào bậc tịnh tâm thì rời bỏ từng phần, đến bậc Như Lai mới rốt ráo rời bỏ hết.
Nói nghĩa của tương ưng, nghĩa là tâm niệm pháp khác nhau. Nhưng do nhiễm tịnh sai khác mà tướng biết tướng duyên đồng nhau.
Nói nghĩa của bất tương ưng, tức là tâm bất giác mà thường không khác biệt, vì tướng biết tướng duyên không đồng nhau.
Lại nữa, nghĩa của nhiễm tâm, gọi là phiền não ngại vì có thể chướng ngại chân như căn bản trí. Nghĩa của vô minh, gọi là trí ngại, vì có thể chướng ngại thế gian tự nhiên nghiệp trí.
Nghĩa này là thế nào ?
Nghĩa là do nhiễm tâm mà thấy, mà hiện, mà vọng chấp cảnh giới, trái với tính bình đẳng.
Bởi tất cả pháp thường vắng lặng, không có tướng sinh khởi. Nhưng vô minh bất giác, giả dối trái với pháp nên không thể được cái trí tùy thuận rõ biết tất cả cảnh giới thế gian.
Lại nữa, có 2 thứ tướng phân biệt sinh diệt.
Hai thứ tướng là những gì ?
1. Là thô, tương ưng với tâm.
2. Là tế, không tương ưng với tâm.
Lại nữa, cái thô trong thô là cảnh giới phàm phu. Cái tế trong thô và cái thô trong tế là cảnh giới Bồ-tát. Cái tế trong tế là cảnh giới Phật.
Hai thứ sinh diệt này vô minh huân tập mà có. Đó là do nhân và do duyên. Do nhân là nghĩa của bất giác. Do duyên là nghĩa của cảnh giới giả tạo. Nếu nhân diệt thì duyên diệt. Nhân diệt thì tâm bất tương ưng diệt. Duyên diệt thì tâm tương ưng diệt.
Hỏi : Nếu tâm diệt thì sao lại tương tục ?
Nếu tương tục thì làm sao nói rốt ráo diệt ?
Đáp : Nói diệt là chỉ cái tướng của tâm diệt, chứ không phải cái thể của tâm diệt. Như gió nương nơi nước mà có tướng động. Nếu nước diệt thì tướng gió dứt mất, không chỗ nương. Bởi nước không diệt nên tướng gió tương tục. Chỉ gió diệt nên tướng động theo đó mà diệt, chứ không phải nước diệt.
Vô minh cũng vậy, nương nơi thể của tâm mà động. Nếu thể của tâm mà diệt thì chúng sinh tuyệt mất không chỗ nương. Bởi cái thể không diệt nên tâm được tương tục. Chỉ cái si mê diệt nên tướng của tâm diệt theo, chứ không phải tâm trí diệt.
Lại nữa, vì có nghĩa của 4 pháp huân tập nên pháp nhiễm pháp tịnh không ngớt khởi lên.
Bốn pháp là những gì ?
1. Là pháp tịnh gọi là chân như.
2. Là tất cả nhân của nhiễm, gọi là vô minh.
3. Là vọng tâm, gọi là nghiệp thức.
4. Là cảnh giới vọng, tức 6 trần.
Nghĩa huân tập là giống như y phục vốn không có mùi thơm, nhưng nếu người ta dùng hương thơm xông ướp thì có mùi thơm.
Nghĩa của huân tập này cũng như vậy.
Pháp tịnh chân như, thật sự không có nhiễm, chỉ vì vô minh huân tập nên có tướng nhiễm.
Pháp nhiễm vô minh thật sự không có nghiệp tịnh, nhưng dùng chân như huân tập thì có dụng tịnh.
Thế nào là huân tập khởi pháp nhiễm không dứt ?
Nghĩa là do pháp chân như nên có vô minh, do có vô minh là cái nhân của pháp nhiễm nên liền huân tập chân như. Do sự huân tập ấy nên có vọng tâm. Do có vọng tâm nên liền huân tập vô minh và do đó không r. pháp chân như nên niệm bất giác khởi hiện ra cảnh giới vọng. Do có cái duyên của pháp nhiễm cảnh giới vọng nên liền huân tập vọng tâm, khiến cho khởi niệm chấp trước tạo các thứ nghiệp, chịu tất cả các thứ khổ nơi thân tâm.
Huân tập của cảnh giới vọng có 2 nghĩa.
Hai nghĩa ấy như thế nào ?
1. Là huân tập tăng trưởng các niệm.
2. Là huân tập tăng trưởng sự chấp thủ.
Huân tập của vọng tâm có 2 nghĩa.
Hai nghĩa ấy như thế nào ?
1. Là huân tập căn bản nghiệp thức, phải chịu cái khổ sinh diệt của các A la hán, Bích-chi-phật và tất cả Bồ-tát.
2. Là huân tập tăng trưởng phân biệt sự thức, phải chịu nghiệp hệ khổ của phàm phu.
Huân tập của vô minh có 2 nghĩa.
Hai nghĩa. ấy như thế nào ?
1. Là huân tập căn bản, do có thể thành tựu nghĩa của nghiệp thức.
2. Là huân tập khởi kiến ái, do có thể thành tựu nghĩa của phân biệt sự thức.
Thế nào là huân tập khởi ra pháp tịnh không dứt ?
Nghĩa là do có pháp chân như nên huân tập được vô minh. Do sức nhân duyên huân tập ấy nên khiến vọng tâm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Do nhân duyên chán khổ cầu vui của vọng tâm ấy nên liền huân tập chân như, tự tin tính mình, biết tâm vọng động, chứ không có cảnh giới tiền trần, và tu pháp viễn ly. Do như thật biết không có cảnh giới tiền trần nên dùng nhiều phương tiện khởi tùy thuận tu hành, không chấp thủ, không nghĩ nhớ, cho đến nhờ sức huân tập lâu ngày mà vô minh diệt. Do vô minh diệt nên tâm không khởi lên nữa. Do tâm không khởi lên nên cảnh giới theo đó mà diệt.
Do nhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều hết sạch, gọi là được Niết-bàn, thành tựu nghiệp tự nhiên.
Huân tập của vọng tâm có 2 nghĩa.
Hai nghĩa ấy như thế nào ?
1. Là huân tập của phân biệt sự thức.
Nghĩa là do phàm phuNhị thừa chán cái khổ sinh tử nên tùy khả nănglần hồi tiến đến đạo vô thượng.
2. Là huân tập của ý. Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm dũng mãnh, mau chóng đến Niết-bàn.
Huân tập của chân như có 2 nghĩa.
Hai nghĩa ấy như thế nào ?
1. Là huân tập của tướng tự thể.
2. Là huân tập của dụng.
Huân tập của tướng tự thể là từ vô thủy đến nay đầy đủ các pháp vô lậu.
Huân tập của dụng là sẵn đủ cái tính tạo ra cảnh giới của nghiệp không thể nghĩ bàn. Do sự huân tập thường xuyên của 2 nghĩa ấy và do có sức huân tập đó, nên có thể khiến chúng sinh chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, tự tin thân mình có pháp chân như mà phát tâm tu hành.
Hỏi : Nếu có nghĩa như vậy thì tất cả chúng sinh đều được chân như huân tập một cách bình đẳng, sao lại có người tin, người không tin, có vô số chuyện trước sau khác nhau ? Lẽ ra tất cả đều phải đồng thời tự biết có pháp chân như, siêng năng tu phương tiệnbình đẳng nhập Niết-bàn chứ ?
Đáp : Chân như vốn là một, nhưng có vô lượng vô biên vô minh bản lai tự tính khác nhau, dày mỏng không đồng. Lại có những đẳng thượng phiền não khác nhau, dựa vào vô minh mà khởi lên hơn cả số cát sông Hằng. Lại có những phiền não ngã kiến ái nhiễm khác nhau, dựa vào vô minh mà khởi lên. Tất cả những phiền não dựa vào vô minh mà khởi lên, có trước có sau khác nhau vô lượng như thế, chỉ Như Lai mới biết được.
Lại nữa, pháp của chư Phật có nhân, có duyên. Nhân duyên đầy đủ mới thành tựu. Như tính lửa trong cây là nguyên nhân chính của lửa.
Nhưng nếu không ai biết, không nhờ phương tiện thì cái cây không thể tự đốt được.
Chúng sinh cũng vậy, tuy có sức huân tập của chính nhân, nhưng nếu không gặp chư Phật Bồ-tát và thiện tri thức v.v… để làm cái duyên, mà tự đoạn được phiền não, vào được Niết-bàn là không có chuyện đó.
Nếu tuy có sức ngoại duyên mà pháp tịnh bên trong chưa có sức huân tập, thì cũng không thể hoàn toàn chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn.
Nếu nhân duyên đầy đủ, nghĩa là tự mình có sức huân tập, lại được nguyện từ bi của chư
Phật Bồ-tát hộ trợ, thì có thể khởi tâm chán khổ, tin có Niết-bàn và tu tập thiện căn. Do tu tập thiện căn thành tựu nên khi gặp chư Phật Bồ-tát chỉ dạy đường tu lợi lạc, mới có thể tu tiến hướng về đạo Niết-bàn.
Huân tập của dụng tức là cái sức ngoại duyên đối với chúng sinh. Ngoại duyên như vậy có vô lượng nghĩa. Lược nói có 2 thứ.
Hai thứ là những gì ?
1. Là duyên sai biệt.
2. Là duyên bình đẳng.
Duyên sai biệt, là người đó nương nơi chư Phật Bồ-tát v.v… từ khi mới phát ý cầu đạo cho đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian đó hoặc được trông thấy, hoặc nghĩ nhớ đến, hoặc được chư Phật Bồ-tát hiện làm quyến thuộc cha mẹ bà con, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn quen biết, hoặc làm oan gia, hoặc khởi 4 nhiếp pháp, cho đến làm tất cả vô lượng các duyên để phát khởi sức Đại bi huân tập, có thể khiến chúng sinh đó tăng trưởng thiện căn, hoặc thấy, hoặc nghe, đều được lợi ích.
Duyên đó có 2 thứ.
Hai thứ đó là những gì ?
1. Là duyên gần, vì mau được độ.
2. Là duyên xa, vì lâu mới được độ.
Hai duyên xa và gần đó, phân tích ra lại có 2 thứ.
Hai thứ đó là những gì ?
1. Là duyên tăng trưởng các hành.
2. Là duyên tiếp thụ chính pháp.
Duyên bình đẳng, là tất cả chư Phật Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên thường xuyên huân tập không rời bỏ, dùng cái sức trí đồng thể, tùy theo chúng sinh thấy nghe như thế nào mà hiện các tác nghiệp. Nghĩa là chúng sinh nương nơi Tam-muội mới được bình đẳng thấy chư Phật.
Phân biệt các thể dụng của huân tập ấy lại có 2 thứ.
Hai thứ ấy là những gì ?
1. Là chưa tương ưng. Nghĩa là các phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát mới phát tâm v.v… dùng ., . thức mà huân tập, dựa vào sức tin mà tu hành, chưa được tâm vô phân biệt tương ưng với thể của chân như, chưa được nghiệp tự tại tu hành tương ưng với dụng của chân như.
2. Là đã tương ưng. Nghĩa là các vị pháp thân Bồ-tát đã được tâm vô phân biệt tương ưng với trí và dụng của chư Phật, thì chỉ nương nơi pháp lực, tự nhiên tu hành, huân tập chân như mà diệt vô minh.
Lại nữa, pháp nhiễm từ vô thủy đến nay không ngớt huân tập, cho đến sau khi thành Phật mới dứt. Pháp tịnh huân tập thì tột đời vị lai không bao giờ dứt.
Nghĩa đó như thế nào ?
Nghĩa là do pháp chân như thường huân tập nên vọng tâm liền diệt, pháp thân hiển hiện, khởi huân tập của dụng nên không dứt.
Lại nữa, về tướng tự thể của chân như thì nơi tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát và chư Phật, đều không thêm bớt, không phải thời trước sinh, không phải thời sau diệt, rốt ráo thường hằng ; từ xưa đến này tính tự viên mãn, đầy đủ tất cả công đức. Nghĩa là tự thể có nghĩa đại trí tuệ quang minh, có nghĩa soi khắp pháp giới, có nghĩa nhận biết chân thật, có nghĩa tự tính thanh tịnh tâm, có nghĩa thường lạc ngã tịnh, có nghĩa tự tại trong lành không biến đổi, có nghĩa đầy đủ Phật pháp, không lìa, không đoạn, không khác, không thể nghĩ bàn như thể quá hơn số cát sông Hằng, cho đến đầy đủ tất cả, không thiếu sót một nghĩa nào, nên gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là Như Lai pháp thân.
Hỏi : Trên đây nói cái thể của chân như bình đẳng, lìa tất cả tướng. Sao nay lại nói cái thể ấy có nhiều thứ công đức ?
Đáp : Tuy thật có các công đức ấy mà không có tướng khác nhau, bình đẳng đồng một mùi vị là chỉ có một chân như.
Nghĩa đó như thế nào ?
Do không phân biệt, lìa các tướng phân biệt nên không có hai.
Lại do nghĩa gì có thể nói là sai biệt ?
Do dựa vào tướng sinh diệt của nghiệp thứcbiểu thị.
Biểu thị như thế nào ?
Bởi tất cả pháp bản lai là duy tâm, thật không có gì để khởi niệm, nhưng do có vọng tâm nên bất giác khởi niệm thấy các cảnh giới nên gọi là vô minh.
Tâm tính không khởi, tức là nghĩa của ánh sáng đại trí tuệ. Nếu tâm khởi cái thấy thì liền có tướng không thấy. Tâm tính lìa được cái thấy, tức soi khắp pháp giới.
Nếu tâm có động thì không nhận biết chân thật, không có tự tính, không phải thường, không phải lạc, không phải ngã, không phải tịnh, mà đối lại là nóng bức, rầu rĩ, suy đồibiến đổi, không tự tại, cho đến đủ các vọng nhiễm còn hơn số cát sông Hằng.
Tâm tính không động thì có các tướng tịnh công đức hiện ra còn hơn số cát sông Hằng.
Nếu tâm có khởi lên, lại thấy có pháp tiền cảnh có thể suy niệm th. có chỗ thiếu. Như vậy các pháp tịnh, có vô lượng công đức tức là nhất tâm, không có suy niệm, cho nên đầy đủ, được gọi là pháp thân tàng chứa Như Lai.
Lại nữa, cái dụng của chân như, nghĩa là chư Phật Như Lai, trong khi ở địa vị tu nhân phát Đại từ bi, tu các pháp Ba-la-mật, nhiếp hóa chúng sinh, lập thệ nguyện lớn muốn độ thoát hết tất cả chúng sinh, không hạn kiếp số, tận cùng vị lai, vì lấy tất cả chúng sinh làm thân mình, mà cũng không chấp thủ tướng chúng sinh.
Đó là vì nghĩa gì ?
Vì biết như thật tất cả chúng sinh với thân mình đều đồng một chân như bình đẳng, không sai khác. Do có trí đại phương tiện như vậy, trừ diệt vô minh, thấy pháp thân bản lai, tự nhiên mà có các dụng của nghiệp không thể nghĩ bàn, tức cùng với chân như bình đẳng cùng khắp mọi nơi.
Lại nữa, cũng không có cái tướng dụng có thể có được. Bởi vì sao ? Vì chư Phật Như Lai chỉ là pháp thân, là thân của trí tướng. Đệ nhất nghĩa đế không có cảnh giới của thế đế, lìa các thi vi tạo tác, chỉ tùy theo chúng sinh thấy nghe mà được lợi ích nên gọi là dụng.
Dụng của chân như có 2 thứ.
Hai thứ là những thứ gì ?
1. Là do nơi phân biệt sự thức, là chỗ mà tâm phàm phuNhị thừa thấy được, gọi là ứng thân. Vì họ không biết do chuyển thức hiện ra, thấy từ ngoài đến, chấp lấy những phần loại của sắc tướng nên không biết hết được.
2. Là do nơi nghiệp thức, nghĩa là chỗ thấy của tâm các Bồ-tát, từ khi mới phát tâm cho đến địa vị rốt ráo, gọi là báo thân. Thân ấy có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hình hảo, chỗ ở y báo cũng có vô lượng trang nghiêm, theo sự thị hiện, không có biên giới, không có cùng tột, rời tướng phần loại, theo chỗ sở ứng, thường được duy trì không hư không mất. Các công đức như vậy đều nhân sự huân tập của các hạnh vô lậu Ba-la-mật v.v… và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà thành tựu đầy đủ vô lượng tướng vui nên gọi là báo thân.
Lại nữa, phàm phu thấy thân Phật là thấy cái sắc thô, tùy theo 6 đường chúng sinh thấy khác nhau, có nhiều thứ dị loại, không phải là tướng thụ lạc nên gọi là ứng thân.
Lại nữa, các Bồ-tát mới phát tâm thấy được thân Phật là do tin sâu pháp chân như nên thấy được phần ít, biết các sắc tướng trang nghiêm kia không đến không đi, lìa các phần loại, chỉ do tâm hiện, không rời chân như.
Nhưng các Bồ-tát đó còn tự phân biệt mạnh với Phật khác nhau do chưa hội nhập địa vị pháp thân. Nếu được tịnh tâm thì chỗ thấy vi diệu, cái dụng chuyển thành thù thắng, cho đến tột cùng địa vị Bồ-tát thì thấy được rốt ráo. Nếu rời nghiệp thức thì không có kiến tướng, bởi pháp thân chư Phật không có sắc tướng, đây kia cùng thấy nhau.
Hỏi : Nếu pháp thân chư Phật lìa các sắc tướng, thì sao lại hiện được sắc tướng ?
Đáp : Tức là pháp thân đó là cái thể của sắc tướng nên hiện được sắc tướng. Nghĩa là sắc và tâm bản lai không hai. Bởi cái tính của sắc tức là trí, nên sắc thể không h.nh gọi là trí thân. Bởi cái tính của trí tức là sắc, nên gọi là pháp thân cùng khắp tất cả mọi nơi. Các sắc hiện ra không có giới hạn, tùy tâm có thể thị hiện 10 phương thế giới, vô lượng Bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi khác nhau, nhưng đều không giới hạn, không ngăn ngại nhau. Điều đó không phải tâm thức phân biệt có thể biết được, vì đó là nghĩa tự tại dụng của chân như.
Tiếp theo là làm rõ ý nghĩa thế nào là từ sinh diệt môn nhập vào chân như môn.
Nghĩa là suy tìm sắc và tâm nơi thân 5 ấm.
Cảnh giới 6 trần đều rốt ráo không có niệm, mà tâm thì không có hình tướng, cho nên tìm cầu khắp 10 phương, cũng không thể có được.
Như người mê lầm bảo phương Đông là phương Tây, nhưng thật sự phương hướng không chuyển đổi.
Chúng sinh cũng vậy, do vô minh mê lầm bảo tâm là niệm, nhưng thật sự tâm thì không động. Nếu có khả năng quán sát biết tâm không khởi niệm thì liền được tùy thuận vào chân như môn.
Đối trị tà chấp, là tất cả tà chấp đều do kiến chấp về ngã. Nếu lìa bỏ ngã thì không có tà chấp.
Kiến chấp về ngã này có 2 thứ.
Hai thứ là những thứ gì ?
1. Là kiến chấp về nhân ngã.
2. Là kiến chấp về pháp ngã.
Kiến chấp về nhân ngã, theo tâm phàm phu, có 5 thứ.
Năm thứ là những gì ?
1. Là nghe kinh nói : Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng, giống như hư không. Do không biết nói vậy là để phá chấp liền cho rằng hư không là tính của Như Lai. Làm sao đối trị ?
Phải hiểu rõ ý tướng hư khôngpháp giả dối, thể rỗng không thật, do đối lại với sắc mà có cái tướng có thể thấy, khiến tâm sinh diệt.
Do tất cả các pháp bản lai là tâm, thật không có ngoại sắc và nếu không có ngoại sắc thì cũng không có tướng hư không.
Nghĩa là tất cả cảnh giới đều duy tâm vọng khởi nên có. Nếu tâm lìa vọng động thì tất cả cảnh giới diệt, chỉ có một chân tâm, không chỗ nào không cùng khắp. Đó gọi là nghĩa cứu cánh của tính trí rộng lớn của Như Lai, chứ không phải như tướng hư không.
2. Là nghe kinh nói : Cái thể của các pháp thế gian rốt ráo là rỗng không, cho đến các pháp chân như Niết-bàn cũng rốt ráo là rỗng không, bản lai tự là rỗng không, lìa tất cả tướng.
Do không biết nói vây là để phá chấp, liền cho rằng cái tính của chân như Niết-bàn chỉ là rỗng không.
Làm sao đối trị ?
Phải hiểu rõ pháp thân chân như tự thể chẳng phải rỗng không, mà đầy đủ vô lượng tính công đức.
3. Là nghe kinh nói : Như Lai tạng không có thêm bớt, tự thể đầy đủ tất cả các pháp công đức. Do không hiểu thấu, liền cho rằng Như Lai tạng có các sắc pháptâm pháptự tướng khác nhau.
Làm sao đối trị ?
Phải hiểu rõ là dựa theo nghĩa chân như mà nói như vậy và do nghĩa pháp nhiễm sinh diệt mà nói là khác nhau.
4. Là nghe kinh nói : Tất cả pháp nhiễm sinh tử thế gian đều do Như Lai tạng mà có, tất cả các pháp không lìa chân như. Do không hiểu thấu nên cho rằng tự thể Như Lai tạng có đủ tất cả các pháp sinh tử thế gian.
Làm sao đối trị ?
Phải hiểu cái nghĩa Như Lai tạng bản lai chỉ có các công đức thanh tịnh, còn hơn cả số cát sông Hằng, không l.a, không dứt, không khác chân như. Bởi các pháp nhiễm phiền não hơn cả số cát sông Hằng chỉ là giả có, tính vốn tự rỗng không, bản lai chưa hề tương ưng với Như Lai tạng. Nếu Như Lai tạng tự thể có các pháp giả dối mà khi chứng ngộ lại vĩnh viễn dứt được vọng là không có chuyện đó..
5. Là nghe kinh nói : Do Như Lai tạng mà có sinh tử, do Như Lai tạng mà được Niết-bàn.
Do không hiểu thấu nên lại cho rằng chúng sinh có bắt đầu. Do chấp có cái bắt đầu nên lại cho rằng Niết-bàn Như Lai chứng được, cũng có cái cuối cùng phải hết và Như Lai sẽ trở lại làm chúng sinh.
Làm sao đối trị ?
Phải hiểu rằng Như Lai tạng không có cái thời trước Như Lai tạng, và cái tướng vô minh cũng không có cái bắt đầu. Nếu nói ngoài 3 cõi, còn có chúng sinh bắt đầu phát khởi, tức là nói theo ngoại đạo.
Lại nữa, Như Lai tạng cũng không có cái thời sau Như Lai tạng, nên Niết-bàn mà chư Phật đã chứng tương ưng với Như Lai tạng, cũng không có thời sau.
Kiến chấp về pháp ngã, là do Nhị thừa độn căn nên Như Lai vì họ chỉ nói nhân vô ngã. Do nói không rốt ráo nên họ thấy có pháp 5 ấm sinh diệtsợ hãi sinh tử, vọng chấp lấy Niết-bàn.
Làm sao đối trị ?
Phải hiểu pháp ngũ ấm tự tính không sinh nên không có diệt, bản lai là Niết-bàn.
Lại nữa, rốt ráo lìa vọng chấp là phải biết pháp nhiễm pháp tịnh đều đối đãi nhau, không thể nói có tự tướng. Cho nên tất cả pháp xưa nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, không thể nói rốt ráo cái tướng của các pháp được. Vậy mà có nói ra thì phải biết đó là phương tiện khéo léo của Như Lai, mượn lời nói để dắt dẫn chúng sinh. Nhưng chỉ thú đều là lìa niệm, qui về chân như. Vì đã khởi niệm các pháp là khiến tâm sinh diệt, không vào được thật trí.
Phân biệt tướng phát tâm tu hành hướng về Phật đạo, nghĩa là tất cả các Bồ-tát đều phát tâm tu hành hướng về cái đạo mà tất cả chư Phật đã chứng.
Nói sơ lược, phát tâm có 3 thứ.
Ba thứ là những gì ?
1. Là thành tựu chính tínphát tâm.
2. Là giải hành phát tâm.
3. Là chứng phát tâm.
Thành tựu chính tínphát tâm, là theo hạng người nào, tu hạnh gì thì thành tựu được chính tín và có thể phát tâm. Nghĩa là với chúng sinh trong bất định tụ có sức thiện căn huân tập, tin nghiệp báo, có thể khởi thập thiện, chán khổ sinh tử, mong cầu vô thượng Bồ-đề, được gặp chư Phật, đích thân phụng sự cúng dường, tu hành tín tâm trải qua một vạn kiếp tín tâm thành tựu nên được chư Phật Bồ-tát dạy cho phát tâm, hoặc do Đại bi mà tự phát tâm, hoặc nhân chính pháp sắp diệt, do nhân duyên hộ pháp mà tự phát tâm.
Những người thành tựu chính tínphát tâm như vậy sẽ vào chính định tụ, quyết không thoái lui. Đó được gọi là ở trong d.ng giống Như Lai, tương ứng với chính nhân.
Nếu có chúng sinh thiện căn ít ỏi, từ lâu xa đến nay phiền não sâu dày, tuy được gặp Phật, cũng được cúng dường, nhưng chỉ phát khởi hạt giống nhân thiên, hoặc hạt giống Nhị thừa, và dẫu có cầu pháp Đại thừa thì căn cũng bất định, khi tiến khi thoái.
Hoặc có người cúng dường chư Phật chưa trải qua một vạn kiếp, trong đó gặp duyên cũng có phát tâm, nghĩa là hoặc thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm, hoặc nhân cúng dường chúng Tăngphát tâm, hoặc nhân người Nhị thừa dạy bảo khiến phát tâm, hoặc học theo người khác mà phát tâm. Những người phát tâm như vậy đều là bất định, gặp nhân duyên xấu, có thể thoái lui rơi vào địa vị Nhị thừa.
Lại nữa, thành tựu chính tínphát tâm là phát những tâm gì ?
Nói sơ lược có 3 thứ.
Ba thứ là những gì ?
1. Là tâm ngay thẳng, tức chính niệm pháp chân như.
2. Là tâm sâu xa, tức ưa gom góp tất cả các hạnh lành.
3. Là tâm Đại bi, tức muốn cứu vớt khổ cho tất cả chúng sinh.
Hỏi : Ở trên đã nói pháp giới là một tướng, thể của Phật không hai, sao không chỉ cần niệm chân như mà còn nhờ đến cầu học các hạnh lành ?
Đáp : Ví như ngọc báu Đại Ma-ni, thể tính trong sáng mà có quặng bẩn. Nếu ai chỉ nghĩ tính quí báu mà không dùng phương tiện mài dũa thì không bao giờ được viên ngọc trong suốt.
Pháp thể chân như của chúng sinh cũng vậy, trong sạch mà có vô lượng phiền não nhiễm bẩn. Nếu ai chỉ nghĩ chân như mà không dùng nhiều phương tiện tu tập thì cũng không được sự trong sạch. Do có vô lượng sự nhiễm bẩn cùng khắp tất cả pháp, nên cần tu tất cả hạnh lành để đối trị. Nếu ai tu hành tất cả pháp lành thì tự nhiên quy thuận pháp chân như.
Về phương tiện, nói sơ lược có 4 thứ.
Bốn thứ là những gì?
1. Là phương tiện thực hành căn bản.
Nghĩa là quán tất cả pháp là tự tính không sinh, lìa nơi vọng kiến, không trụ sinh tử, quán tất cả pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất. Từ đó khởi lòng Đại bi, tu các phúc đức nhiếp hóa chúng sinh, không trụ Niết-bàn, bởi thuận theo pháp tính nên không trụ.
2. Là phương tiện ngăn chận. Nghĩa là biết xấu hổ hối lỗi thì có thể ngăn chận tất cả pháp ác, không cho tăng trưởng, bởi thuận theo pháp tính nên lìa các lỗi lầm.
3. Là phương tiện làm phát khởităng trưởng căn lành. Nghĩa là ân cần cúng dường lễ bái Tam bảo, tán thán, tùy hỷ, khuyến thỉnh chư Phật. Do tâm thuần hậu yêu kính Tam bảo nên tín tâm được tăng trưởng và có khả năng quyết chí cầu đạo Vô thượng. Lại nhân được sức hộ trì của Phật Pháp Tăng nên tiêu nghiệp chướng, căn lành không thoái lui, do thuận theo pháp tính mà lìa các si chướng.
4. Là phương tiện Đại nguyện bình đẳng.
Nghĩa là phát nguyện hóa độ tất cả chúng sinh đến tột cùng đời vị lai, không bỏ sótrốt ráo khiến được vô dư Niết-bàn, do thuận theo pháp tính nên không tuyệt dứt.
Pháp tính rộng lớn, cùng khắp tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai, không phân biệt đây kia, rốt ráo tịch diệt. Bồ-tát phát tâm này thì thấy được một phần ít pháp thân. Do thấy được pháp thân nên theo nguyện lực, có thể hiện ra 8 tướng làm lợi ích chúng sinh. Đó là tướng từ cõi trời Đâu-suất xuống, vào thai, ở trong thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, vào Niết-bàn.
Nhưng vị Bồ-tát đó chưa gọi là pháp thân, do các nghiệp hữu lậu, từ vô lượng đời quá khứ đến nay, chưa dứt hẳn và theo chỗ sinh, còn tương ứng với một ít khổ, là do có sức tự tại của Đại nguyện chứ không phải do nghiệp ràng buộc.
Như trong kinh nói có khi thoái lui sa vào nẻo ác, nhưng không phải thật có thoái lui. Chỉ vì các sơ học Bồ-tát chưa vào địa vị chính định tụ mà giải đải nên nói như vậy để làm cho e sợ và khiến dũng m.nh tinh tiến.
Lại Bồ-tát đó, một khi đã phát tâm rồi, thì không còn khiếp nhược, tuyệt đối không sợ sa vào hàng Nhị thừa. Dầu nghe phải tu hành siêng năng khó nhọc trong vô lượng vô biên kiếp A-tăng-kỳ mới được Niết-bàn cũng không khiếp sợ, do đó tin biết tất cả pháp bản lai là tự tính Niết-bàn.
Giải hành phát tâm là phải biết chuyển thắng. Bởi Bồ-tát này từ khi bắt đầu được chính tín đến nay, khi kiếp A-tăng-kỳ thứ nhất sắp đầy đủ, thì đối với pháp chân như, sự nhận hiểu sâu sắc đã hiện tiền và chỗ tu tập đều đã lìa tướng.
Do biết thể của pháp tính là không xan tham nên tùy thuận tu hành Đàn Ba-la-mật. Do biết pháp tính là không nhiễm, lìa lỗi 5 dục nên tùy thuận tu hành Thi Ba-la-mật. Do biết pháp tính là không khổ, lìa các giận hờn sầu não nên tùy thuận tu hành Sằng-đề Ba-la-mật. Do biết pháp tính không có tướng thân tâm, lìa giải đải nên tùy thuận tu hành Tì-lê-da Ba-la-mật. Do biết pháp tính thường định, thể không loạn động nên tùy thuận tu hành Thiền Ba-la-mật. Do biết thể của pháp tính sáng suốt, lìa vô minh, nên tùy thuận tu hành Bát-nh. Ba-la-mật.
Chứng phát tâm là các Bồ-tát, từ tịnh tâm địa cho đến cứu kính địa, chứng cảnh giới gì ?
Đó là chân như. Do dựa vào chuyển thức mà gọi là cảnh giới, chứ chỗ chứng ở đây không có cảnh giới, chỉ có cái trí chân như gọi là pháp thân mà thôi. Bồ-tát này, trong khoảng một niệm, có thể đến khắp 10 phương vô lượng thế giới cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân, chỉ để khai thị dắt dẫn làm lợi ích cho chúng sinh, chứ không dựa vào văn tự.
Hoặc vì các chúng sinh khiếp nhược mà thị hiện vượt bậc, chóng thành chính giác. Hoặc vì các chúng sinh biếng nhác trễ nãi, mà nói ta sẽ thành tựu Phật đạo sau vô lượng kiếp A-tăng-kỳ.
Các vị lại có thể thị hiện vô số phương tiện không thể nghĩ bàn như vậy, nhưng thật sự thì các Bồ-tát, chủng tính và căn đều bình đẳng, phát tâm cũng bình đẳng, chỗ chứng cũng bình đẳng, không có pháp vượt bậc, bởi vì tất cả Bồ-tát đều trải qua 3 kiếp A-tăng-kỳ. Chỉ vì tùy theo chúng sinh trong thế gian không đồng, chỗ thấy chỗ nghe, căn cơ dục vọng khác nhau nên Bồ-tát thị hiện ra làm cũng khác nhau.
Lại nữa, tướng phát tâm của các Bồ-tát này có 3 tướng tâm vi tế.
Ba tướng tâm vi tế là những gì ?
1. Là chân tâm, tức tâm không phân biệt.
2. Là phương tiện tâm, tức tâm tự nhiên làm lợi ích cho khắp chúng sinh.
3. Là nghiệp thức tâm, là tâm còn những khởi diệt vi tế.
Lại nữa, Bồ-tát này khi công đức thành tựu viên mãn, ở cõi trời Sắc cứu cánh, thị hiện thân cao lớn nhất trong tất cả thế gian.
Nghĩa là do một niệm tương ưng với tuệ thì vô minh liền hết, gọi là Nhất thiết chủng trí, tự nhiên có nghiệp không thể nghĩ bàn, có thể hiện khắp 10 phương làm lợi ích chúng sinh.
Hỏi : Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên.
Chúng sinh vô biên nên tâm thức hành vi sai khác cũng vô biên. Những cảnh giới như vậy thật không giới hạn, khó biết khó hiểu, nếu đoạn vô minh, không còn tâm tưởng, thì làm sao rõ được mà gọi là Nhất thiết chủng trí ?
Đáp : Tất cả cảnh giới bản lai là một tâm, lìa các tưởng niệm. Do chúng sinh vọng thấy cảnh giới, nên tâm có giới hạn. Do vọng khởi ra tưởng niệm, không xứng hợp với pháp tính, nên không thể rõ biết. Chư Phật Như Lai lìa thấy, lìa tưởng, không đâu không cùng khắp. Tâm chân thật tức là tính của các pháp. Tự thể của tâm soi tỏ tất cả vọng pháp, có cái dụng lớn của trí và vô lượng phương tiện, tùy theo chúng sinh thế nào mới hiểu được, thì đều có thể khai thị các thứ pháp nghĩa. Cho nên được gọi là Nhất thiết chủng trí.
Hỏi : Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên, hiện ra được ở tất cả mọi nơi làm lợi ích chúng sinh, và tất cả chúng sinh nếu được thấy thân Phật, được xem thần thông biến hóa của Phật, hoặc được nghe Phật dạy thì không ai không được lợi ích, vậy sao thế gian phần nhiều không thấy được Phật ?
Đáp : Pháp thân chư Phật Như Lai bình đẳng cùng khắp tất cả mọi nơi, không có tác ý nên gọi là tự nhiên, chỉ do tâm chúng sinhthị hiện. Tâm chúng sinh như gương soi, nếu gương bẩn thì hình sắc không hiện được. Tâm chúng sinh cũng vậy, nếu nhiễm bẩn thì pháp thân không hiện.
Đến đây đã nói xong phần giải thích.
Tiếp theo nói đến phần tín tâm tu hành.
Trong đó dựa vào chúng sinh chưa nhập chính định tụ mà nói tín tâm tu hành.
Tín tâm là những gì và tu hành như thế nào ?
Nói sơ lược, có 4 thứ tín tâm.
Bốn tín tâm là những gì ?
1. Là tin căn bản, nghĩa là thích nghĩ nhớ pháp chân như.
2. Là tin Phật có vô lượng công đức, thường nghĩ việc gần gũi cúng dàng cung kính, để phát khởi căn lành, mong cầu Nhất thiết trí.
3. Là tin Pháp có lợi ích lớn, thường nghĩ tu hành các pháp Ba-la-mật.
4. Là tin Tăng chân chính tu hành được pháp tự lợi lợi tha, thường thích gần gũi các chúng Bồ-tát, cầu học các hạnh như thật.
Có 5 môn tu hành có thể thành tựu tín tâm này.
Năm môn là những gì ?
1. Là bố thí. 2. Là trì giới. 3. Là nhẫn nhục. 4. Là tinh tiến. 5. Là chỉ quán.
Tu pháp môn bố thí như thế nào ?
Là nếu có ai đến cầu xin, thì tùy sứcbố thí tài vật m.nh có để bỏ tính xan tham của mình và làm cho người kia vui vẻ. Nếu thấy ai ách nạn, bị khủng bố, áp bức nguy khốn, thì tùy khả năng của mình, làm cho người kia không còn sợ hãi. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, thì tùy khả năng hiểu biết của mình, phương tiện nói cho họ, không nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ đến tự lợi lợi tha, hồi hướng đạo Bồ-đề.
Tu pháp môn trì giới như thế nào ?
Là không giết hại, không trộm cắp, không dâm dục, không nói đâm thọc, không lời ác độc, không nói dối, không nói lời thêu dệt, xa lìa tham lam, ganh ghét, lừa dối, dua nịnh, giận dữ, tà kiến.
Nếu là người xuất gia thì còn vì để bẻ gãy phiền não mà phải rời xa nơi ồn ào, thường ở nơi vắng lặng, tu tập các hạnh như Đầu-đà, thiểu dục tri túc. Dù mắc tội nhỏ, cũng sinh tâm e sợ, xấu hổ hối cải. Không được xem nhẹ cấm giới Như Lai đã chế, thường giữ gìn để tránh cơ hiềm, không làm cho chúng sinh vọng khởi tội lỗi.
Tu pháp môn nhẫn nhục như thế nào ?
Là nên nhẫn nhịn trước sự quấy rối của người khác, không ôm lòng báo oán và cũng phải chịu được trước những điều lợi, hại, chê, khen, tâng bốc, chế giễu, khổ, vui v.v...
Tu pháp môn tinh tiến như thế nào ?
Là đối với các việc thiện, tâm không lười biếng thoái thoát, lập chí kiên cường, xa lìa khiếp nhược. Phải nghĩ từ quá khứ xa xưa đến nay, luống chịu tất cả nỗi khổ lớn nơi thân tâm mà chẳng được ích lợi gì. Cho nên cần phải siêng năng tu các công đức tự lợi lợi tha để chóng thoát các khổ.
Lại nữa, nếu có người, tuy tu hành tín tâm, nhưng do từ đời trước có những nghiệp chướng, tội ác nặng nề, hoặc bị tà ma quỉ quái quấy phá, hoặc bị nhiều công việc thế gian ràng buộc, hoặc bị bệnh tật làm cho đau đớn, tóm lại có nhiều chướng ngại như vậy thì phải dũng mãnh siêng năng, ngày đêm 6 buổi lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng Bồ-đề, thường xuyên không nghỉ, không bỏ để được khỏi các chướng và tăng trưởng căn lành.
Tu pháp môn chỉ quán như thế nào ?
Chỉ, nghĩa là chấm dứt tất cả các tướng cảnh giới, thuận theo nghĩa quán của Xa-ma-tha.
Quán, nghĩa là phân biệt tướng nhân duyên sinh diệt, thuận theo nghĩa quán của Tỳ-bát-xá-na.
Thuận theo như thế nào ?
Là dùng 2 nghĩa ấy, tu tập dần dần, không rời bỏ nhau để cả 2 đều song song hiện tiền.
Nếu tu pháp chỉ thì ở chỗ tĩnh lặng, ngồi ngay ngắn, giữ chính ý, không dựa vào hơi thở, không dựa vào hình sắc, không dựa vào không, không dựa vào địa, thủy, hỏa, phong, cho đến không dựa vào sự thấy nghe hay biết, theo niệm mà trừ hết tất cả các tưởng đồng thời cũng loại bỏ ý tưởng đoạn trừ. Vì tất cả các pháp xưa nay không có tướng, niệm niệm không sinh, niệm niệm không diệt. Cũng không được tùy tâm mà nghĩ đến cảnh giới bên ngoài. Rồi sau dùng tâm mà trừ tâm.
Nếu tâm bôn tẩu tán loạn, thì phải thu giữ lại, trụ nơi chính niệm. Phải biết chính niệm đó là chỉ có tâm, không có cảnh giới bên ngoài.
Lại nữa, ngay nơi cái tâm đó cũng không có tự tướng, niệm niệm không thể nhận được.
Nếu từ chỗ ngồi đứng dậy, đi lại lui tới, hoặc làm việc gì, thì trong tất cả thời thường nhớ đến phương tiện thuận theoquán sát. Tập lâu thuần thục thì tâm được an trụ ; do tâm an trụ nên dần dần mạnh mẽ sắc bén, thuận theo đó được nhập vào chân như Tam-muội, dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng, chóng thành bất thoái. Chỉ trừ những hạng người nghi hoặc, không tín, phỉ báng, ng. mạn, lười biếng, hoặc bị những nghiệp chướng tội nặng, thì không thể nhập chân như Tam-muội được.
Lại nữa, do chân như Tam-muội đó mà biết pháp giới là một tướng. Nghĩa là pháp thân tất cả chư Phật cùng với thân chúng sinhbình đẳng không hai. Đó gọi là Nhất hành Tam-muội.
Phải biết chân nhưcăn bản của Tam-muội, cho nên nếu ai tu pháp chân như Tam-muội thì dần dần sinh được vô lượng Tam-muội.
chúng sinh không có sức mạnh của căn lành, bị các tà ma ngoại đạo, quỉ thần, mê hoặc làm rối loạn. Như trong lúc ngồi thiền, chúng hiện hình làm cho sợ hãi, hoặc hiện các tướng nam nữ xinh đẹp, thì nên niệm cảnh giới duy tâm để diệt trừ, cuối cùng không khuấy phá được. Hoặc chúng hiện hình dạng chư thiên, hình dạng Bồ-tát hoặc cả h.nh dạng Như Lai, tướng tốt đầy đủ. Hoặc chúng nói thần chú, nói bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Hoặc chúng nói bình đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, không oán, không thân, không nhân không quả, nói rốt ráo rỗng không vắng lặngchân thật Niết-bàn. Hoặc chúng làm cho người ta biết những việc quá khứ đời trước cùng những việc vị lai, được tha tâm thông, được biện tài vô ngại có thể khiến cho chúng sinh tham trước những việc danh lợi thế gian. Hoặc chúng làm cho người ta khi giận khi vui, tính tình bất thường, làm cho có nhiều lòng từ ái, ngủ nhiều, bệnh nhiều ; hoặc làm cho cái tâm biếng nhác bỗng dưng khởi tinh tiến, rồi sau lại phế bỏ, sinh tâm nghi nhiều, lo nhiều, không tin. Hoặc chúng làm cho bỏ pháp tu hành thù thắng trước đây mà tu các tạp nghiệp, hay là mắc vào nhiều thứ ràng buộc về thế sự. Chúng cũng có thể làm cho được các Tam-muội phần nào giống như chân thật Tam-muội, nhưng đều là Tam-muội của ngoại đạo, chứ không phải chân thật Tam-muội. Hoặc chúng cũng làm cho người ta trong 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày cho đến 7 ngày ở trong định, tự nhiên được những thức ăn uống thơm ngon, trong tâm vui thích, không đói không khát, khiến người ưa đắm. Hoặc chúng cũng làm cho người ta ăn không chừng mực, khi nhiều khi ít, nhan sắc biến đổi.
Vì có những sự thể trên đây, người tu hành thường phải dùng trí tuệ quán sát, chớ để tâmmình mắc vào lưới tà, phải siêng tu chính niệm, không chấp trước mới có thể lìa xa các nghiệp chướng đó.
Phải biết các thứ Tam-muội mà ngoại đạo có, đều không tách rời lòng kiến ái ngữ mạn, do còn tham đắm những danh lợi cung kính của thế gian.
Chân như Tam-muội thì không bám trụ cái thấy, không bám trụ chỗ sở đắc. Cho đến khi xuất định cũng không biếng lười, ngã mạn, cho nên các phiền não, đã có từ trước, dần dần giảm bớt.
Nếu các phàm phu không tu tập pháp Tam-muội này mà vào được chủng tính Như Lai, là chuyện không thể có. Bởi tu các thiền định Tam-muội thế gian, phần nhiều khởi say đắm, lại do ngã kiến, hệ thuộc vào 3 cõi, chung cùng với ngoại đạo, cho nên nếu rời sự hộ trìcủa thiện tri thức thì sẽ khởi lên những kiến chấp ngoại đạo.
Lại nữa, người siêng năng chuyên tâm tu tập Tam-muội này, hiện tại sẽ được 10 thứ lợi ích.
Mười lợi ích là những gì ?
1. Được chư Phật Bồ-tát 10 phương hộ niệm.
2. Không bị các tà ma ác quỉ khủng bố.
3. Không bị 95 thứ quỉ thần ngoại đạo mê hoặc, phá rối.
4. Xa lìa sự phỉ báng chính pháp rất sâu, nghiệp chướng tội nặng dần dần giảm bớt.
5. Diệt tất cả nghi hoặc và các ý nghĩ xấu ác.
6. Tăng trưởng lòng tin đối với cảnh giới Như Lai.
7. Xa lìa mọi lo buồn khổ não, ở trong sinh tử, dũng mãnh không khiếp sợ.
8. Tâm nhu hòa, lìa bỏ lòng kiêu mạn, không bị kẻ khác quấy rối.
9. Tuy chưa được định, song trong tất cả thời, tất cả cảnh giới, có thể giảm bớt phiền não, không ưa thích thế gian.
10. Nếu được Tam-muội thì không bị tất cả các thứ âm thanh bên ngoài làm kinh động.
Lại nữa, nếu người tu hành chỉ tu pháp chỉ, thì tâm chìm lặng, hoặc sinh lười biếng, không thích các điều thiện, xa lìa Đại bi, nên cần phải tu quán.
Người tu tập pháp quán phải quán tất cả các pháp hữu vi thế gian là không thể dừng trụ, biến đổi hư hoại trong giây lát, quán tất cả tâm hành đều niệm niệm sinh diệt, do đó nên khổ.
Phải quán tất cả các pháp quá khứ, có thể nhớ được, đều mơ màng như chiêm bao. Phải quán tất cả các pháp hiện tại, có thể nghĩ được, đều như ánh sáng điện chớp. Phải quán tất cả các pháp vị lai, có thể suy được, đều như mây bỗng nhiên nổi lên. Phải quán tất cả các thân thế gian đều bất tịnh, có nhiều thứ nhơ nhớp, không một cái gì đáng ưa thích.
Như vậy rồi phải nghĩ tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay đều do vô minh huân tập, làm cho tâm sinh diệt, mà đã phải chịu những khổ lớn nơi thân tâm. Hiện tạivô lượng bức báchvị lai cái khổ cũng không biết đến chừng nào.
Chúng sinh như vậy khó rời khó bỏ cái khổ mà không biết, rất đáng thương thay.
Suy nghĩ như vậy thì phải dũng mãnh ngay, lập thệ nguyện lớn, nguyện cho tâm mình, dolìa phân biệt, mà tu hành tất cả các công đức lành cùng khắp 10 phương, đến tột cùng đời vị lai, dùng vô lượng phương tiện cứu vớt tất cả chúng sinh khổ não, khiến được cái vui Đệ nhất nghĩa của Niết-bàn.
Do phát nguyện như vậy nên trong mọi thời, mọi nơi, có những điều thiện gì, thì tùy khả năng mình mà tu học không bỏ, tâm không biếng nhác. Chỉ trừ lúc tọa thiền thì chuyên tupháp chỉ, còn trong tất cả các thời khác, đều phải quán sát việc nên làm, việc không nên làm, lúc đi, lúc đứng, lúc nằm, lúc dậy, đều nên song song tu tập chỉ quán.
Nghĩa là tuy nghĩ các pháp tự tính không sinh, nhưng lại nghĩ ngay nhân duyên hòa hợp thì quả báo khổ vui của các nghiệp lành dữ không hư không mất. Tuy nghĩ đến nhân duyên nghiệp báo lành dữ nhưng cũng nghĩ ngay tự tính của nó là bất khả đắc.
Nếu tu pháp chỉ thì đối trị được việc phàm phu chấp trước thế gian và có thể xả bỏ được kiến chấp khiếp nhược của Nhị thừa.
Nếu tu pháp quán thì đối trị được cái lỗi hẹp hòi của Nhị thừa không khởi Đại bi, và xa lìa được việc phàm phu không tu căn lành.
Do các nghĩa đó nên hai pháp chỉ quán giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau. Nếu không đủ cả chỉ quán thì không vào được đạo Bồ-đề.
Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này, muốn cầu chính tín mà tâm khiếp nhược, vì sợ ở trong thế giới Ta-bà này không thường được gặp chư Phật để đích thân phụng sự cúng dường, nên tín tâm khó thành tựu, ý muốn thoái lui, thì nên biết rằng Như Laiphương tiện thù thắng nhiếp hộ trì tín tâm.
Nghĩa là nhờ nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, mà tùy nguyện được sinh vào cõi Phậtphương khác, thường được thấy Phật, hằng lìa ác đạo.
Như kinh nói : Nếu ai chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, hồi hướng căn lành đã tu để cầu nguyện sinh về thế giới ấy, thì liền được vọng sinh và nhờ được thấy Phật nên không thoái lui.
Nếu quán được pháp thân chân như của đức Phật kia và thường siêng năng tu tập, cuối cùng sẽ được vọng sinh vì đã trụ nơi chính định.
Đã nói xong phần tu hành tín tâm.
Tiếp đến nói về phần lợi ích để khuyên tu.
Như vậy pháp Đại thừa là kho tàng sâu kín của chư Phật, tôi đã tổng quát nói xong. Nếu có chúng sinh muốn sinh được chính tín và không phỉ báng cảnh giới rất sâu của Như Lai để vào con đường Đại thừa, th. nên giữ lấy Luận này, suy nghĩ tu tập cuối cùng có thể đến được đạo vô thượng.
Nếu ai nghe pháp này rồi, không sinh lòng khiếp nhược, thì phải biết người đó quyết định sẽ nối dòng giống Phật, chắc chắn được chư Phật thụ ký.
Giả sử có người giáo hóa chúng sinh đầy khắp 3 ngàn Đại thiên thế giới, khiến tu hành Thập thiện, cũng không bằng người trong khoảng thời gian một bữa ăn, chân chính suy nghĩ pháp này. Công đức người sau hơn công đức người trước rất nhiều, không thể lấy gì ví dụ được.
Lại nữa, nếu có người giữ Luận này, quán sát tu hành, dầu chỉ trong một ngày một đêm, công đức người ấy vô lượng vô biên, không thể nói xiết. Dầu cho tất cả chư Phật 10 phương, mỗi mỗi đều khen ngợi công đức ấy trong vô lượng vô biên kiếp A-tăng-kỳ cũng không hết được. Bởi vì sao ? Vì công đức của pháp tính không hết, nên công đức người ấy cũng như vậy, là không có bờ bến.
Nếu có chúng sinh, đối với Luận này, chê bai không tin thì tội báo phải chịu khổ não lớn trong vô lượng kiếp.
Cho nên chúng sinh chỉ nên tín ngưỡng, không nên phỉ báng, đã rất hại mình còn hại người khác, làm tuyệt dứt tất cả hạt giống Tam bảo, bởi tất cả Như Lai đều do pháp này mà được Niết-bàn, tất cả Bồ-tát đều nhân tu hành pháp này mà vào được trí tuệ của Phật.
Phải biết các Bồ-tát quá khứ đã do pháp này mà thành tựu được tín tâm thanh tịnh, các Bồ-tát hiện tại nay do pháp này mà thành tựu được tín tâm thanh tịnh, các Bồ-tát vị lai cũng sẽ do pháp này mà thành tựu được tín tâm thanh tịnh. Cho nên chúng sinh phải siêng năng tu học.
Chư Phật rất sâu nghĩa rộng lớn,
Nay đã từng phần nói tổng quát.
Hồi hướng công đức như pháp tính,
Làm lợi ích tất cả chúng sinh./
.

Luận Đại Thừa Khởi Tín 

* * * * *


No. 1667
Luận Đại Thừa Khởi Tín
(Quyển Thượng)

Bồ-tát Mã Minh tạo luận
Tam tạng Thật-xoa-nan-đà dịch,
Nguyên Hồng Việt dịch

  Kính lễ 10 phương Phật
Khắp làm lợi ích lớn,
Trí vô ngại tự tại,
Đấng cứu hộ thế gian.
Và biển thể tướng kia,
Là pháp nghĩa vô ngã.
Thánh tăng đức vô biên,
Bậc cần cầu chính giác.
Vì muốn khiến chúng sinh
Trừ nghi bỏ tà chấp,
Khởi tin nối giống Phật,
Nên con làm luận này.
 Luận :
Vì muốn phát khởi lòng tin thanh tịnh vào Đại thừa, dứt các nghi ám tà chấp của chúng sinh, làm cho dòng giống Phật liên tục không dứt nên tạo luận này.
Có pháp có thể phát sinh tín căn Đại thừa cho nên phải thuyết minh pháp đó.
Thuyết minh được chia làm 5 phần :
1. Tác nhân.
2. Lập nghĩa.
3. Giải thích.
4. Tu tín.
5. Lợi ích.
Trong đây phần tác nhân có 8 :
1. Tướng chung là làm cho chúng sinh lìa khổ được vui, chứ không vì tham cầu lợi dưỡng.
2. Làm rõ thật nghĩa căn bản của Như Lai khiến các chúng sinh hiểu đúng.
3. Làm cho chúng sinh thiện căn thành thục không thoái tín tâm đủ sức đảm nhiệm pháp Đại thừa.
4. Làm cho chúng sinh có ít thiện căn phát khởi tín tâm không thoái lui.
5. Làm cho chúng sinh tiêu trừ nghiệp chướng, điều phục tâm mình thoát khỏi 3 độc.
6. Làm cho chúng sinh tu tập đúng pháp chỉ quán, đối trị lỗi lầm của tâm phàm phu Tiểu thừa.
7. Làm cho chúng sinh tư duy như là của pháp Đại thừa, được sinh trước mặt Phật, quyết không thoái lui lòng tin Đại thừa.
8. Làm rõ lợi ích của sự tin ưa Đại thừa, khuyên loài hàm thức quy hướng.
Nghĩa các câu trên đây tuy trong các kinh Đại thừa đều có đủ, nhưng do căn cơ giáo hóaý muốn không đồng, nhân duyên để hiểu có khác, vì vậy mà tạo luận.
Thế là thế nào ?
Nghĩa là khi Như Lai tại thế chúng sinh được giáo hóa thì căn cơ linh lợi, Phật thì sắc tâm thù thắng, một lời Phật nói ra có vô biên ý nghĩa nên không phải luận.
Sau khi Phật Niết-bàn có người có thể dùng tự lực xem kinh ít mà hiểu nghĩa nhiều, có người phải đem sức mình xem rộng các kinh mới hiểu, có người không có trí lực nhờ người khác luận rộng ra mới hiểu được, cũng có người tự m.nh không có trí lực sợ nói rộng nghe nhiều, chỉ muốn luận tóm lược mà bao gồm nghĩa rộng lớn để chính mình tu hành. Tôi nay vì hạng người sau cùng, sơ lược tóm thâu vô biên nghĩa rất sâu thù thắng nhất của Như Lai mà tạo luận này.
Thế nào là phần lập nghĩa ?
Đại thừa sơ lược có 2 thứ : Hữu pháp và pháp.
Nói hữu pháp, là tâm của tất cả chúng sinh.
Tâm này tóm thâu tất cả pháp thế gianxuất thế gian. Do tâm đây mà hiển thị nghĩa của Đại thừa. Bởi vì tướng chân như của tâm này là chỉ cho cái thể của Đại thừa. Cho nên tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này có thể hiển thị thể tướng dụng của Đại thừa.
Nói pháp thì sơ lược có 3 thứ :
1. Thể đại, nghĩa là chân như của tất cả pháp dù ở trong nhiễm hay ở trong tịnh, tính vẫn thường bình đẳng, không thêm bớt sai khác.
2. Tướng đại, nghĩa là Như Lai tạng vốn đầy đủ vô lượng vô biên tính công đức.
3. Dụng đại, nghĩa là có thể sinh tất cả nhân quả thiện thế gianxuất thế gian. Cho nên tất cả chư Phật vốn vận dụng pháp này, tất cả Bồ-tát đều do pháp này mà vào địa vị Phật.
Thế nào là phân giải thích ?
Đây có 3 thứ : hiển thị thật nghĩa, đối trị tà chấp, và phân biệt tướng tu hành chính đạo.
Trong đây, hiển thị thật nghĩa, tức là do nơi một tâm mà có 2 môn. Đó là tâm chân như môntâm sinh diệt môn.
Hai môn này mỗi môn đều bao gồm tất cả pháp, vì 2 môn này không tách rời nhau.
Tâm chân như, tức là thể của pháp môn đại tổng tướng của tất cả pháp giới. Vì bản tính của tâm không sinh không diệt. Tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có sai khác. Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng cảnh giới sai khác.
Cho nên các pháp xưa nay tính lìa ngôn ngữ, văn tự không thể nói rõ, lìa tâm phan duyên không có các tướng, rốt ráo bình đẳng hằng không biến đổi không thể phá hoại, chỉ là một tâm gọi là chân như.
Bởi chân như nên từ bản lai không thể nói, không thể phân biệt. Tất cả lời nói chỉ là giả chẳng phải thật, chỉ theo vọng niệm mà không thực có.
Nói chân như cũng không có tướng. Chỉ là trong cùng cực của tất cả ngôn thuyết là dùng lời nói bác bỏ lời nói, chẳng phải thể tính chân như có chút gì có thể bác bỏ hay có chút gì để thành lập.
Hỏi : Nếu vậy chúng sinh làm sao tùy thuận ngộ nhập ?
Đáp : Nếu biết tuy nói tất cả pháp mà không có người nói ra, không có pháp được nói. Tuy nghĩ tất cả pháp mà không có ai nghĩ không có pháp được nghĩ tới. Bấy giờ sự đuổi theo vọng niệm đều hết gọi là ngộ nhập.
Lại nữa, chân nhưdựa vào ngôn thuyết thiết lập thì có 2 nghĩa :
1. Chân thật không, là rốt ráo xa lìa tướng không thật, làm rõ thật thể.
2. Chân thật bất không, là có tự thể, bản tính đầy đủ vô biên công đức.
Lại nữa, chân thật không là từ bản lai không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tướng sai biệt của tất cả pháp cho nên không có tâm hư vọng phân biệt. Phải biết chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng có không, chẳng phải tướng chẳng có không, chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải tướng một khác, chẳng phải tướng chẳng phải một khác.
Nói tóm lược là vì cái vọng tâm phân biệt của tất cả chúng sinh, không thể chạm xúc được nên lập ra là không. Căn cứ theo thật đạo lý thì vọng niệm chẳng phải có, không tính cũng không bởi cái bị ngăn chận là không mà cái khả năng ngăn chận cũng không.
Nói chân thật bất không, là do không có vọng niệm tức hiển thị cái chân tâm thường hằng không biến đổi, viên mãn pháp thanh tịnh nên gọi bất không. Cái bất không cũng không có tướng bất không bởi không phải do tâm vọng niệm tạo ra mà chỉ trí lìa niệm chứng được mà thôi.
Tâm sinh diệt môn, nghĩa là dựa vào Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt chuyển. Cái không sinh diệt hòa hợp với sinh diệt, 2 cái đó chẳng phải một chẳng phải khác, gọi đó là thức A-lại-da. Thức này có 2 nghĩa là khả năng thâu giữ tất cả pháp và khả năng phát sinh tất cả pháp.
Lại có 2 nghĩa, là nghĩa của giác và nghĩa của bất giác.
Nói nghĩa của giác là Đệ nhất nghĩa của tâm.
Tính của nó lìa tất cả tướng vọng niệm. Vì lìa tất cả tướng vọng niệm nên sánh bằng cõi hư không, không đâu không cùng khắp.
Pháp giới một tướng tức là pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai. Căn cứ pháp thân này mà nói tất cả Như Laibản giác.
Bởi đối đãi với thủy giác mà lập ra bản giác.
Nhưng thủy giác tức là bản giác chứ không phải lập lên bởi một giác nào khác.
Thủy giác là do bản giác mà có bất giác. Do bất giác nên nói có thủy giác.
Lại nữa giác ngộ nguồn tâm nên gọi là cứu cánh giác. Không giác ngộ nguồn tâm nên gọi là phi cứu cánh giác. Như người phàm phu, niệm trước bất giác khởi phiền não, niệm sau chế ngự không cho sinh. Đây tuy gọi là giác mà tức là bất giác.
Như người phàm phu và Bồ-tát sơ nghiệp biết cái thể của hữu niệm vô niệm có khác nhau để xả bỏ thô phân biệt cho nên gọi là tương tự giác.
Như pháp thân Bồ-tát biết niệm hay vô niệm đều không có tướng, xả bỏ trung phẩm phân biệt nên gọi là tùy phần giác.
Nếu vượt quá Bồ-tát địa, đầy đủ cứu cánh đạo, nhất niệm tương ưng giác tâm sơ khởi mới gọi là giác, xa lìa tướng giác vĩnh viễn hết rốt ráo các vi tế phân biệt, tâm căn bản tính thường trụ hiện tiền, đó là Như Lai, gọi là cứu cánh giác.
Cho nên kinh nói : Nếu có chúng sinh quán được tất cả vọng niệmvô tướng, tức chứng được trí tuệ của Như Lai.
Lại nữa, nói tâm sơ khởi là chỉ tùy theo thế tục mà nói, chứ cầu cái sơ tướng là hoàn toàn không thể được. Tâm còn không có làm gì có sơ.
Cho nên tất cả chúng sinh không gọi là giác, bởi lẽ từ vô thủy đến nay hằng có vô minh vọng niệm liên tục chưa từng rời bỏ. Nếu dứt vọng niệm tức biết tâm tướng sinh trụ dị diệt đều không có tướng. Bởi trong một tâm, trước, sau, đồng thời, đều không tương ưng vì không tự tính. Biết như vậy rồi thi biết thủy giác là không thể có được vì nó không khác bản giác.
Lại nữa bản giác theo nhiễm sinh ra 2 tướng khác nhau : tướng trí thanh tịnh và tướng dụng không thể nghĩ bàn.
Tướng trí thanh tịnh, nghĩa là theo sự huân tập của chính pháp, như thật tu hành công hạnh viên mãn, phá vỡ sự hòa hợp của thức, diệt tướng chuyển thức, hiển hiện trí thanh tịnh của pháp thân.
Tất cả tướng của tâm thức là tướng vô minh.
Tướng vô minh đó với bản giác chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải có thể hoại, cũng chẳng phải không thể hoại.
Như nước biển và sóng chẳng phải một chẳng phải khác. Sóng là do gió động, chẳng phải tính nước động. Nếu gió ngừng thì sóng hết động chứ chẳng phải tính nước diệt mất.
Chúng sinh cũng vậy. Tự tính thanh tịnh tâm do gió vô minh động làm nổi lên sóng thức.
Như vậy 3 thứ đều không hình tướng, chẳng phải một chẳng phải khác.
Nhưng tính tịnh tâmcăn bản của thức động. Khi vô minh diệt động thức cũng diệt theo nhưng trí tính không hoại.
Tướng dụng không thể nghĩ bàn, nghĩa là do trí thanh tịnh có thể sinh khởi tất cả cảnh giới thắng diệu thường không tuyệt dứt.
Nghĩa là thân Như Lai đầy đủ công đức vô lượng thắng thượng, tùy theo căn cơ chúng sinhthị hiện thành tựu vô lượng lợi ích.
Lại nữa tướng của bản giác có 4 nghĩa lớn như hư không, giống như một gương sáng :
1. Nghĩa lớn của chân thật không, như gương sáng hư không. Nghĩa là tất cả tướng cảnh giới của tâm và tướng giác đều không thể có được.
2. Nghĩa lớn của chân thật bất không, như gương sáng hư không. Nghĩa là tính của tất cả pháp viên m.n thành tựu, không thể hoại.
Tướng cảnh giới của tất cả thế gian đều hiện trong đó, thường trụ một tâm không ra không vào không mất không hoại, tất cả pháp nhiễm không thể nhiễm, thể của trí đầy đủ, vô biên vô lậu công đức làm nhân huân tập tất cả tâm chúng sinh.
3. Nghĩa lớn của chân thật bất không lìa tướng, như gương sáng hư không. Nghĩa là 2 chướng phiền nãosở tri vĩnh viễn dứt, hòa hợp thức diệt, bản tính thanh tịnh thường an trụ.
4. Nghĩa lớn của chân thật bất không thị hiện như gương sáng hư không. Nghĩa là dựa vào pháp lìa chướng mà theo đó ứng hóa, hiện các thứ sắc thanh của Như Lai khiến chúng sinh tu hành các thiện căn.
Nghĩa của bất giác, nghĩa là từ vô thủy đến nay không biết như thật rằng pháp chân thật là một, nên tâm bất giác khởi thành ra có vọng niệm. Nhưng vọng niệm đó tự nó không có thật tướng và không rời bản giác.
Giống như người theo phương hướngmê lầm. Mê cái không có tự tướng mà không rời phương hướng. Chúng sinh cũng vậy, do nơi giác mà có bất giác vọng niệm mê sinh.
Nhưng cái bất giác kia tự không có thật tướng, không tách rời bản giác, lại do đối đãi với bất giác mà nói chân giác. Bất giác đã không có thì chân giác cũng loại trừ.
Lại nữa, do nơi giác mà có bất giác sinh ra 3 tướng không tách rời nhau :
1. Tướng của nghiệp vô minh. Bởi do bất giác tâm động thành nghiệp. Giác thì không động, động tức có khổ vì quả không tách rời nhân.
2. Tướng năng kiến. Nghĩa là do tâm động nên thấy có cảnh giới, không động thì không thấy.
3. Tướng của cảnh giới. Nghĩa là do năng kiến mà tướng vọng kiến hiện ra, lìa năng kiến thì không có cảnh.
Do duyên cảnh giới hư vọng nên lại sinh ra 6 tướng :
1. Tướng trí. Nghĩa là duyên cảnh giới sinh tâm yêu thích không yêu thích.
2. Tướng liên tục. Nghĩa là do tướng trí mà có cảm giác khổ vui, ý niệm về tướng khổ vui tương ưng không dứt.
3. Tướng chấp trước. Nghĩa là do ý niệm về cảm giác khổ vui liên tục mà sinh chấp trước.
4. Tướng chấp các tên gọi. Nghĩa là do chấp trước phân biệt tên gọi v.v… mà lập nên các tướng.
5. Tướng khởi nghiệp. Nghĩa là do chấp tên gọi v.v… mà khởi các nghiệp khác nhau.
6. Tướng nghiệp buộc khổ. Nghĩa là do nghiệp chịu khổ không được tự tại.
Cho nên phải biết tất cả pháp nhiễm đều không có tướng, đều do vô minh sinh khởi.
Lại nữa giác với bất giác có 2 tướng là đồng nhau và khác nhau.
Tướng đồng nhau là như các loại đồ gốm đều đồng tướng đất. Cũng vậy các huyễn dụng của vô lậu vô minh đều đồng là tướng của chân như. Cho nên Phật nói tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay thường nhập Niết-bàn Bồ-đề, không phải là tướng tu được, không phải tướng có thế sinh ra, hoàn toàn không có gì được cả. Không có sắc tướng có thể thấy. Phải biết thấy sắc tướng đều là theo huyễn dụng của nhiễm mà ra, không phải tướng bất không của trí sắc, bởi trí tướng là không thể có được.
Nói tướng khác nhau là như nhiều thứ đồ gốm khác nhau. Đây cũng vậy tướng huyễn dụng của vô lậuvô minh đều khác nhau.
Lại nữa, nhân duyên của sinh diệt nghĩa là chúng sinh do tâm, ý thức chuyển.
Nghĩa này là thế nào ?
Nghĩa là do thức A-lại-da mà nói vô minh bất giác khởi lên có thể thấy, có thể hiện, có thể thủ lấy cảnh giới phân biệt liên tục nên gọi là .. . đó lại có 5 tên khác nhau :
1. Nghiệp thức. Nghĩa là sức của vô minh làm cho bất giác tâm động.
2. Chuyển thức. Nghĩa là do động tâm mà thấy có cảnh tướng.
3. Hiện thức. Nghĩa là hiện tướng tất cả các cảnh giới. Giống như gương sáng hiện các sắc tượng, hiện thức cũng vậy. Như 5 đối cảnh đến thì liền hiện, không có trước sau, không do công sức.
4. Trí thức. Nghĩa là phân biệt các pháp nhiễm tịnh sai biệt.
5. Tương tục thức. Nghĩa là thường xuyên tác ý tương ưng không dứt, duy trì một cách tự nhiên không làm hỏng mất các nghiệp thiện ác quá khứ, làm chin muồi quả báo khổ vui trong hiện tại vị lai không cho sai sót, làm bổng nhiên nhớ lại những gì đã qua hoặc vọng sinh phân biệt những gì chưa xảy đến. Cho nên trong 3 cõi tất cả đều lấy tâm làm tự tính, l.a tâm khôngcảnh giới 6 trần.
Bởi vì sao ?
Vì tất cả các pháp do tâm làm chủ từ vọng niệm khởi. Tất cả mọi phân biệt đều phân biệt nơi tự tâm. Nhưng tâm không thấy tâm, không có tướng để thấy. Cho nên phải biết tất cả tướng của cảnh giới thế gian đều do vô minh vọng niệm của chúng sinh mà được thành lập.
Như hình ảnh trong gương không có tự thể, chỉ do tâm phân biệt hư vọng chuyển. Vì tâm sinh thì các thứ pháp sinh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt.
Nói ý thức, nghĩa là tất cả phàm phu do tương tục thức chấp ngã ngã sở mà vọng thủ 6 thứ cảnh giới. Cũng gọi là phân ly thức, cũng gọi là phân biệt sự thức, vì do kiến ái v.v… huân tậptăng trưởng.
Vô thủy vô minh huân tậpsinh khởi thức, điều đó không phải trí tuệ phàm phu hay
Nhị thừa có thể biết được. Giải hành địa Bồ-tát mới học quan sát, pháp thân Bồ-tát thì có thể biết được một phần ít, cho đến cứu cánh địa còn chưa biết hết được, chỉ có Như Lai mới có thể rõ thấu.
Nghĩa này là thế nào ?
tâm tính bản lai thanh tịnh, vì sức của vô minh nên tướng của nhiễm tâm hiện ra. Tuy có nhiễm tâm mà thường sáng sạch không biến đổi.
Lại nữa, vì bản tínhvô phân biệt cho nên tuy sinh khởi khắp tất cả cảnh giới mà không biến đổi. Do không biết là một pháp giới nên không tương ưng, vô minh phân biệt khởi nên sinh các nhiễm tâm. Nghĩa đó rất sâu khó lường chỉ có Phật, ngoài ra không ai biết được.
Nhiễm tâm này có 6 thứ :
1. Chấp tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ-tát bậc tín tương ưng có thể xa lìa.
2. Bất đoạn tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này sức tu tập siêng năng của tín địa Bồ-tát có thể lìa bỏ một phần ít, đến tịnh tâm địa mới hết vĩnh viễn và không sót.
3. Phân biệt trí tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này từ cụ giới địa cho đến cụ tuệ địa có thể lìa bỏ một phần ít, đến vô tướng hành địa mới hết vĩnh viễn.
4. Hiện sắc bất tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này thì sắc tự tại địa lìa bỏ được.
5. Kiến tâm bất tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này thì tự tại địa trừ diệt được.
6. Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm.
Nhiễm tâm này từ Bồ-tát cứu cánh địa nhập vào Như Lai địa trừ diệt được.
Về nghĩa không rõ là một pháp giới thì bắt đầu từ tín địa quán sát khởi hành, đến tịnh tâm địa có thể lìa bỏ một phần ít, nhập Như Lai địa mới hết vĩnh viễn.
Nghĩa của tương ưng, nghĩa là tâm phân biệt khác nhau, nhiễm tịnh phân biệt khác nhau, nhưng tướng biết và tướng duyên như nhau.
Nghĩa của bất tương ưng, nghĩa là tức tâm bất giác thường không riêng khác, mà tướng biết tướng duyên không giống nhau.
Nhiễm tâm, là phiền não chướng có thể chướng ngại chân như căn bản trí.
Vô minh, là sở tri chướng, có thể chướng ngại thế gian nghiệp tự tại trí.
Nghĩa này là thế nào ?
Là vì nhiễm tâm chấp trước vô lượng cảnh giới hư vọng của năng thủ sở thủ trái với tính bình đẳng của tất cả pháp. Tính của tất cả pháp là bình đẳng, tịch diệt không có tướng sinh, do vô minh bất giác mà có vọng trái với giác. Cho nên đối với nghiệp dụng sai biệt các thứ cảnh giới của tất cả thế gian đều không biết được như thật.
Lại nữa tướng sinh diệt của tâm phân biệt có 2 thứ :
1. Thô, tức tâm tương ưng.
2. Tế, tức tâm bất tương ưng.
Thô trong thô là cảnh trí của phàm phu.
Tế trong thô và thô trong tế là cảnh trí của Bồ-tát.
Hai tướng này đều do sức huân tập của vô minh dựa vào nhân và dựa vào duyên khởi lên.
Nhân là bất giác, duyên là vọng cảnh. Nhân diệt thì duyên diệt. Duyên diệt nên tâm tương ưng diệt. Nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt.
Hỏi : Nếu tâm diệt thì làm sao tiếp tục ? Còn nếu tiếp tục thì làm sao nói diệt ?
Đáp : Đúng vậy. Nay nói diệt là chỉ tướng của tâm diệt không phải thể của tâm diệt. Như nước do gió có tướng động, vì gió diệt nên tướng động liền diệt chứ không phải thể của nước diệt. Nếu nước diệt th. tướng động phải mất, vì không còn nương tựa và không có chỗ dựa. Bởi thể của nước không diệt nên tướng động tiếp tục. Chúng sinh cũng vậy, do sức của vô minh làm cho tâm động. Vô minh diệt diệt thì tướng động liền diệt, chẳng phải thể của tâm diệt. Nếu tâm diệt thì chúng sinh dứt mất vì không nương tựa cũng không có chỗ nương tựa.
Bởi thể của tâm không diệt nên tâm động tiếp tục.
Lại nữa, do nghĩa của 4 pháp huân tập nên pháp nhiễm tịnh khởi không dứt.
1. Pháp tịnh, tức chân như.
2. Nhân của nhiễm, tức vô minh.
3. Vọng tâm, tức nghiệp thức.
4. Vọng cảnh, tức 6 trần.
Nghĩa của huân tập, là như áo mặc của thế gian vốn không có mùi, tùy theo xông ướp mà có mùi. Tính của pháp tịnh chân như vốn không có nhiễm, do vô minh huân tập nên có nhiễm.
Pháp nhiễm vô minh thật sự không có nghiệp tịnh, do chân như huân tập nên nói có cái dụng thanh tịnh.
Vì sao pháp nhiễm huân tập không dứt ?
Là vì do chân như nên khởi vô minh làm nhân các nhiễm, rồi cái vô minh này liền huân tập lại chân như. Đã huân tập rồi thì sinh tâm vọng niệm. Tâm vọng niệm này trở lại huân tập vô minh. Do huân tập nên không rõ pháp chân như, do bất giác nên hiện cảnh giới vọng. Do sức huân tập của tâm vọng niệm nên sinh các thứ chấp trước khác nhau tạo các nghiệp khác nhau thân tâm thụ các khổ báo.
Vọng cảnh huân tập có 2 nghĩa :
1. Huân tập tăng trưởng phân biệt.
2. Huân tập tăng trưởng chấp thủ.
Vọng tâm huân tập cũng có 2 nghĩa :
1. Huân tập làm tăng trưởng nghiệp thức căn bản khiến A-la-hán, Bích-chi-phật và tất cả Bồ-tát chịu khổ sinh diệt.
2. Huân tập làm tăng trưởng sự thức phân biệt khiến các phàm phu thụ nghiệp buộc khổ.
Vô minh huân tập cũng có 2 nghĩa :
1. Huân tập căn bản làm thành tựu nghĩa của nghiệp thức.
2. Huân tập kiến ái làm thành tựu nghĩa của sự thức phân biệt.
Thế nào là không ngớt huân tập pháp tịnh ?
Nghĩa là do chân như huân tập nơi vô minh, do sức nhân duyên huân tập nên khiên tâm vọng niệm chán khổ sinh tử cầu vui Niết-bàn.
Do nhân duyên cái vọng tâm chán khổ cầu vui này trở lại huân tập chân như, do huân tập nên tự tin thân m ình có pháp chân như bản tính thanh tịnh, biết tất cả cảnh giớiduy tâm thì rốt ráo không c òn vọng động. Bởi biết như thật như vậy nên tu pháp xa lìa, khởi nhiều thứ hạnh tùy thuận, không phân biệt không chấp thủ, trải vô lượng kiếp A-tăng-kỳ do sức tập quen mà vô minh diệt. Vô minh diệt nên tâm không khởi tướng. Tâm không khởi nên tướng cảnh giới diệt. Như vậy tất cả nhân nhiễm, duyên nhiễm cho đến quả nhiễm, tướng của tâm đều diệt gọi là được Niết-bàn thành tựu các thứ nghiệp dụng tự tại.
Vọng tâm huân tập có 2 nghĩa :
1. Huân tập của phân biệt sự thức ý khiến tất cả phàm phu Nhị thừa chán khổ sinh tử, tùy năng lực tiến tu đạo vô thượng.
2. Huân tập của ý khiến các Bồ-tát phát tâm dũng m ãnh mau chóng ngộ nhập vô trụ Niết-bàn.
Chân như huân tập cũng có 2 nghĩa :
1. Huân tập của thể.
2. Huân tập của dụng.
Huân tập của thể, nghĩa là chân như từ vô thủy đến nay đầy đủ tất cả vô lượng vô lậu.
Huân tập của dụng, nghĩa là đầy đủ cái cảnh giới thù thắng khó nghĩ bàn. Hai tính chất này thường xuyên huân tập tâm chúng sinh khiến các chúng sinh chán khổ sinh tử cầu vui
Niết-bàn, tự tin bản thân mình có pháp chân thật mà phát tâm tu hành.
Hỏi : Nếu tất cả chúng sinh đồng có chân như và đều được huân tập thì sao có kẻ tin người không tin ? Từ mới phát tâm cho đến Niết-bàn có vô lượng sai biệt trước sau không đồng nhau, lẽ ra tất cả đều phải đồng thời bình đẳng nhập Niết-bàn chứ ?
Đáp : Tuy tất cả chúng sinh đều bình đẳngchân như, nhưng từ vô thủy đến nayvô lượng vô biên vô minh dày mỏng khác nhau còn nhiều hơn số cát sông Hằng. Các phiền não ngã kiến ngã ái trói buộc cũng như vậy, chỉ có trí của Như Lai mới biết được, cho nên khiến tin có sai khác trước sau là như vậy.
Lại nữa, pháp của chư Phật có nhân có duyên. Đủ nhân duyên mới thành sự. Như tính lửa trong cây. Cái nhân chính là lửa đó nếu không ai biết, hoặc biết mà không thi công mà muốn cho có lửa ra thiêu đốt cây cối là không có chuyện đó. Chúng sinh cũng vậy, tuy có cái thể chân như là sức chính nhân huân tập, nhưng không có duyên gặp Phật, Bồ-tát, thiện tri thức, hoặc không tu thắng hạnh, không sinh trí tuệ không đoạn phiền não mà được Niết-bàn là không có chuyện đó.
Lại nữa, tuy có duyên thiện tri thức nhưng giả như bên trong không có sức huân tập của chân như thì cũng không thể chán khổ sinh tử cầu vui Niết-bàn. Phải đủ nhân duyên mới được như vậy.
Sao gọi là đầy đủ ?
Nghĩa là tự trong sự liên tục có sức huân tập như được chư Phật Bồ-tát từ bi hộ trì mới có thể chán khổ sinh tử tin có Niết-bàn, trồng các căn lành tu tập thành thục, lại được gặp chư Phật Bồ-tát chỉ dạy đường tu lợi lạc, khiến tu thắng hạnh cho đến thành Phật nhập Niết-bàn.
Huân tập của dụng, tức là cái sức ngoại duyên của chúng sinhvô lượng nghĩa. Nói sơ lược có 2 thứ :
1. Duyên sai biệt.
2. Duyên bình đẳng.
Duyên sai biệt, nghĩa là các chúng sinh từ mới phát tâm cho đến thành Phật nhờ Phật Bồ-tát thiện tri thức tùy chỗ thích hợp hóa độhiện thân, hoặc làm cha mẹ hoặc làm vợ con, hoặc làm quyến thuộc, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn bè quen biết, hoặc làm oan gia, hoặc lại thị hiện hình tượng Thiên vương, hoặc dùng Tứ nhiếp, hoặc dùng Lục độ cho đến tất cả Bồ-đề hành duyên, dùng tâm Đại bi nhu nhuyến, phúc trí tạng rộng lớn huân tập làm cho tất cả chúng sinh được hóa độ khiến chúng thấy nghe nghĩ nhớ hình tượng Như Lai v.v… mà thêm lớn căn lành.
Duyên này có 2 :
1. Duyên gần thì mau chứng Bồ-đề.
2. Duyên xa thì lâu xa mới chứng.
Hai duyên này lại có 2 thứ khác nhau :
1. Duyên tăng trưởng các hành.
2. Duyên nhập đạo.
Duyên bình đẳng, nghĩa là tất cả chư Phật Bồ-tát đem trí tuệ bình đẳng, chí nguyện bình đẳng muốn cứu giúp tất cả chúng sinh liên tục tự nhiên không tuyệt dứt. Do trí tuệnguyện lực này huân tập chúng sinh khiến chúng nghĩ nhớ chư Phật Bồ-tát hoặc thấy hoặc nghe mà làm việc lợi ích, nhập tịnh Tam-muội tùy chỗ đoạn chướng được con mắt vô ngại, trong mỗi niệm mỗi niệm b.nh đẳng hiện thấy vô lượng chư Phật và Bồ-tát trong tất cả thế giới.
Sự huân tập của thể và huân tập của dụng này lại có 2 thứ :
1. Chưa tương ưng.
2. Đã tương ưng.
Chưa tương ưng, nghĩa là phàm phu Nhị thừa và Bồ-tát sơ phát tâm dùng ., . thức mà huân tập, chỉ dựa vào sức tin mà tu hành, chưa thể tu hành bằng tâm vô phân biệt, vì chưa tương ưng được với thể của chân như, chưa tu hành được tự tại nghiệp vì chưa tương ưng được với dụng của chân như.
Đã tương ưng, nghĩa là pháp thân Bồ-tát được tâm vô phân biệt, tương ưng với tự thể của tất cả Như Lai, được tự tại nghiệp vì tương ưng với trí dụng của tất cả Như Lai, chỉ theo pháp lực tu hành tự nhiênhuân tập chân như diệt vô minh.
Lại nữa, huân tập nhiễm th. từ vô thủy đến nay không đoạn, thành Phật mới đoạn ý huân tập tịnh thì cho đến tột vị lai hoàn toàn không đoạn vì pháp chân như huân tập cho nên vọng tâm thì diệt pháp thân thì hiển hiện, dụng huân tập khởi nên không có đoạn.
Lại nữa tướng của tự thể chân như thì ở nơi tất cả phàm phu Thanh Văn Duyên Giác Bồ-tát chư Phật không có thêm bớt, rốt ráo thường còn chẳng phải thời trước sinh thời sau diệt, từ vô thủy đến nay đầy đủ tất cả công đức. Có nghĩa trí tuệ lớn sáng suốt, có nghĩa soi khắp pháp giới, có nghĩa hiểu biết như thật, có nghĩa bản tính tâm thanh tịnh, có nghĩa thường lạc ngã tịnh, có nghĩa tự tại vắng lặng không biến đổi.
Có như vậy Phật pháp không thể nghĩ bàn không tuyệt dứt còn hơn sô cát sông Hằng chẳng phải đồng chẳng phải khác. Do nghĩa này gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là pháp thân.
Hỏi : Trên nói chân như lìa tất cả tướng, sao nay nói đầy đủ tất cả các công đức ?
Đáp : Tuy thật có đủ tất cả công đức nhưng tướng không khác nhau. Tất cả các pháp ấy đều đồng một mùi vị, một chân như, không có 2 tính, lìa tướng phân biệt. Do tướng sinh diệt của nghiệp thức mà lập tất cả tướng khác nhau đó.
Lập như thế nào ?
Nghĩa là do tất cả pháp bản lai duy tâm, thật khôngphân biệt, vì bất giác nên tâm phân biệt khởi lên thấy có cảnh giới, gọi là vô minh.
Tâm tính bản tịnh, vô minh không khởi, tức nơi chân như lập nghĩa trí tuệ lớn sáng suốt.
Nếu tâm tính thấy cảnh, tức là có tướng không thấy. Tâm tính không thấy, tức không gì không thấy. Đó là nơi chân như lập nghĩa soi khắp pháp giới.
Nếu tâm có động, tức chẳng phải hiểu biết chân thật, chẳng phải bản tính thanh tịnh, chẳng phải thường lạc ngã tịnh, chẳng phải vắng lặng.
Đó là biến đổi không tự tại. Từ đó khởi đủ các tạp nhiễm hư vọng còn hơn số cát sông Hằng.
Do tâm tính không động nên lập nghĩa hiểu biết chân thật. Cho đến nghĩa của tướng công đức thanh tịnh còn hơn số cát sông Hằng.
Nếu tâm có khởi động, thấy có cảnh hữu dư có thể phân biệt tìm cầu thì trong nội pháp có chỗ không đủ. Bởi vô biên công đức tức là tự tính một tâm, không thấy có pháp hữu dư đáng tìm cầu cho nên đầy đủ không tuyệt dứt pháp chư Phật không thể nghĩ bàn, còn hơn cát sông Hằng chẳng khác cũng chẳng phải một. Cho nên nói chân như là Như Lại tạng, cũng gọi là pháp thân Như Lai.
Lại nữa, cái dụng của chân như, nghĩa là tất cả chư Phật trong thời kỳ tu nhân, phát Đại từ bi tu hành các hạnh Lục độ, Tứ nhiếp, quán vật đồng với mình đều khắp cứu thoát, cho đến tận cùng đời vị lai không kể số kiếp, hiểu rõ như thật, tự tha bình đẳng, mà cũng không chấp thủ tướng chúng sinh, dùng trí phương tiện lớn như vậy diệt vô thủy vô minh, chứng bản pháp thân, tự do khởi nghiệp không thể nghĩ bàn, khởi các tác dụng tự tại cùng với chân như khắp pháp giới mà không có thấy có tướng dụng.
Bởi vì sao ? Vì tất cả Như Lai chỉ là pháp thân Đệ nhất nghĩa đế không có tác dụng của cảnh giới thế đế, chỉ tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà có các tác dụng bất đồng.
Dụng này có 2 :
1. Dựa vào phân biệt sự thức. Nghĩa là cái mà tâm phàm phu Nhị thừa thấy, đó là hóa thân.
Họ không biết là do hình ảnh của chuyển thức hiện, thấy cái sắc tướnggiới hạn chấp lấy từ bên ngoài, nhưng hóa thân Phật thì không có hạn lượng.
2. Dựa vào nghiệp thức. Nghĩa là các Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến bậc cứu cánh, cái mà tâm thấy được đó là thụ dụng thân. Thân có vô lượng sắc. Sắc có vô lượng tướng. Tướng có vô lượng hình hảo. Chỗ trụ xứ là dựa nơi quả báo đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Tùy chỗ ứng hiệnvô lượng vô biên không giới hạn không dứt, chẳng phải những gì thấy ở ngoài tâm. Các công đức này đều do các hạn vô lậu Ba-la-mật huân tập và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu đầy đủ tướng công đức vô biên hỷ lạc, nên cũng gọi là báo thân.
Lại nữa, cái mà phàm phu thấy đó là thô dụng, tùy theo 6 nẻo chúng sinh thấy có khác nhau, không có tướng vui công đức vô biên, nên gọi là hóa thân.
Cái mà Bồ-tát sơ phát tâm thấy, đó là cái dụng trung phẩm do thâm tín chân như nên thấy được một phần ít, biết thân Như Lai là không đi không đến không tuyệt mất, chỉ là bóng dáng của tâm hiện ra không tách rời chân như.
Nhưng bậc Bồ-tát này còn chưa lìa bỏ được vi tế phân biệt vì chưa nhập vào địa vị pháp thân.
Bồ-tát tịnh tâm thì thấy cái dụng vi tế. Như vậy chuyển thắng cho đến Bồ-tát bậc cứu cánh mời thấy trọn vẹn.
Cái dụng vi tế này là thụ dụng thân. Do có nghiệp thức mới thấy thụ dụng thân. Nếu lìa nghiệp thức thì không thấy. Tất cả Như Lai đều là pháp thân, không có sắc tướng sai biệt đây kia thấy nhau.
Hỏi : Nếu pháp thân Phật không có các sắc tướng sai biệt thì sao có thể hiện ra các sắc ?
Đáp : Vì pháp thân là thật thể của sắc nên có thể hiện các sắc. Nghĩa là từ bản lai sắc và tâm là không hai. Bởi bản tính của sắc tức tự tính của tâm, gọi là trí thân. Bởi bản tính của tâm tức tự tính của sắc, gọi là pháp thân. Dựa nơi pháp thân này, tất cả Như Lại hiện các sắc thân, biến mãn khắp mọi nơi không gián đoạn. Mười phương Bồ-tát tùy năng lực mạnh, tùy nguyện lạc của mạnh thấy vô lượng thụ dụng thân, vô lượng cõi nước trang nghiêm khác nhau, không chướng ngại nhau cũng không tuyệt dứt. Sắc thân hiện ra đó, tâm, thức của tất cả chúng sinh không thể suy lường, vì đó là cái dụng rất sâu tự tại của chân như.
Lại nữa, để làm cho chúng sinh từ tâm sinh diệt môn hội nhập chân như môn nên khiến quán tướng của sắc v.v… không thành tựu.
Thế nào là không thành tựu ?
Nghĩa là phân tích sắc thô dần dần cho đến thành bụi nhỏ. Lại dùng phương phân tích vi trần này. Cho nên dù thô dù tế, tất cả các sắc chỉ là ảnh tượng phân biệt của vọng tâm thật sự là không có.
Suy tìm các uẩn cho đến sát-na, tìm tướng của sát-na này, chẳng phải riêng có một pháp vô vi cũng như vậy. Lìa nơi pháp giớihoàn toàn không thể được. Cũng vậy, tất cả các pháp trong 10 phương, phải biết đều như vậy. Giống như người mê gọi phương Đông là phương Tây nhưng thật sự phương hướng không chuyển đổi.
Chúng sinh cũng vậy, vì mê vô minh nên gọi tâm là động mà kỳ thật không động. Nếu biết cái động tâm tức không còn sinh diệt, liền được nhập vào chân như môn.

Luận Đại Thừa Khởi Tín
(Quyển Thượng hết)

* * * * *


Luận Đại Thừa Khởi Tín
(Quyển Hạ)

Bồ-tát Mã Minh tạo luận
Tam tạng Thật-xoa-nan-đà dịch
Nguyên Hồng
Việt dịch


 Đối trị tà chấp, nghĩa là tất cả tà chấp không thứ nào không do ngã kiến khởi. Nếu lìa ngã kiến thì không có tà chấp.
Ngã kiến có 2 thứ :
1. Nhân ngã kiến.
2. Pháp ngã kiến.
Nhân ngã kiến, theo phàm phu có 5 thứ :
1. Như kinh nói : Pháp thân Như Lai rốt ráo văng lặng giống như hư không. Phàm phu nghe vậy không rõ nghĩa lý liền chấp tính của Như Lai giống như hư không thường hằng có khắp nơi. Để trừ chấp đó, phải hiểu rõ tướng hư không chỉ là phân biệt, thật không thể có, do hữu kiến hữu đối, đối đãi với sắc rồi đem tâm phân biệt mà gọi là hư không. Sắc đã chỉ là vọng tâm phân biệt nên phải biết hư không cũng không có tự thể. Tất cả tướng của cảnh chỉ là vọng tâm phân biệt. Nếu lìa vọng tâm tức tướng cảnh giới diệt. Chỉ có tâm chân như không đâu không cùng khắp. Đó là nghĩa của tính Như Lai như hư không, chẳng phải cái rỗng không là thường hằng là có.
2. Như kinh nói : Tất cả pháp thế gian rốt ráo là rỗng không, cho đến các pháp chân như
Niết-bàn cũng rốt ráo là rỗng không, bản tính như vậy lìa tất cả tướng. Phàm ngu nghe vậy không rõ nghĩa lý, liền chấp cho rằng pháp chân như Niết-bàn chỉ là rỗng không chẳng có gì cả.
Để trừ chấp đó phải hiểu rõ pháp thân chân như tự thể chẳng phải rỗng không, mà đầy đủ vô lượng tính công đức.
3. Như kinh nói : Như Lai tạng không có thêm bớt, tự thể đầy đủ tất cả các tính công đức.
Phàm ngu nghe rồi không hiểu nghĩa lý đó, liền cho rằng Như Lai tạng có các sắc pháptâm pháptự tướng khác nhau. Để trừ chấp này phải hiểu rõ chân như vốn không có pháp nhiễm sai biệt, mà có vô biên tướng công đức, chứ không phải tướng nhiễm.
4. Như kinh nói : Tất cả các pháp tạp nhiễm thế gian đều do Như Lai tạng khởi lên, tất cả các pháp không khác chân như. Phàm ngu nghe vậy không hiểu nghĩa lý cho rằng tự thể
Như Lai tạng có đủ tất cả các pháp nhiễm của thế gian. Để trừ chấp này phải hiểu rõ nghĩa Như Lai tạng bản lai có đủ công đức thanh tịnh, còn hơn cả số cát sông Hằng, không khác chân như. Bởi các pháp nhiễm phiền não hơn cả số cát sông Hằng chỉ là giả có, không có tự tính, bản lai chưa hề tương ưng với Như Lai tạng.
Nếu Như Lai tạng tương ưng với pháp nhiễm mà khi chứng ngộ dứt được vọng nhiễm là không có chuyện đó.
5. Như kinh nói : Do Như Lai tạng mà có sinh tử và được Niết-bàn. Phàm ngu nghe vậy không hiểu nghĩa lý, lại cho rằng do Như Lai tạngsinh tử có bắt đầu. Do chấp có cái bắt đầu nên lại cho rằng Niết-bàn cuối cùng phải hết. Để trừ chấp này phải hiểu rõNhư Lai tạng không có cái thời trước để vô minh dựa vào đó mà có sinh tử bắt đầu. Nếu nói ngoài 3 cõi, còn có chúng sinh bắt đầu phát khởi, tức là nói theo ngoại đạo, không phải Phật giáo.
Như Lai tạng cũng không có cái thời sau, để dựa vào đó 4 thứ kiến chấp nhân ngã sinh. Cho nên nơi đây an lập 4 thứ đó.
Kiến chấp về pháp ngã, là do Nhị thừa độn căn. Thế Tôn chỉ họ nói nhân vô ngã. Họ liền đối với 5 uẩn sinh diệthoàn toàn chấp trước rồi sợ hãi sinh tử, vọng thủ Niết-bàn. Để trừ chấp này phải hiểu rõ bản tính pháp 5 ấm không sinh, không sinh nên cũng không có diệt, không diệt nên bản lai là Niết-bàn.
Nếu hoàn toàn lìa bỏ chấp trước phân biệt là thì biết tất cả pháp nhiễm pháp tịnh đều đối đãi nhau mà thành lập. Cho nên phải biết tất cả pháp xưa nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, hoàn toàn không thể nói cái tướng của các pháp được. Vậy mà có nói ra để chỉ bày dạy dỗ thì phải biết đó là phương tiện khéo léo của Như Lai, mượn lời nói để dắt dẫn chúng sinh khiến lìa bỏ ngôn ngữ văn tựngộ nhập chân thật. Nếu theo lời nói mà chấp nghĩa thì thêm vọng tưởng phân biệt, không sinh thật trí không được Niết-bàn.
Phân biệt tướng tu hành chính đạo, nghĩa là chính nhân tất cả Như Lai đắc đạo, tất cả
Bồ-tát phát tâm tu tập đều khiến hiện tiền.
Nói sơ lược, phát tâm có 3 tướng :
1. Tín thành tựu phát tâm.
2. Giải hành phát tâm.
3. Chứng phát tâm.
Tín thành tựu phát tâm, là theo địa vị nào, tu hạnh gì thì thành tựu được chính tín và có thể phát tâm. Phải biết hạng người này dựa vào bất định tụ, pháp huân tập sức thiện căn, nên tin nghiệp quả, tu hành con đường thập thiện, chán khổ sinh tử, cầu vô thượng giác, được gặp chư Phật và chư Bồ-tát, đích thân phụng sự cúng dường, tu hành các hạnh, trải qua một vạn kiếp tín tâm thành tựu. Từ đó về sau hoặc được sức giáo hóa của chư Phật Bồ-tát dạy cho phát tâm, hoặc do Đại bi mà tự phát tâm, hoặc nhân chính pháp sắp diệt, vì hộ pháp mà tự phát tâm.
Những người đã phát tâm như vậy sẽ nhập chính định tụ, quyết không thoái lui, trụ trong chủng tính Phật, tương ưng thắng nhân.
Hoặc có chúng sinh từ lâu xa đến nay thiện căn ít ỏi, phiền não sâu dày che lấp tâm tính, tuy gặp chư Phật và chư Bồ-tát phụng sự cúng dường, nhưng chỉ gieo trồng hạt giống nhân thiên, hoặc hạt giống Nhị thừa, và dẫu có cầu đạo Đại Bồ-đề nhưng căn bất định, khi tiến khi thoái.
Hoặc có người gặp Phật và chư Bồ-tát, cúng dường phụng sự, tu hành các hạnh nhưng chưa trải đủ một vạn kiếp, trong khoảng đó gặp duyên mà phát tâm.
Gặp được những duyên gì ?
Là hoặc thấy hình tướng Phật mà phát tâm, hoặc nhân cúng dường chúng Tăngphát tâm, hoặc nhân người Nhị thừa dạy bảo khiến phát tâm, hoặc thấy người khác mà phát tâm.
Những người phát tâm như vậy đều là bất định, nếu gặp duyên xấu, có thể thoái lui rơi vào địa vị Nhị thừa.
Lại nữa, tín thành tựu phát tâm nói sơ lược có 3 thứ :
1. Phát tâm ngay thẳng, tức như lý chính niệm pháp chân như.
2. Phát tâm sâu xa, ưa gom góp tất cả các hạnh lành.
3. Phát tâm Đại bi, nguyện cứu vớt khổ cho tất cả chúng sinh.
Hỏi : Tất cả chúng sinh, tất cả các pháp đều đồng một pháp giới không có 2 tướng. Căn cứ theo lý thì chỉ cần chính niệm chân như cần chi tu tất cả hạnh lành cứu tất cả chúng sinh ?
Đáp : Không phải vậy. Như ngọc báu Ma-ni, bản tính sáng sạch mà nằm trong quặng bẩn. Giả sử có người chỉ nghĩ nhớ tính quý báu mà không dùng phương tiện, không ra sức thi công, muốn có viên ngọc trong suốt là điều không thể được.
Pháp chân như cũng vậy, thể tuy sáng sạch đầy đủ công đức mà bị vô biên khách trần làm nhiễm bẩn. Giả sử có người chỉ nghĩ nhớ mà không dùng nhiều phương tiện tu tập các hạnh, muốn cầu sự trong sạchlý không thể được.
Cho nên phải tập họp tất cả thiện hạnh cứu tất cả chúng sinh lìa khách trần ô nhiễm kia để hiển lộ pháp chân như.
Sơ lược có 4 thứ phương tiện thực hành :
1. Phương tiện tu hành căn bản. Nghĩa là quán tất cả pháp bản tính không sinh, lìa nơi vọng kiến, không trụ sinh tử. Lại nữa, quán tất cả pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất, khởi Đại bi, tu các hiện hạnh nhiếp hóa chúng sinh, không trụ Niết-bàn. Bởi chân như lìa tướng sinh tử Niết-bàn. Hạnh này lấy sự tùy thuận làm căn bản, gọi là phương tiện tu hành căn bản.
2. Phương tiện có thể ngăn chận. Nghĩa là biết xấu hổhối lỗi có thể ngăn chận tất cả pháp ác, không cho tăng trưởng. Bởi chân như lìa tất cả tướng lỗi lầm. Tùy thuận chân như ngăn chận các ác, gọi là phương tiện có thể ngăn chận.
3. Phương tiện làm sinh trưởng căn lành.
Nghĩa là đối với Tam bảo khởi tâm kính ái, tôn trọng, cúng dường lễ bái, tán thán, tùy hỷ, khuyến thỉnh chính tín tăng trưởng cho đến chí cầu vô thượng Bồ-đề, được sức hộ trì của Phật Pháp Tăng nghiệp chướng thanh tịnh, căn lành không thoái lui. Bởi chân như lìa tất cả chướng đủ tất cả công đức. Tùy thuận chân như tu hành thiện nghiệp, gọi là phương tiện làm sinh trưởng căn lành.
4. Phương tiện Đại nguyện bình đẳng.
Nghĩa là phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh đến tột cùng đời vị lai, không bỏ sótrốt ráo khiến an trụ vô dư Niết-bàn. Bởi biết tất cả pháp bản tính không hai, đây kia bình đẳng, rốt ráo vắng lặng. Tùy thuận chân như phát 3 thệ nguyện lớn này, gọi là phương tiện Đại nguyện bình đẳng.
Bồ-tát khi phát tâm như vậy thì thấy được một phần ít pháp thân, có thể tùy theo nguyện lực, hiện 8 tướng. Đó là từ cung trời Đâu-suất xuống, vào thai, ở trong thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành Phật, chuyển pháp luân, vào Niết-bàn.
Nhưng chưa được gọi là pháp thân, bởi các nghiệp hữu lậu, từ vô lượng đời quá khứ đến nay, chưa dứt hẳn, hoặc do ác nghiệp thụ một ít khổ, hoặc do nguyện chứ không phải bị ràng buộc lâu.
Như trong kinh nói Bồ-tát tín thành tựu phát tâm có khi thoái lui sa vào nẻo ác, đó là chỉ vì các vị sơ học tâm nhiều giải đãi không nhập địa vị chính định tụ nên nói vậy để làm tăng tiến dũng m.nh chứ chẳng phải thật nói.
Lại Bồ-tát đó, một khi đã phát tâm rồi, tự lợi lợi tha tu các khổ hạnh tâm không khiếp nhược, còn không sợ sa vào Nhị thừa huống chi là đường ác. Dầu nghe phải tu hành khổ hạnh khó làm trong vô lượng vô biên kiếp A-tăng-kỳ mới thành Phật cũng không khiếp sợ, huống chi có khởi tâm Nhị thừa và đọa nẻo ác. Bởi đã quyết định tin tất cả pháp bản lai tự tính Niết-bàn.
Giải hành phát tâm là phải biết chuyển thắng. Bởi Bồ-tát này từ khi bắt đầu được chính tín đến nay, khi kiếp A-tăng-kỳ thứ nhất sắp đầy đủ, thì đối với pháp chân như hiểu được sâu sắc, tu tập tất cả hạnh đều không chấp trước.
Bồ-tát này biết pháp tínhtướng không xan tham, tức thanh tịnh thí độ, nên tùy thuận tu hành Đàn-na Ba-la-mật. Biết pháp tính là tướng lìa cảnh 5 dục không phá giới, là thanh tịnh giới độ, nên tùy thuận tu hành Thi Ba-la-mật. Biết pháp tínhtướng không khổ não, lìa các giận hờn, tức thanh tịnh nhẫn độ, nên tùy thuận tu hành Sằng-đề Ba-la-mật. Biết pháp tính lìa tướng thân tâm, không có giải đãithanh tịnh tiến độ, nên tùy thuận tu hành Tỳ-lê-da Ba-la-mật. Biết pháp tính không động, không loạn là thanh tịnh thiền độ, nên tùy thuận tu hành Thiền-na Ba-la-mật. Biết pháp tính lìa các si ámthanh tịnh tuệ độ, nên tùy thuận tu hành Bát-nh. Ba-la-mật.
Chứng phát tâm là các Bồ-tát, từ tịnh tâm địa cho đến cứu kính địa, chứng cảnh giới gì ?
Đó là chân như. Do dựa vào chuyển thức mà gọi là cảnh giới, chứ trong thật chứng không có tướng cảnh giới. Bồ-tát này dùng trí vô phân biệt chứng chân như pháp thân lìa ngôn thuyết, nên trong khoảng một niệm, có thể đến khắp 10 phương vô lượng thế giới cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân, chỉ để làm lợi ích chúng sinh, mà không cầu tiếng khen hay đẹp. Hoặc vì các chúng sinh khiếp nhược mà thị hiện Đại tinh tiến vượt vô lượng kiếp chóng thành chính giác. Hoặc vì các chúng sinh biếng nhác trễ nãi nên nói ta trải qua vô lượng kiếp A-tăng-kỳ tu hành khổ hạnh mới thành Phật.
Thị hiện vô số phương tiện như vậy đều vì lợi ích tất cả chúng sinh, nhưng thật sự th. các
Bồ-tát, chủng tính và căn đều b.nh đẳng, phát tâm cũng bình đẳng, chỗ chứng cũng bình đẳng, không có pháp vượt bậc, bởi vì tất cả Bồ-tát đều phải trải qua 3 kiếp A-tăng-kỳ mới thành chính giác. Chỉ vì tùy theo chúng sinh trong thế giới không đồng, chỗ thấy chỗ nghe, căn cơ dục vọng khác nhau nên Bồ-tát thị hiện tu hành cũng khác nhau.
Trong chứng phát tâm của các Bồ-tát này có 3 thứ tâm :
1. Chân tâm, vì không phân biệt.
2. Phương tiện tâm, vì tự nhiên làm việc lợi tha.
3. Nghiệp thức tâm, vì khởi diệt vi tế.
Lại nữa, Bồ-tát này 2 thứ phúc đức trí tuệ trang nghiêm viên mãn, ở cõi trời Sắc cứu cánh, được thân cao lớn nhất trong tất cả thế gian. Do một niệm tương ưng với tuệ thì gốc vô minh liền hết, đầy đủ Nhất thiết chủng trí, tự nhiên có nghiệp không thể nghĩ bàn, hóa độ khắp chúng sinh trong 10 phương vô lượng thế giới.
Hỏi : Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên.
Chúng sinh vô biên nên tâm hành sai khác cũng vô biên. Những cảnh giới như vậy thật không giới hạn, khó biết khó hiểu, nếu đoạn vô minh, không còn tâm tưởng, thì làm sao rõ được tất cả mọi thứ mà thành Nhất thiết chủng trí ?
Đáp : Tất cả cảnh giới vọng, tính của nó bản lai là lý chỉ có một tâm. Tất cả chúng sinh chấp trước cảnh giới vọng, không thể biết được tính Đệ nhất nghĩa của tất cả các pháp.
Chư Phật Như Lai không chấp trước thì có thể hiện thấy thật tính các pháp mà có Đại trí soi tỏ tất cả nhiễm tịnh sai biệt bằng vô lượng vô biên phương tiện khéo léo, tùy theo đó làm lợi lạc chúng sinh. Cho nên tâm vọng niệm mọi thứ diệt rồi, tức thành Nhất thiết chủng trí.
Hỏi : Nếu chư Phật có vô biên phương tiện có thể tự nhiên hiện ra được trong 10 phương làm lợi ích chúng sinh, thì tại sao chúng sinh không thường thấy Phật, hoặc thấy thần thông biến hóa của Phật, hoặc nghe Phật thuyết pháp ?
Đáp : Như Lai thật có các phương tiện như vậy nhưng chúng sinh phải tâm thanh tịnh mới hiện thân. Như gương soi nếu bẩn thì hình sắc không hiện, trừ bẩn thì hiện. Tâm chúng sinh cũng vậy, chưa lìa nhiễm bẩn thì pháp thân không hiện, lìa nhiễm bẩn thì hiện.
Làm sao tu tập tín phần ?
Đây là nói theo chúng sinh chưa nhập chính định tụ.
Những gì là tín tâm và làm sao tu tập ?
Tín tâm có 4 thứ :
1. Tin căn bản, nghĩa là thích nghĩ nhớ pháp chân như.
2. Tin Phật đầy đủ vô biên công đức, thường thích đảnh lễ cung kính cúng dường, để nghe chính pháp, như pháp tu hành, hồi hướng Nhất thiết trí.
3. Tin Pháp có lợi ích lớn, thường thích tu hành các pháp Ba-la-mật.
4. Tin Tăng chân chính tu hành thường cúng dường các chúng Bồ-tát chính tu các hạnh tự lợi lợi tha.
Có 5 môn tu hành có thể thành tựu tín tâm này. Đó là thí môn, giới môn, nhẫn môn, tinh tiến môn, và chỉ quán môn.
Tu thí môn như thế nào ?
Là nếu thấy chúng sinh đến cầu xin, thì đem tài vật của m.nh tùy sức bố thí bỏ tính xan tham của mình và làm cho người kia vui vẻ.
Nếu thấy chúng sinh bị ách nạn bức bách thì dùng phương tiện cứu giúp khiến không còn sợ hãi. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, thì tùy khả năng hiểu biết của m.nh, tùy nghi nói cho họ.
Khi tu hành 3 thứ bố thí như vậy phải không vì cầu danh lợi, cũng không tham trước quả báo thế gian, chỉ nghĩ đến mình và người được lợi ích an lạc, hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Tu giới môn như thế nào ?
Là Bồ-tát tại gia phải không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói đâm thọc, không lời ác độc, không nói dối, không nói lời thêu dệt, xa l.a tham lam, ganh ghét, lừa dối, dua nịnh, giận dữ, tà kiến.
Nếu là người xuất gia thì còn vì để bẻ gãy phiền não mà phải rời xa nơi ồn ào, thường ở nơi vắng lặng, tu tập các hạnh Đầu-đà, thiểu dục tri túc. Dù mắc tội nhỏ, cũng sinh tâm e sợ, xấu hổ hối cải. Giữ gìn giới cấm Như Lai đã chế, không để cho người thấy sinh cơ hiềm, làm cho chúng sinh bỏ ác tu thiện.
Tu nhẫn môn như thế nào ?
Là thấy xấu không ghét, gặp khổ không động, thường ưa quán sát cú nghĩa rất sâu.
Tu môn tinh tiến như thế nào ?
tu hành các việc thiện, tâm không lười biếng thoái lui. Phải nghĩ từ quá vô số kiếp đến nay, vì cầu cảnh giới tham dục thế gian mà luống chịu tất cả nỗi khổ lớn nơi thân tâm rốt cuộc chẳng được chút gì. Cho nên để xa lìa khổ này trong tương lai phải tinh tiến không sinh giải đẵi, Đại bi lợi ích tất cả chúng sinh.
Các sơ học Bồ-tát tuy tín tâm tu hành nhưng do từ đời trước nghiệp chướng, tội ác nặng nề nên hoặc bị tà ma quấy phá, hoặc vì việc đời ràng buộc, hoặc bệnh duyên bức bách.
Những hoạn nạn như vậy không phải chỉ có một, khiến người tu hành phế bỏ việc tu thiện.
Cho nên phải dũng m.nh tinh tiến, ngày đêm 6 buổi lễ bái chư Phật, tán thán cúng dường, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng vô thượng Bồ-đề, phát Đại thệ nguyện thường xuyên không nghỉ, khiến ác chướng tiêu diệt thiện căn tăng trưởng.
Tu môn chỉ quán như thế nào ?
Nghĩa của chỉ, là diệt hết tất cả cảnh giới hí luận. Thấy rõ tướng sinh diệt của nhân quả là nghĩa của quán.
Trước tiên tu tập riêng rẽ tăng trưởng dần dần. Cho đến khi thành tựu thì tự nhiên thực hành song song.
Nếu tu pháp chỉ thì ở nơi tĩnh lặng, ngồi ngay ngắn, giữ chính ý, không dựa vào hơi thở, không dựa vào hình sắc, không dựa vào hư không, không dựa vào địa, thủy, hỏa, phong, cho đến không dựa vào sự thấy nghe hay biết, trừ hết tất cả các tưởng niệm phân biệt đồng thời cũng loại bỏ ý tưởng đoạn trừ. Vì tất cả các pháp xưa nay không có tướng, không sinh không diệt. Tâm trước dựa vào cảnh, tiếp đến rời bỏ cảnh, niệm sau dựa vào tâm rồi lại rời bỏ tâm. Đem cái tâm đuổi theo ngoại cảnh trụ giữ vào nội tâm. Sau lại khởi tâm không chấp thủ tâm tướng, bởi lìa chân như là không thể được.
Đi đứng nằm ngồi trong tất cả thời không ngớt tu hành như vậy. Dần dần được nhập vào chân như Tam-muội, cuối cùng đè bẹp được tất cả phiền não, tín tâm tăng trưởng, chóng thành bất thoái.
Nếu ôm lòng nghi hoặc, phỉ báng không tín, nghiệp chướng trói buộc, ngã mạn, lười biếng, những người như vậy không thể nhập chân như Tam-muội được.
Lại nữa, do Tam-muội này chứng pháp giới tướng, biết pháp thân tất cả Như Lai với thân tất cả chúng sinh đều là một tướng bình đẳng không hai. Cho nên gọi đó là Nhất tướng Tam-muội.
Nếu tu tập Tam-muội này có thể sinh vô lượng Tam-muội. Bởi chân như là nơi căn bản của tất cả Tam-muội.
Hoặc có chúng sinh ít có căn lành, bị các tà ma ngoại đạo, quỉ thần, mê hoặc làm rối loạn.
Hoặc hiện hình tướng dữ ác để khủng bố tâm người. Hoặc hiện sắc đẹp mỹ miều để mê hoặc ý người. Hoặc hiện hình tượng chư thiên, hình tượng Bồ-tát hoặc cả h.nh Phật tướng tốt trang nghiêm. Hoặc nói tổng trì, hoặc nói các độ.
Hoặc giảng nói các môn giải thoát, không oán không thân, không nhân không quả, tất cả các pháp rốt ráo rỗng không vắng lặngbản tính Niết-bàn. Hoặc làm cho người ta biết những việc quá khứ vị lai, được tha tâm thông, được biện tài diễn thuyết lưu loát khiến tham trước danh dự lợi dưỡng. Hoặc làm cho người ta khi giận khi vui, hoặc đa bi đa ái, hoặc ngủ nhiều, hoặc bệnh tật, hoặc không siêng năng, hoặc bỗng dưng khởi tinh tiến, rồi sau lại phế bỏ, hoặc sinh nhiều nghi ngờ không tin thụ. Hoặc làm cho bỏ pháp tu thắng hạnh mà tu các tạp nghiệp, ưa thích thế sự, đắm đuối t.nh đời.
Hoặc khiến chứng đắc thiền định ngoại đạo, 1 ngày, 2 ngày cho đến 7 ngày trụ trong thiền định được hảo ẩm thực thân tâm thích khoái không biết đói khát. Hoặc lại khuyên thụ nữ sắc, hoặc khiến ăn uống khi ít khi nhiều, hoặc làm cho hình dung hoặc tốt hoặc xấu.
Nếu bị các phiền não quấy rối sẽ thoái mất thiện căn từ trước, cho nên phải quán sát kỹ càng. Phải nghĩ như vầy : Những thứ này đều do thiện căn ta mỏng manh nghiệp chướng sâu nặng nên bị ma quỷ mê hoặc. Biết như vậy rồi nghĩ rằng kia tất cả đều chỉ là tâm. Tư duy như vậy sát-na liền diệt, xa lìa các tướng, nhập chân Tam-muội.
Tâm tướng đã lìa, chân tướng cũng hết. Từ định khởi, các kiến phiền não đều không hiện hành vì đã bị sức Tam-muội phá hủy, thiện phẩm thù thắng tùy thuận tiếp nối, tất cả chướng nạn đều lìa xa, khởi Đại tinh tiến hằng không tuyệt dứt.
Nếu không tu tập pháp Tam-muội này sẽ không vào được chủng tính Như Lai, bởi các Tam-muội khác đều có tướng chung với ngoại đạo, không gặp được Phật Bồ-tát.
Cho nên Bồ-tát đối với Tam-muội này phải siêng tu tập cho thành tựu rốt ráo.
Tu tập Tam-muội này, hiện thân sẽ được 10 thứ lợi ích :
1. Thường được chư Phật Bồ-tát 10 phương hộ niệm.
2. Không bị các tà ma ác quỉ quấy rối.
3. Không bị tất cả tà đạo mê hoặc.
4. Khiến nghiệp chướng tội nặng bởi phỉ báng chính pháp, dần dần giảm bớt.
5. Diệt tất cả nghi hoặc và các ác giác quán.
6. Tăng trưởng lòng tin đối với cảnh giới Như Lai.
7. Xa lìa mọi lo buồn khổ não, ở trong sinh tử, dũng mãnh không khiếp sợ.
8. Xa lìa kiêu mạn, tâm nhu hòa nhẫn nhục, thường được tất cả thế gian kính nể.
9. Dẫu không ở trong định nhưng trong tất cả thời, tất cả cảnh giới, phiền não giảm nhẹ không hiện khởi.
10. Nếu ở trong định thì không bị tất cả các thứ âm thanh bên ngoài làm kinh động.
Lại nữa, nếu chỉ tu pháp chỉ, thì tâm chìm lặng, hoặc sinh lười biếng, không thích các điều thiện, xa lìa Đại bi, cho nên cần phải tu quán.
Tu như thế nào ?
Nghĩa là phải quán tất cả các pháp thế gian sinh diệt không ngừng. Vì vô thường nên khổ, khổ nên không có ngã. Phải quán pháp quá khứ như chiêm bao, pháp hiện tại như điện chớp, pháp vị lai như mây bỗng nhiên nổi lên. Phải quán thân thể đều bất tịnh, có nhiều thứ trùng nhơ hòa lẫn phiền não.
Quán các phàm ngu thấy các pháp, trong cái không có gì vọng chấp là có. Quán sát tất cả từ pháp duyên sinh, đều như huyễn rốt ráo không thật. Quán Đệ nhất nghĩa đế chẳng phải tâm hành không thể nói ra không thể ví dụ.
Quán tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay đều do sức vô minh huân tập, làm cho thân tâm phải chịu vô lượng khổ lớn. Hiện tại vị lai cái khổ cũng không biết đến chừng nào. Chúng sinh ở trong đó mà không biết, rất đáng thương thay.
Quán như vậy rồi sinh trí quyết định, khởi Đại bi rộng lớn, dũng mãnh lập thệ nguyện lớn, nguyện cho tâm mình, do lìa các điên đảo, đoạn dứt các phân biệt, thân cận chư Phật Bồ-tát, đảnh lễ cúng dường, cung kính tán thán nghe pháp tu hành cho đến tột cùng đời vị lai không dừng nghỉ, dùng vô lượng phương tiện cứu vớt tất cả chúng sinh trong biển khổ khiến trụ nơi cái vui Đệ nhất nghĩa của Niết-bàn.
Phát nguyện như vậy rồi, trong tất cả mọi thời, tùy khả năng mình mà tu hạnh tự lợi lợi tha. Đi đứng nằm ngồi thường xuyên quan sát cái gì nên làm không nên làm. Đó gọi là tu quán.
Lại nữa, nếu chỉ tu quán thì tâm không dừng lại, sinh nhiều nghi hoặc không tùy thuận
Đệ nhất nghĩa đế, không phát sinh trí vô phân biệt. Cho nên chỉ quán phải song tu. Nghĩa là mặc dầu nghĩ nhớ tất cả pháp đều không có tự tính, không sinh không diệt bản lai vắng lặng, tự tính Niết-bàn, nhưng cũng phải thấy nhân duyên hòa hợp, nghiệp báo thiện ác không mất không hoại. Tuy nghĩ nhớ nhân duyên nghiệp báo thiện ác mà cũng thấy tất cả pháp không sinh, không tự tính cho đến Niết-bàn.
Tu hành pháp chỉ thì đối trị sự đắm trước sinh tử của phàm phu, cũng đối trị sự chấp đắm sinh tử mà sinh sợ hãi của Nhị thừa.
Tu hành pháp quán thì đối trị sự không tu thiện căn của phàm phu, cũng đối trị cái lỗi tâm hẹp hòi không khởi Đại bi của Nhị thừa.
Cho nên 2 pháp chỉ quán giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau. Nếu không đủ cả chỉ quán thì không được vô thượng Bồ-đề.
Lại nữa, sơ học Bồ-tát ở nơi thế giới Ta-bà này hoặc gặp cảnh khổ nóng lạnh gió mưa hay bất chợt nạn đói, hoặc gặp chúng sinh bất thiện đáng sợ, 3 độc trói buộc, tà kiến điên đảo mà bỏ con đường thiện làm theo pháp ác, Bồ-tát trong đó tâm sinh khiếp nhược, sợ không gặp được chư Phật Bồ-tát, sợ không thể thành tựu tín tâm thanh tịnh sinh nghi muốn thoái lui thì phải nghĩ như vầy : Chư Phật Bồ-tát 10 phương đều đắc Đại thần thông không có chướng ngại, có thể dùng các thứ phương tiện khéo léo cứu vớt tất cả chúng sinh hiểm nạn. Nghĩ như vậy rồi, phát Đại thệ nguyện, nhất tâm chuyên niệm Phật và Bồ-tát. Do sinh tâm quyết định như vậy nên mạng chung quyết được vọng sinh trong các cõi Phật, gặp Phật Bồ-tát tín tâm thành tựu hằng lìa nẻo ác.
Như kinh nói : Nếu thiện nam thiện nữ chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, đem thiện căn này hồi hướng nguyện sinh thì quyết định được vọng sinh và nhờ thường thấy Phật nên tín tâm tăng trưởng vĩnh viễn không thoái chuyển. Ở đó nghe pháp, quán pháp thân Phật, lần lượt tu hành được nhập địa vị chính giác.
Phần lợi ích như thế nào ?.
Như vậy pháp Đại thừa là kho tàng sâu kín của chư Phật, tôi đã lược nói xong. Nếu có chúng sinh muốn sinh chính tín và không chướng ngại đối với cảnh giới rất sâu của Như
Lai để vào con đường Đại thừa, thì nên tiếp nhận Luận này, suy nghĩ tu tập. Phải biết người này quyết định chóng thành Nhất thiết chủng trí.
Nếu ai nghe pháp này không sinh kinh sợ, thì phải biết người đó quyết định sẽ nối dòng giống Phật, chóng được thụ ký.
Giả sử có người giáo hóa chúng sinh đầy khắp 3 ngàn Đại thiên thế giới, khiến tu hành
Thập thiện, cũng không bằng người trong giây lát, chân chính suy nghĩ pháp này thì công đức hơn người trước vô lượng vô biên.
Nếu theo đúng tu hành trong một ngày một đêm, công đức cũng vô lượng vô biên, không thể nói xiết. Dầu cho tất cả chư Phật 10 phương, mỗi mỗi đều khen ngợi công đức ấy trong vô lượng vô biên kiếp A-tăng-kỳ cũng không hết được. Vì công đức của chân như là không bờ bến, nên công đức tu hành cũng không bờ bến.
Nếu ai phỉ báng pháp này thì bị vô lượng tội báo phải chịu khổ não lớn trong kiếp A-tăng-kỳ.
Cho nên đối với pháp này phải quyết định tin, chớ nên phỉ báng, đã hại mình còn hại người, làm tuyệt dứt giống Tam bảo. Tất cả chư Phật đều do pháp này tu hành thành vô thượng trí. Tất cả Bồ-tát đều do tu hành pháp này mà chứng đắc Như Lai pháp thân.
Quá khứ các Bồ-tát do pháp này mà thành tựu Đại thừa tịnh tín. Các Bồ-tát hiện tại nay thành, các Bồ-tát vị lai sẽ thành. Cho nên muốn thành tựu hạnh thù thắng tự lợi lợi tha cần phải siêng năng tu học luận này.
Tôi nay đã giải thích
Nghĩa Đại thừa sâu rộng,
Công đức thí quần sinh,
Khiến thấy chân như pháp
./.


Luận Đại Thừa Khởi Tín
(Quyển Hạ hết)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15187)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12090)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant