Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ Tư

25 Tháng Tư 201400:00(Xem: 9042)
Quyển Thứ Tư


LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT


Tác giả: Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa)

Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala)

nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. 

Sa Môn Thích Như Điển, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt



Quyển Thứ Tư 

Phẩm Hành Môn 
Thứ 8 - Phần một

Hỏi rằng: Vì sao gọi là địa nhứt thiết nhập? Tu môn gì? Tướng gì? Vị gì? Xứ gì? Công đức gì? Nhứt thiết nhập là nghĩa gì? Có bao nhiêu loại địa và địa nào chấp tướng? Vì sao làm pháp Mạn Đà La? Tu theo pháp địa gì? 

Đáp rằng: Tâm nầy nương vào tướng của địa mà sanh. Đây gọi là địa nhứt thiết nhập. Trụ tâm chẳng loạn gọi tên là tu. Lành vui tưởng đến địa, lấy làm tướng. Bất xả là vị. Ý chẳng khác niệm lấy làm xứ. Công đức ở đây có nghĩa là 12 công đức từ địa nhứt thiết nhập, đây là tướng dễ được. Đối với tất cả lúc, đối với tất cả hành, tâm hành chẳng nghi, như ý thần thông. Đi trên nước hay ở hư không cũng giống như ở trên đất, thọ nhận nhiều loại biện tài. Đầu tiên là nhớ nghĩ đến túc mệnhthiên nhĩ giới biện tài. Tùy theo việc làm lành và cam bồ làm biên giới

Hỏi rằng: Nhứt thiết nhập nghĩa gì? 
Đáp rằng: Đó là phổ cập nhứt thiết nhập. Như Phật đã nói kệ rằng: 
Nếu người niệm Phật đức 
Sanh vui khắp cùng thân 
Quán địa nhứt thiết nhập 
Khắp cùng Diêm Phù Đề 
Chỉ quán nương địa sanh 
Tâm vui cũng như vậy. 
Tu như thế nầy, thấy Mạn Đà La biến nhứt thiết nhập.

Hỏi rằng: Địa có bao nhiêu loại? Địa nào chấp tướng mà có thể tu? 
Đáp rằng: Địa có 2 loại. Một là tự tướng địa; hai là tạo tác địa. Cứng là tự tướng của đất. Đây nghĩa là tự tướng địa. Nếu lấy tay tự mình đào rồi bảo người khác đào, tạo tác được thành; gọi đây là tác địa. Thành 4 loại màu. Đó là trắng, đen, đỏ và màu sáng suốt. Đối với người ngồi thiền, đối với tự tướng địa. Từ đây chẳng khởi tướng từng phần kia. Nếu chấp vào màu trắng, đen, đỏ thành ra tu sắc nhứt thiết nhập. Vì sao vậy? 
Quán tự tướng của đất, lìa trắng đen đỏ. Hoặc làm hoặc chẳng làm, sẽ giữ cái tướng nầy. Như minh tướng hiện sẽ chấp tướng nầy. 
Hỏi rằng: Vì sao gọi là bất tác địa? 
Đáp rằng: Nơi nơi đều bằng phẳng, không có cỏ đá và không có các loại gốc cây. Đối với cảnh của mắt nầy sẽ làm cho tâm khởi. Đây có tên gọi là địa tưởng. Đây nghĩa là bất tác địa. 
Nếu xưa tọa thiền tùy đó mà vui hay chẳng vui, tức là thấy được phần địa tướng kia, trụ ở nơi bất thối. Kẻ mới học thiền chấp vào tướng của tác địa và tạo ra Mạn Đà La. Chẳng quán, chẳng tác địa. 

Hỏi rằng: Vì sao lại tạo Mạn Đà La? 
Đáp rằng: Nếu người tọa thiền muốn ở nơi địa tạo Mạn Đà La thì đầu tiên từ chỗ quán tịch tĩnh; hoặc ở nơi chùa, phòng hoặc ở trong động đá; hoặc ở dưới gốc cây. Chẳng ở nơi tối không có ánh sáng, không người qua lại. Đối với những nơi như thế đều xa một khoảng cách. Rửa quét cho sạch rồi làm cho đất bằng và nơi đó lúc minh tướng hiện, lấy đất màu xử dụng cùng đất để tạo nên thành tướng. Lần lượt thích nghi, oai nghi cung kính rồi lấy đồ trộn nước vào đất. Lấy cỏ cây, đất cát và phẩn trộn lộn, rồi lấy vải đựng bùn ấy, đoạn lấy đất sạch, ngồi nơi chỗ khuất, đừng cho ánh sáng vào và an trí nơi đó để tọa thiền. Chẳng gần chẳng xa rồi viên tròn lại. Viên thật khéo cho đều, sau đó lấy bột đất có nhiều màu và phân ra từng màu một, chẳng tạp rồi cho vào đất. Cho đến đầy đủ che khắp, giữ gìn. Đến khi khô ráo lấy màu khác cho vào bên ngoài. Hoặc lớn như hột lúa; hoặc lớn như cái thanh la; hoặc tròn hoặc cạnh; hoặc tam giác tứ giác; nên rõ phân biệt. Đức Bổn Sư đã dạy rằng: 
Làm Mạn Đà La là công việc tối thắng. Hoặc nơi vải, hoặc nơi gỗ, hoặc nơi tuờng, đều có thể làm Mạn Đà La. Đối với địa tối thắng. Như thế người xưa đã nói. 

Hỏi rằng: Vì sao tu địa pháp? 
Đáp rằng: Nếu người tọa thiền muốn tu địa nhứt thiết nhập; đầu tiên nên quán về dục quá hoạn. Lại nên quán ra khỏi công đức
Hỏi rằng: Vì sao nên quán dục quá hoạn? 
Đáp rằng: Dục là khí vị ít mà nhiều ưa khổ. Đối với việc nầy nhiều quá hoạn. Dục cũng giống như xương, dụ cho khí vị ít. Dục cũng giống như thịt tan nát ra, lấy sự lệ thuộc vậy. Dục giống như lửa nghịch gió, thiêu cháy vậy. Dục giống như củi than lớn nhỏ. Dục giống như giấc mộng, chẳng có thật vậy. Dục cũng như chứa đồ vật dụ cho sức bền chắc chẳng dài lâu. Dục cũng giống như trái cây vì người bẻ đi vậy. Dục cũng giống như con dao dùng để chặt đốn cây. Dục cũng giống như một lưỡi giáo, dùng để cắt vậy. Dục cũng giống như đầu rắn độc. Có thể tạo sự sợ hãi vậy. Dục cũng giống như gió thổi bông, chẳng thể giữ lại được. Dục cũng giống như điều huyễn mộng mà người si ngờ vực. Dục chính là chỗ tối tăm, chẳng thể thấy được. Dục chính là sự chướng ngại làm ngăn trở những pháp lành vậy. Dục chính là si mê làm mất chánh niệm. Dục chính là ngọn lửa nung cháy vậy. Dục chính là việc cột vào giới tướng. Dục chính là ăn cắp công đức vậy. Dục chính là oan gia khởi lên việc đấu tranh vậy. Dục chính là khổ, tạo ra những quá hoạn vậy. Như thế đã rõ dục là quá hoạn rồi; nên quán lìa xa công đức. Gọi sự xuất ly nầy là sơ thiền đối với người mới xuất gia tu những việc lành. Đây gọi tâm là xuất ly

Hỏi rằng: Vì sao gọi là xuất ly công đức? 
Đáp rằng: Đó là cái tâm vô tận ở nơi tự tại và thường vui tịch tĩnh. Kham nhẫn việc khổ vui, ở nơi chẳng quên mất. Rộng độ các việc, được chỗ đất lớn, kham thọ cúng dường. Làm lợi lạc cho 2 nơi. Đây là đại trí huệ; đây là tất cả thiện xứ; đây gọi tên là siêu tam giới. Lại nữa gọi đây là xuất ly. Sự rời khỏi việc ham muốn về dân, là sự tịch tĩnh các sự che đậy, là niềm vui chẳng dơ. Đây là nơi tối thắng địa. Đây là con đường được tối thắng. Đây là chỗ thanh tịnh của tâm dơ. Đây là công đức tu hành đã tạo. Đây là niềm vui bên trong của việc tu hành. Dục là thô; ra khỏi là thắng diệu. Dục chính là phiền não; ra khỏi chính là chẳng phiền não. Dục là thấp hèn; ra khỏi đó chính là cao thượng. Dục chính là sân nhuế; ra khỏi đó chính là vô sân nhuế. Dục chính là quả chẳng dễ thương; ra khỏi đó chính là quả dễ thương. Dục chính là sự sợ hãi; ra khỏi đó chính là sự không sợ hãi. Như thế đã quán về sự dâm dục quá hoạn rồi, lại quán xuất ly công đức. Nương vào xuất ly sanh ra dục lạc. Tâm sanh lòng tin, sanh sự cung kính. Quán việc có thể làm và không thể làm. Nương vào sự tiết chế ăn uống, chỗ để y bát; thân chẳng mỏi mệt, tâm chẳng giải đãi; nên đi dạo và dạo xong rồi, nên rửa tay chân; nên niệm Phật; niệm Bồ Đề, niệm Pháp Tăng. Tu hạnh lành, niệm rồi, sẽ tạo ra hoan hỷ. Ta có thể như thế mà được đầy đủ. Nếu ta chẳng được xuất ly, lại chẳng an ổn tinh tấn lâu dài; do vậy nên siêng năng hơn. Với Mạn Đà La chẳng gần chẳng xa. Như các ách chẳng rời xa; nên ở yên nơi chỗ ngồi và ngồi kiết già đối diện với Mạn Đà La, làm cho thân ngay ngắn lại. Trong tâm khởi niệm, mở mắt nho nhỏ để trừ thân tâm loạn, nhiếp tất cả tâm thành một. Tâm được mở rồi, phảng phất làm cho quán Mạn Đà La và người ngồi thiền kia hiện quán hình Mạn Đà La, lấy 3 hình chấp tướng, lấy đẳng quán làm phương tiện để lìa sự loạn động

Hỏi rằng: Vì sao lấy đẳng quán? 
Đáp rằng: Người tọa thiền hiện đang quán về Mạn Đà La chẳng mở mắt lớn chẳng đóng mắt lại. Như thế mà quán. 
Vì sao vậy? 
Nếu mở mắt lớn thì mắt nầy sẽ mỏi. Mạn Đà La tự tánh hiện thấy tự tánh, tưởng về phần khác chẳng khởi lên. Nếu đóng chặt mắt hết lại, thấy Mạn Đà La trong bóng tối. Lại chẳng thấy được tướng kia, liền sanh giải đãi. Cho nên phải lìa việc mở hết hoặc nhắm mắt hoàn toàn. Chỉ chuyên tâm trụ vào nơi Mạn Đà La. Vì tâm trụ rồi sẽ quán như người xem ảnh mình nơi kiếng thấy hình. Nương vào kiếng ấy thấy mặt mình và mặt ấy từ kiếng mà sanh ra. Người tọa thiền kia quán Mạn Đà La thấy được tướng định nầy rồi nương vào Mạn Đà La mà khởi. Cho nên sẽ quán đẳng quán giữ làm tướng, làm cho tâm ở yên vậy. Như thế lấy đẳng quán giữ lại làm tướng. 

Hỏi rằng: Vì sao lấy phương tiện? 
Đáp rằng: Lấy 4 tác ý làm phương tiện. Một là bên trong ngăn cách; hai là mãn phương (đầy đủ), ba là thay đổi và bốn là biến khắp. Đây là thấy tướng tan khắp không ngăn cách. Lúc ấy nên tạo tác ý cho sự ngăn cách bên trong. Khi đó sẽ thấy tướng nhỏ; hoặc thấy nửa Mạn Đà La. Bấy giờ làm cho xong Mạn Đà La rồi, tác ý làm cho sung mãn. Lúc ấy tâm tán loạn và tâm lười biếng. Lúc ấy nên khóa lại như khóa cửa nhà. Lúc ấy nếu tâm được ở yên, thì nên làm cho thấy Mạn Đà La đầy khắp, chẳng vui rồi quán xả. Như thế lấy phương tiện có thể biết được. 

Hỏi rằng: Vì sao lấy ly loạn? 
Đáp rằng: Ly loạn có 4 loại. Một là quá mau, tạo ra siêng năng; hai là quá trì trệ, tạo ra siêng năng; ba là quá cao; bốn là quá thấp. 
Hỏi rằng: Sao lại nói quá mau, tạo ra sự siêng năng? 
Đáp rằng: Tật mau tác ý, chẳng chờ thời tiết; sáng ngồi tối ngồi cho đến khi thân mệt. Đây gọi là tốc tác. 

Hỏi rằng: Sao gọi là trì trệ, tạo ra sự siêng năng? 
Đáp rằng: Lìa tác ý làm phương tiện. Tuy thấy Mạn Đà La, chẳng cung kính tác ý; lúc tỉnh lúc buồn ngủ. Nếu mau siêng năng, tức thành thân mệt, tâm thoái. Tâm ra ngoại duyên, khởi lên các việc hí luận. Nếu trì trệ tạo ra sự siêng năng, thân tâm thành ỷ lại giải đãi, khởi lên sự buồn ngủ. Chỗ quá cao thì tâm nầy thoái, khởi lên một việc loạn. Đối với chỗ hành xứ, thành ra chẳng vui. Hoặc đối với việc đầu tiên hay nói cười hí luận. Chỉ vì tâm dục cao ngạo. 
Lại nữa nếu được các tướng hành là do hỉ lạc, tâm dục thành cao. Tối thấp nghĩa là thoái đi các duyên. Đối với nghiệp xứ thành chẳng vui. Nếu chẳng vui nơi sơ hành xứ lại tạo ra chỗ sân xứ. Do tâm sân nhuế, trở thành thấp. 
Lại nữa nếu mệt mà lại quán thì từ tốt sẽ làm cho tâm rơi vào chỗ xấu. Do ưu áitâm thành ra thấp. Người tọa thiền nầy, nếu tâm mau làm thoái đọa thì niệm căn, định căn nhiếp phục, làm cho xả bỏ. Nếu tâm tiến đến làm thoái đọa chuyện giải đãi thì lấy niệm tinh tấn câu nhiếp phục và làm cho mất đi sự giải đãi. Nếu cao tâm thoái đọa dục xứ, thành hiện biết, làm cho xả dục. Nếu hạ tâm thoái đọa nơi sân nhuế, thành hiện trí, làm cho xả sân nhuế
Đây là 4 xứ thành tâm thanh tịnh, thành chuyên một tâm. Đây là cái nhơn sáng của 3 việc định tâmtùy theo ý để được thấy hình Mạn Đà La. Nếu chuyên nhứt tâm chuyển thành gọi là tướng khởi và có 2 loại. Nghĩa là thủ tướng
Phần tướng kia vì sao gọi là thủ tướng? Nếu người tọa thiền kia chẳng tán tâmhiện quán Mạn Đà La thì từ Mạn Đà La ấy khởi tướng, như đối với hư không mà thấy; hoặc lúc xa, hoặc lúc gần; hoặc lúc trái, hoặc lúc phải; hoặc lúc lớn, hoặc lúc nhỏ; hoặc lúc xấu, hoặc lúc tốt; hoặc lúc nhiều, hoặc lúc ít, chẳng lấy mắt để quán Mạn Đà La. Lấy tác ý phương tiện, giữ tướng khởi. Đây gọi là thủ tướng. Từ việc làm nhiều kia, phần tướng kia khởi, gọi là bỉ phần tướng. Nếu lúc tác ý, tùy theo tâm liền hiện. Chẳng thấy Mạn Đà La, sau đó sanh tâm niệm; liền làm cho tâm đóng mắt lại như chỗ quán đầu tiên. Hoặc xa tác ý lại liền thấy xa; hoặc gần trái phải trước sau, trong ngoài trên dưới, lại cũng như thế. Tùy tâm liền hiện. Đây gọi là bỉ phần tướng. 
Tướng ấy nghĩa là gì? 
Đó là nghĩa nhơn và nghĩa tướng. Như Phật dạy các vị Tỳ Kheo rằng: Những điều ác kia chẳng phải là những pháp lành. Có tướng khởi là nghĩa của nhơn duyên. Lại nói nghĩa của trí, nghĩa của tướng. Như Phật đã dạy lấy tác tưởng mà xả. Đây là nghĩa của trí. 
Lại nói về nghĩa hình ảnh và nghĩa của tướng. Như thấy chính mắt của mình và nghĩ về hình ảnh ấy. Phần kia không khác nghĩa. Lúc ấy được tướng; người tọa thiền đối với Thầy nầy khởi tâm cung kính, giữ nơi tướng tốt và sanh ra việc bảo hộ. Hoặc chẳng bảo hộ thì liền mất đi. 
Hỏi rằng: Vì sao lại nên thủ hộ? 
Đáp rằng: Lấy 3 chủng hạnh, nên tướng thủ hộ. Như vậy lấy lìa việc ác, lấy sự tu hành lành, lấy chỗ thường làm vậy. 
Vì sao lìa việc chẳng thiện? 
Vui ở nơi công việc. Vui nói nhiều lời hí luận; vui ngủ nghỉ, vui tụ hội, vui nhờn tục tĩu. Chẳng giữ gìn các căn; chẳng giảm bớt việc ăn uống. Đầu đêm cuối đêm chẳng dậy ngồi thiền. Chẳng kính chỗ học; nhiều bạn xấu, chẳng tu hành gì. Nên xa lìa việc chẳng tốt, giảm ăn, nằm ngồi chăng? Đổ đối trị với kia thì những việc lành phải hay thường làm. 

Hỏi rằng: Thế nào là thường tác? 
Đáp rằng: Người tọa thiền kia lành giữ tướng nầy, thường hay quán công đức nầy, như nhớ đến trân châu, thường hoan hỷ làm, thường tu hay tu; hoặc ngày đêm tu hành nhiều; hoặc vui với ngồi nằm và tâm vui phan duyên. Nơi nơi đều phóng tâm; chấp tướng giữ lấy; giữ rồi làm cho khởi lên; khởi lên rồi quán theo; quán rồi tu, tu có lúc quán Mạn Đà La. Như thế thường tác thấy tướng. Kia như thế hiện tướng thủ hộ, thành được tự tại. Nếu tướng theo tâm được thiền ngoại hành; hoặc ngoại hành từ tâm. Do đây được an. 

Hỏi rằng: Thế nào là thiền ngoại hành? 
Đáp rằng: Đây là việc từ tâm, tác ý chẳng loạn; lấy phục làm chỗ che, thường cầu tu hành giác quán, hỉ lạc một tâm và tin vào nơi ngũ căn.Tuy được định lực, niệm niệm dụ khởi. Đây gọi là thiền ngoại hành. Kẻ yên ổn, từ ngoại hành nầy, đây là pháp do tâm, được lực tu hành, là giác tín các pháp, đối với việc chẳng động. Đây gọi là an. 

Hỏi rằng: Ngoại hành và an là gì? Có gì khác nhau? 
Đáp rằng: Nếu có ngũ cái tức là ngoại hành, lấy che lên 5 loại nầy liền yên; lấy thiền ngoại hành làm chỗ thắng định. Nếu được thắng định, gọi tên là an; hoặc lấy thân tâm chưa được tịch tịnh; đối với ngoại định, tâm động; như thuyền trên sóng. Hoặc nơi thân tâm đã được tịch tĩnh rồi, xứ yên chẳng động như thuyền chỉ có gió nằm trên nước. Các căn chẳng có lực. Đối với chỗ làm ngoại thiền hành nầy chẳng lâu dài, như đồng tử nhỏ, các căn mạnh khỏe, mọi việc an tịnh dài lâu, như có lực người, tu bất tự tại cho nên thiền ngoại hành thành chẳng hòa hợp. Như người tụng kinh lâu dài thêm mỏi, quên đi việc tu tự tại nên thành yên ổn hòa hợp. Như người tụng kinh hằng luyện chẳng quên. Nếu chẳng được lành che thì giống như người mù; đối với thiền ngoại hành thành mù mờ. Như thế chẳng thanh tịnh. Nếu lành che chẳng thành mù thì việc thành an tịnh như thế thanh tịnh. Từ tướng tự tại đầu tiên, cho đến tánh trừ tên là ngoại hành. Tánh trừ vô gián tên là an. 

Hỏi rằng: Ngoại hành là nghĩa gì? 
Đáp rằng: Thiền gần nên gọi là ngoại hành. Như đường đi gần xóm. Đây gọi là thôn lộ. Nghĩa một, tên khác 
An là nghĩa gì? 
An là nghĩa hòa hợp, như đến Mạn Đà La. Xa lìa thiền an, chẳng khác nghĩa. Đối với người tọa thiền nầy tụ ở ngoại hành. Nên làm cho tăng trưởng nhứt thiết nhập. Hoặc đối với sụ an định; hoặc đối với việc mới, thiền sẽ làm cho tăng trưởng

Hỏi rằng: Nên làm cho tăng trưởng như thế nào? 
Đáp rằng: Từ tướng ban đầu như tay 4 ngón, làm cho dần tăng, như thế tác ý, như thế được tự tại. Như thế lần lượt như bánh xe, như đồ che, như bóng cây, như phước điền, như gần nhà, gần làng; như là thành; như thế lần lượt dần làm cho tăng trưởng khắp đại địa nầy. Hoặc sông núi cao thấp, cây cỏ hoa trái. Những điều không bình thường chơn chánh, như thế tất cả chẳng tác ý. Cho đến đại hải tác ý địa tưởng. Cho đến lúc tăng trưởng, tâm sở hành, thành tối thắng định. Nếu người tọa thiền được thiền ngoại hành, chẳng thể được an định; người tọa thiền nầy lấy 2 hành nên làm cho khởi an định phương tiện. Một là lấy nhơn duyên; hai là lấy thọ trì. Lấy 10 việc làm từ nhơn duyên khởi an định phương tiện
Một là làm cho quán xứ sáng, đẹp; hai là biến khởi quán các căn; ba là sớm rõ nơi tướng; bốn là chế ngự tâm làm cho điều hòa; năm là hàng phục giải đãi; sáu là tâm chẳng vị trước; bảy là tâm hoan hỷ; tám là tâm định, thành, xả; chín là lìa người không học định, gần gũi với người học định; mười là vui trước làm cho tâm an định

Hỏi rằng: Làm sao làm cho được minh tịnh xứ quán? 
Đáp rằng: Có 3 loại việc làm, được tạo ra chỗ phân minh. Nghĩa là có thể tu điều khiển việc ăn uống, an vui. Tu thời tiết vui; tu oai nghi vui. Biến khởi các căn. Kẻ quán nghĩa là tín cùng 5 căn, chẳng làm cho tiêu diệt, không làm cho giải đãi; như ngựa nhanh chạy xe, sáng rõ nơi tướng. Các ý tưởng lành chẳng mau chẳng chậm. Như người thợ nhuộm màu bình đẳng chẳng thiên vị. Lành giải tác ý nhanh lìa, chẳng lìa. Chế ngự tâm làm cho điều phục. Có hai loại việc làm, lấy 2 công việc nầy thành điều phục tâm. Một là hay khởi lên sự tinh tấn; hai là tâm quá độ xứ, thành tâm điều phục. Hoặc đến ở chỗ dâm và nhiều loại tướng khác, tăng trưởng loạn ý, thành nơi tâm điều phục. Đối với người tọa thiền nếu khởi nhiều sự siêng năng, quá độ xứ, thành tâm điều phục; lấy 2 việc làm nên chế phục tâm. Lấy tinh tấn khởi, mỗi mỗi thích nghi; nếu qua chỗ dâm và các tướng khác, tăng trưởng việc điều tâm; lấy 2 việc làm chiết phục, lấy quán các việc khổ và quả báo ác, chế phục tâm giải đãi; lấy 2 việc làm thành tâm giải đãi, lấy chẳng được thắng định làm cho tâm vô vi nên thành giải đãi. Hoặc nhiều giải đãi tức muốn ngủ nghỉ. Đây là người tọa thiền; nếu chẳng được thắng định. Tâm vô vị trước nên thành giải đãi; lấy 2 việc làm sẽ chiết phục. Nghĩa là quán công đức mà khởi tinh tấn. Hoặc giải đãi ngủ nghỉ lười biếng tâm, lấy 4 loại việc làm có thể hàng phục. Hoặc kẻ ăn nhiều giữ về tưởng giải đãi. Chuyển các việc làm 4 oai nghi. Lấy tự tác ý, đối với tướng quang minh, trụ ở nơi rõ ràng, làm cho tâm hoan hỷ chẳng chỗ chấp trước. Lấy 3 việc làm thành vô vị, ít phương tiện, mà thuần huệ vậy. Lấy chẳng được tịch tĩnh mà vui vậy. Lấy người ngồi thiền nầy tâm hoặc vô vị; lấy 2 loại việc làm, làm cho được hoan hỷ; một là lấy sự khủng bố; hai là lấy sự hoan hỷ. Nếu quán sanh, già, chết và 4 ác thú thấy các việc đáng lo, tâm sanh sầu não. Nếu niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên thấy 6 việc làm công đức, tâm sanh hoan hỷ. Tâm định thành xả lấy 2 việc làm thành nơi thiền ngoại địa định. Lấy đoạn những sự che khuất, tâm thanh tịnh. Hoặc ở nơi được địa mà khởi thiền chi. Cho nên thành tâm định. Người tọa thiền nầy tâm định có 2 hạng. Sẽ xả, chẳng thành trụ; ở giữa phương tiện điều hòa; lìa người không học định; hoặc an định; hoặc ngoại hành định; hoặc uy nghi định. Người kia chẳng có đây thì không tu, không học được; chẳng nên cúng dường tu. Học nhơn sẽ có an định, có ngoại hành định và uy nghi định. Nên từ tu học, lại nên cúng dường. Vui trước sự an ổn là người tọa thiền nầy như kia sâu rõ; như kia suối chảy, như dưới gốc cây, thường vui cung kính, nhiều chỗ tu hành. Việc làm nầy có 10 nhơn duyên sanh làm cho an định.

Hỏi rằng: Thế nào là thọ trì, có thể sanh an định phương tiện? 
Đáp rằng: Người tọa thiền kia lành giải duyên khởi, vào nơi tịch tĩnh. Với chỗ tướng giải nầy, đối với chỗ tu định, tùy tâm tự tại. Sanh dục lạc nầy, làm cho tâm được khởi. Từ thân ý nầy đảm đương thành thật làm cho được thọ trì. Từ sự sanh tâm hoan hỷ, được thọ trì. Từ chỗ sanh tâm thích nghi, vui với thân tâm, được thọ trì. Từ sự sanh tâm sáng suốt, được thọ trì. Từ sanh tâm bi thương, được thọ trì. Lấy tâm bi thương nầy làm cho tâm được thanh tịnh. Lành giữ tâm tịnh, tâm được thọ trì. Như thế lành giữ làm cho tâm xả được thọ trì. Từ vô biên phiền não tâm được giải thoát thành tựu thọ trì, mà giải thoát vậy. Kia thành một pháp vị. Lấy tâm một vị được thọ trì tu hành. Cho nên từ thắng giải nầy diệu tâm được tăng trưởng, như thế ở chỗ thọ trì, khởi an định phương tiện. Như thế lành giải duyên khởi và tâm thọ trì chẳng lâu, khởi định. Người tọa thiền kia lìa dục và những pháp chẳng lành. Có giác có quán; đối với chỗ tịch tĩnh, tâm sở thành tựu. Có hỷ có lạc được nơi sơ thiền. Địa nầy là tất cả công đức nhập vào. Đối với người lìa dục nầy, lìa có 3 loại. Nghĩa là thân lìa, tâm lìa, phiền não lìa. 

Hỏi rằng: Thân lìa là thế nào? 
Đáp rằng: Lìa xa các phiền não nơi núi đồi. 
Tại sao tâm phải lìa? 
- Lấy tâm thanh tịnh để đến chỗ tốt đẹp
Vì sao lìa phiền não? 
- Vì chẳng muốn kết lụy với người và chẳng làm việc sanh tử. Lại nữa việc dứt trừ có 5 loại. Đó là phục ly, bỉ phân ly, đoạn ly, y ly và xuất ly
Thế nào gọi là phục ly? 
- Nghĩa là người tu sơ thiền, phục nơi ngũ cái
Thế nào gọi bỉ phân ly? 
- Nghĩa là tu đạt phần định, phục nơi những việc thấy. 
Thế nào gọi là đoạn ly? 
- Nghĩa là tu xuất thế gian đạo, đoạn trừ những phiền não
Thế nào gọi là y ly? 
- Nghĩa là cái vui lúc được quả. 
Thế nào gọi là xuất ly? 
- Nghĩa là Niết Bàn vậy. 
Kẻ dục có 2 loại. Một là xứ dục; hai là dục phiền não. Ở cõi thiên và cõi người yêu mến sắc, hương, vị, xúc. Đây là những xứ ham muốn. Đối với những xứ dục nầy khởi dục nhiễm tư duy. Đó chính là dục phiền não. Từ dục nầy mà tâm phân ly, lại phục biệt ly. Sự xa lìa nầy là xuất ly. Sự giải thoát nầy là chẳng tương ưng. Đây là ly dục

Hỏi rằng: Thế nào là lìa những pháp chẳng thiện? 
Đáp rằng: Bất thiện căn có 3 loại. Một là tham, hai là sân và ba là si. Cùng với sự tương ưng kia nơi thọ, tưởng, hành, thức và thân, khẩu, ý nghiệp. Đây nghĩa là bất thiện pháp. Nói là bất thiện có 3 loại. Một là tự tánh; hai là tương ưng và ba là sanh duyên tánh. Đây là 3 bất thiện căn. Nghĩa là tham, sân, si. Đây gọi là tự tánh. Cùng với tương ưng kia là thọ, tưởng, hành, thức. Đây gọi tên là tương ưng; chỗ khởi lên thân, ý, nghiệp. Đây gọi là duyên tánh, mà 3 điều nầy là những pháp bất thiện. Đây nghĩa là viễn ly. Sự ra khỏi nầy là thoát, là bất tương ưng. Đây là lìa, là bất thiện pháp. Lại nữa kẻ lìa dục, lìa sự che khuất của tham dục. Kẻ lìa bất thiện pháp nghĩa là lìa những sự che khuất

Hỏi rằng: Lấy việc nói lìa những bất thiện pháp, mà dục là bất thiện ở bên trong, vì sao lại nói riêng là lìa dâm dục? 
Đáp rằng: Dâm dục là ra khỏi sự đối trị. Phật đã nói: Dục có thể trừ phiền não. Kẻ lìa dục, Phật nói là kẻ xuất ly; như được sơ thiền, dục tưởng tương ưng với tác ý thành tựu và khởi lên. Đây là thoái phần pháp. Cho nên dục lấy hòa hợp với phiền não. Dục nếu xa rời tất cả phiền não thì tất cả đều được lìa khỏi. Cho nên riêng nói là ly dục
Lại nữa kẻ ly dục, được ra khỏi rồi, thành ly dục. Kẻ lìa những pháp bất thiện hoặc được chẳng sân, thành ra lìa sân. Nếu được minh tướng, thành lìa sự giải đãi ngủ nghỉ. Nếu được bất loạn, thành lìa hí luận. Nếu được chẳng hối, thành lìa nơi hối. Nếu được an định, thành lìa nơi nghi. Nếu được trí huệ, thành lìa vô minh. Nếu được chánh tư duy, thành lìa tà niệm. Nếu được hoan hỷ, thành lìa chẳng vui. Nếu tâm được vui, thành lìa các khổ. Nếu được tất cả các pháp lành, lìa tất cả những việc bất thiện. Như trong Tam Tạng có dạy rằng: Lấy việc chẳng tham, thành tựu việc ly dục; lấy việc bất sân, chẳng si thành tựu việc lìa các pháp chẳng lành. 
Lại nữa kẻ lìa dục, ở đây nói về thân lìa. Kẻ bất thiện pháp, ở đây nói tâm lìa. Lại nữa kẻ lìa dục là nói đoạn dục giác. Kẻ lìa những bất thiện pháp là nói đoạn sân nhuế hại giác. Lại nữa kẻ lìa dục là nói rời khỏi dục lạc. Kẻ lìa bất thiện pháp là nói lìa khỏi sự đắm trước giải đãi nơi thân. Lại nữa kẻ lìa dục là nói đoạn nơi 6 hí luậnhoan hỷ lạc. Kẻ lìa bất thiện pháp là nói đoạn hí giác và ưu khổ v.v... Lại nói đoạn nơi hí lạc và xả. Lại nữa kẻ ly dụchiện tại được vui, ra khỏi nơi dục lạc. Kẻ lìa bất thiện pháp là hiện tại tâm được vui, chẳng quá lo. 
Lại nữa kẻ ly dục nghĩa là ra khỏi dục lưu, lìa chỗ pháp bất thiện,chỗ nhiều phiền não nên có sanh dục, mà sanh sắc giới. Đây gọi là siêu việt. Kẻ có giác quán
Vì sao gọi là giác? 
Nghĩa là nhiều loại giác, tư duy, an định tư tưởng. Tâm chẳng hiểu biết, nhập vào chánh tư duy. Đây gọi là giác. Giác nầy thành tựu nên sơ thiền có giác. Lại nữa vào địa nhứt thiết nhập, nương vào tướng đất vô gián, thành giác tư duy. Đây gọi là giác. Như tâm tụng kinh

Hỏi rằng: Giác là tưởng gì? Vị gì? Khởi gì? Xứ gì? 
Đáp rằng: Giác là tu, vui tưởng làm vị. Tâm dưới tạo niệm làm khởi; tưởng làm hành xứ
Thế nào là quán? 
Đối với lúc tu quán tùy theo đó mà quán chỗ chọn, tâm ở theo đó xả. Đây gọi là quán. Lấy sự tương ưng nầy thành sơ thiền hữu quán. Lại nữa người nhập địa nhứt thiết nhập định từ tu tướng địa, quán nơi tâm như quán nghĩa của quán. 
Hỏi rằng: Quán ấy có tướng gì? Vị gì? Khởi gì? và Xứ gì? 
Đáp rằng: Quán ấy là tùy theo tướng đã chọn; làm cho tâm vui gọi là vị; tùy theo sự thấy biết gọi là xứ. 

Hỏi rằng: Giác quán sai biệt những gì? 
Đáp rằng: Giống như đánh chuông; đầu tiên nghe biết và sau khi nghe lại quán. Lại nữa như tâm sở duyên, đầu tiên là giác, sau đó là quán. Lại nữa cầu thiền làm giác giữ gìn làm quán. Lại nữa nhớ nghĩ là giác, chẳng xả là quán. Lại nữa tâm thô thọ trì là giác, tâm tế thọ trì là quán. Hoặc xứ có giác là xứ có quán. Hoặc xứ có quán. Đối với xứ hoặc có quán; hoặc không quán. Như trong Tam Tạng có dạy rằng: Đầu tiên an tâm đối việc; công việc gọi là giác; được giá mà chưa định, đó gọi là quán. Như thấy người xa lại, chẳng biết nam hay nữ và biết nam nữ. Như thế màu sắc hình tướng là quán. Từ đây thường quán có giới, chẳng giới, giàu nghèo, sang hèn làm quán. Giác là hướng đến tương lai. Quán là giữ gìn, tùy thuộc. Như chim sải cánh vào hư không là giác, bay, đi, ở là quán. Buông ra lúc đầu là giác, dạy bảo lâu dài là quán. Lấy giác giữ gìn, lấy quán chọn lựa; lấy giác tư duy, lấy quán tùy thuận theo tư duy. Giác hành chẳng nhớ pháp ác; quán hành thọ trì nơi thiền. Như người có sức, yên lặng tụng kinh tùy theo sự nhớ nghĩ nầy là quán. Như giác chỗ giác, giác rồi hay biết. Quán nơi biện tài và vui nói biện tài gọi là giác. Nghĩa là pháp biện tài đó chính là quán. Tâm giải nơi thắng là giác; tâm giải phân biệt là quán. Đây là giác quán sai biệt. Tịch tịnh mà thành. Gọi là người tịch tĩnh. Nghĩa là lìa ngũ cái; có tên là tịch tĩnh. Lại nữa sắc giới thiện căn, lại nói về sơ thiền ngoại hành, lại nói tâm thiền từ tâm nầy sanh. Đây gọi là tịch tịnh sở thành. Như đất, nước sanh hoa; gọi là địa thủy hoa. Kẻ hỉ lạc, tâm đối với lúc ấy đại hoan hỷ vui cười. Tâm đầy thanh lương. Đây gọi tên là hỷ. 

Hỏi rằng: Hỷ có tướng gì? Vị gì? Khởi gì? Xứ gì? và có bao nhiêu loại hỷ? 
Đáp rằng: Hỷ nghĩa là hân hoan biến khắp làm tướng. Hoan thích làm vị; điều phục loạn tâm làm khởi; dũng dượt là xứ. Có bao nhiêu loại hỷ? Có 6 loại hỷ. Đó là: Từ dục sanh, từ tín sanh, từ chẳng hối sanh, từ tịch tĩnh sanh, từ định sanh và từ Bồ Đề phần sanh ra hỷ. 
Thế nào gọi là từ dục sanh? 
- Do tham dục nhiễm trước, nên tâm vui. Đây gọi là dục sanh hỷ. 
Thế nào gọi là từ tín sanh? 
- Người tin nhiều, tâm vui và thấy thầy giỏi nên sanh hỷ. 
Thế nào là từ chẳng hối sanh ra hỷ? 
- Người thanh tịnh trì giới, sanh ra nhiều hoan hỷ
Thế nào gọi là từ tịch tịnh sanh? 
- Người nhập sơ thiền sanh hỷ. 
Thế nào là từ định sanh 
- Nhập nhị thiền sanh hỷ. 
Thế nào là Bồ Đề phần sanh hỷ? 
- Đối với đệ nhị thiền tu xuất thế gian đạo; nên hỷ. 
Lại nữa nói hỷ có 5 loại: Nghĩa là: Tiểu hỷ, niệm niệm hỷ, lưu hỷ, việt hỷ và mãn hỷ. 
Tiểu hỷ giống như mưa nhỏ trên thân, làm cho lông đều dựng đứng lên. 
Niệm niệm hỷ lại sanh diệt không trụ, như mưa đêm. 
Lưu hỷ như dầu đổ xuống, chảy dài nơi thân, cuối cùng chẳng biến khắp. 
Việt hỷ nghĩa là cùng khắp tất cả tâm đều sanh hoan hỷ, chẳng lâu liền mất; như người tham thấy chỗ cất chứa. 
Mãn hỷ là thân ở đầy khắp, như chớp như mưa. Đối với đây là tiểu hỷ và niệm niệm hỷ. Lấy tín khởi nơi ngoại hành. Lưu hỷ là có lực khởi nơi ngoại hành. Việt hỷ là đối với Mạn Đà La ngay hay chẳng ngay đều khởi lên xứ xứ phương tiện. Mãn hỷ là sanh nơi chỗ yên ổn
Hỏi rằng: Vì sao lại lạc? 
Đáp rằng: Đây có thể giữ tâm vui, tâm xúc mà thành. Đây gọi là lạc. 
Hỏi rằng: Lạc có tướng gì? Vị gì? Khởi gì? Xứ gì? Có bao nhiêu loại lạc? Hỷ lạc sai biệt như thế nào? 
Đáp rằng: Vị chính là tướng; duyên ái cảnh chính là ái vị; nhiếp thọ chính là khởi; niềm vui nầy chính là xứ. Có bao nhiêu loại lạc? Có 5 loại. Đó là nhơn lạc, tư cụ lạc, tịch tĩnh lạc, vô phiền não lạc và thọ lạc
Thế nào gọi là nhơn lạc? 
Như Phật đã dạy: Giới lạc chờ già; đây có nghĩa là nguyên nhơn của lạc; đây là lạc công đức
Tư cụ lạc như Phật đã dạy là Phật sanh thì đời vui. 
Tịch tĩnh lạc nghĩa là sanh định xả và diệt thiền định
Vô phiền não lạc như Phật đã dạy là đệ nhứt Niết Bàn thọ lạc. Cho nên đó là thọ lạc vậy. Đối với trong luận nầy thọ lạc là khả lạc. 
Hỷ lạcsai biệt gì? 
Tâm dũng lược là hỷ; tâm nhu nhuyến là lạc; tâm vui thích là lạc; tâm định là hỷ; thô hỷ tế lạc. Hỷ hành ân sở nhiếp; lạc thọ ân sở nhiếp. Nơi nầy có hỷ có lạc. Xứ nầy có lạc hoặc có hỷ hoặc vô hỷ. Đầu tiên về hình thức có 2 tên gọi. Ngoại hành thành tựu, nhập vào chi sơ thiền. Nghĩa là giác quán hỷ lạc nhứt tâm vậy. 
Thiền có nghĩa là gì? 
Nghĩa là đối với công việc bình đẳng tư duy vậy. Phấn tấn ngũ cái vậy. Tư duy đối trị vậy. Nhập sơ thiền được chánh thọ, rồi được, rồi xúc, rồi tác chứng ở. 
Lại nữa kẻ ly dục những pháp bất thiện từ dục giới địa, nói sơ thiềnthắng tướng. Từ hữu giác quán nói đệ nhị thiềnthắng tướng. Lấy tịch tĩnh sở thành có hỷ có lạc. Từ tịch tĩnh sở thành hỷ lạc, nói là thắng tướng
Lại nữa lìa dục bất thiện pháp nghĩa là hay đoạn trừ đối trị. Có giác có quán nghĩa là nói thiền tướng tịch tĩnh sở thành. Hỷ lạc nghĩa là nói tương tợ thiền chánh thọ. Nhập trụ nghĩa là được sơ thiền, lìa nơi ngũ phần, thành tựu 5 phần 3 thiện 10 tưởng. Đầy đủ 25 công đức tương ưng, lấy phước nầy lành sanh lên trên và ở chỗ thắng diệu. Lìa ngũ phần nghĩa là lìa 5 cái (che đậy). 
Thế nào gọi là năm? 
Đó là tham dục, sân nhuế, giải đãi, thùy miên, điều hối nghi. 
Tham dục nghĩa là đối với ngũ trần, tâm sanh ái nhiễm
Sân nhuế nghĩa là làm 10 não xứ. 
Giải đãi có nghĩa là tâm sa đọa. 
Thùy miên có nghĩa là thân buồn bực nhiều, muốn được ngủ nghỉ. Ngủ lại có 3 loại. Một là từ việc ăn mà sanh; hai là từ thời tiết mà sanh và ba là từ tâm sanh. Nếu từ tâm sanh thì lấy tư duy để đoạn. Nếu từ sự ăn uốngthời tiết thì sự ngủ của La Hán chẳng từ tâm sanh nên không có sự che đậy; nếu cái ngủ ấy từ việc ăn uốngthời tiết sanh thì lấy sự tinh tấn để đoạn. Như A Nậu Lâu Đà đã nói: Ta được nơi sơ tận lậu, chẳng từ tâm ngủ, cho đến nay đã 55 năm và đối với thời gian nầy, ăn có giới hạn cũng như thời tiết nằm đã 25 năm. 

Hỏi rằng: Nếu ngủ, thành sắc pháp thì vì sao làm tâm số phiền não? 
Đáp rằng: Sắc là một hướng, thành tâm số phiền não. Như ta thấy người uống rượu và ăn; đây tức có thể rõ. 

Hỏi rằng: Ngủ thân pháp, tâm giải đãi số pháp. Vì sao mà 2 pháp nầy hợp thành một sự che đậy? 
Đáp rằng: Đây là 2 loại pháp. Một là sự; hai là tướng. Cho nên mệt, giải đãi cộng làm một. Kẻ điều tâm không tịch tĩnh; kẻ hối, tâm hận chẳng định. Tướng nầy tức trở thành một sự che khuất. Kẻ có tâm nghi, chấp chẳng phải một. Có 4 loại nghi. Một là Xa Ma Tha khó; hai là Tỳ Bà Xá Na khó; ba là cả 2 đều khó; bốn là đối với tất cả không khó. Đối với đây đầy đủ là được Xa Ma Tha; hoặc đối với điều nghi nầy; hoặc đối với thân nghi, ta hằng được tịch tĩnh, là chẳng được tịch tĩnh. Nếu đối với kia thành nghi. Đây là Xa Ma Tha khó. Hoặc đối với Tứ Thánh Đế; hoặc đối với nghi ba đời. Đây gọi là Tỳ Bà Xá Na khó. Hoặc nghi đối với Phật, Pháp, Tăng. Đây là cả 2 việc đều khó. Hoặc đối với quốc thành, đường sá hoặc đối với nam nữ tánh danh; đây nghĩa là chẳng có pháp nào khó. Đối với trong kinh nầy nghi tịch tĩnh là khó. Đây là điều có thể thủ. 
Cái có nghĩa là gì? 
Đây có nghĩa là chẳng ngại, nghĩa là dư; nghĩa là che khuất; nghĩa là phiền não; nghĩa là trói buộc. Đây không có nghĩa khác. 

Hỏi rằng: Có các sự kết vi tế không? Nghĩa là che phiền não và vì sao mà hay nói ngũ cái vậy? 
Đáp rằng: Lấy tập chấp thủ thành 5. Lại nữa lấy dâm dục chấp trước, hay nhiếp tất cả tham dục, lấy sân nhuế chấp trước, có thể nhiếp tất cả pháp bất thiện; lấy giải đãi thùy miên, điều hối nghi chấp trước, có thể nhiếp tất cả si, những pháp bất thiện. Như thế lấy 5 việc chấp trước, có thể nhiếp tất cả phiền não; lấy tướng nầy nên thành ngũ cái
Ngũ phần thành tựu nghĩa là giác quán hỷ lạc nhứt tâm

Hỏi rằng: Nếu nói sơ thiền thành tựu 5 chi là Thiền, mà chẳng nên nói phân biệt chi nầy là thiền. Nếu nói chi riêng thì vì sao sơ thiền nói là ngũ chi tương ưng? 
Đáp rằng: Nương vào chi thiền thành Thiền. Chẳng lìa thiền chi, có Thiền. Chẳng biệt dị Thiền. Như nương vào mỗi mỗi phần của xe nói là xe; chẳng lìa từng phần của xe lại có xe. Như thế nương vào thiền chi, gọi là Thiền. Chẳng lìa chi, có thiền, lấy 1 loại, gọi là Thiền. Lấy khả phân gọi là chi; nói việc nầy là Thiền. Nói công đức gọi là chi; lấy việc nói nương vào để chế, gọi là thiền. Lấy việc nói để nương vào tánh để chế, gọi là chi. 

Hỏi rằng: Đối với pháp niệm tinh tấn tại sao thường nói ngũ chi vậy? 
Đáp rằng: Lấy chấp trước thành năm. 

Hỏi rằng: Vì sao lại chấp tướng? 
Đáp rằng: Kẻ giác tùy nơi sự việc của tâm mà được tự an lạc. Kẻ quán tùy nơi giữ tâm. Giác quán không tạp khởi, là phương tiện. Nếu phương tiện đầy đủ, hỷ lạc sanh; hoặc khởi phương tiện đầy đủ được sanh, tâm hỷ tăng trưởng; tâm lạc thành tựu. Lấy 4 công đức tâm thành tựu nầy, chẳng loạn. Nếu tâm không loạn, tức được định. Đây gọi là chấp tướng. Như thế sự chấp trước có 5. 
Lại nữa sự đối trị với cái nên thành năm. Sơ cái đối trị với sơ thiền; cho đến ngũ cái đối trị với ngũ thiền. Kẻ giác sơ thiền là thắng chi; lấy giác trừ dục. Nếu giác nhập chánh định thì các chi lại khởi. Quán về 5 chi thì đệ nhị thiềnsơ khởi. Hỷ ở nơi đệ tam thiềnsơ khởi. Lạc ở nơi đệ tứ thiềnsơ khởi. Nhứt tâm ở đệ ngũ thiền là sơ khởi. Như thế lấy thắng chi làm 5. 
Lại nữa lấy 5 cái đối trị thành 5. Như trong Tam Tạng có nói: Nhứt tâmdâm dục đối trị. Hoan hỷsân nhuế đối trị; giác là giải đãi, ngủ nghỉ đối trị. Lạc là điều hối đối trị. Quán là nghi đối trị. Lấy từ cái đối trị nầy mà thành 5. 

Hỏi rằng: Người tọa thiền nầy tác ý ở tất cả tướng địa nào? Cho đến khởi hỷ lạc vậy? 
Đáp rằng: Địa nhứt thiết nhập tướng chẳng khởi hỷ lạc. Nguyên nhơn lìa ngũ cái nhiệt, tùy theo tánh mà tu vậy. Đây là pháp tử, nên khởi hỷ lạc

Lại hỏi rằng: Pháp tử là gì? Chẳng ở nơi tứ thiền khởi hỷ lạc? 
Đáp rằng: Đó là xứ vậy. Lại trước tứ thiền rồi, đoạn hỷ lạc vậy. Lại nữa đầu tiên khởi hỷ lạc và lấy phương tiện phục đoạn. Thấy quá lo rồi, tham trước tịch tĩnh hơn, nên xả lạc. Cho nên chẳng khởi hỷ lạc
Ba loại thiện nghĩa là đầu, giữa và sau cùng lành tốt. Lấy sự thanh tịnh tu hành làm sơ thiền. Lấy xả tăng trưởng làm trung thiện. Lấy hoan hỷ làm hậu thiện 
Vì sao gọi là thanh tịnh tu hành? 
- Nghĩa là các thiện đầy đủ. 
Vì sao xả sự tăng trưởng? 
- Đây nghĩa là an tịnh
Vì sao lại hoan hỷ? 
- Đây nghĩa là quán. 
Như thế ở Sơ Thiền thành 3 loại thiện. Mười tướng đầy đủ, lấy sự thanh tịnh tu hành 3 tướng; lấy xả tăng trưởng 3 tướng và lấy hoan hỷ làm 4 tướng. 

Hỏi rằng: Vì sao lấy sự thanh tịnh tu hành làm 3 tướng? 
Đáp rằng: Đây là Thiền chướng ngại từ tâm thanh tịnh kia. Lấy sự thanh tịnh nên tâm được tướng của Xa Ma Tha (Chỉ). Lấy được rồi đối với tâm kia bỏ đi. Đây nghĩa là lấy sự thanh tịnh 3 tướng. 

Hỏi rằng: Vì sao lấy xả tăng trưởng làm 3 tướng? 
Đáp rằng: Nếu tâm thanh tịnh thành xả. Nếu được tịch tĩnh thành xả. Nhứt hướng trụ, thành xả mà xả tăng trưởng. Đây nghĩa là 3 tướng. 

Hỏi rằng: Vì sao làm cho hoan hỷ 4 tướng? 
Đáp rằng: Đối với 10 tướng nầy sanh ra pháp. Tùy ý tu hành làm thành hoan hỷ. Đối với việc nầy các căn lấy nhứt vị thành, làm cho hoan hỷ. Tùy theo việc làm siêng năng rồi trở thành, làm cho hoan hỷ, mà hay tu hành làm cho hoan hỷ. Đây gọi là 4 tướng. Như thế ở sơ thiền đầy đủ 10 tướng, tương ưng với 25 công đức. Nghĩa là: Sơ thiền giác quán hỷ lạc nhứt tâm cụ túc; tín tấn niệm định huệ cụ túc; sơ trung hậu cụ túc; kiểm nhiếp cụ túc; tu hành cụ túc; tịch tĩnh cụ túc; y cụ túc; nhiếp thọ cụ túc; tòng cụ túc; quán cụ túc; tu cụ túc; lực cụ túc; giải thoát cụ túc; thanh tịnh cụ túc. Tối thắng thanh tịnh tu thành ở nơi 25 công đức tương ưng: đây là ở chỗ cõi trời tốt đẹp từ sự tịch tĩnh sanh. Nghĩa là ở nơi hỷ lạc qua khỏi cõi người và ở nơi cõi trời đẹp đẽ. Như Đức Phật Thế Tôn đã dạy các Tỳ Kheo rằng giống như Thầy siêng năng dạy đệ tử làm bánh lấy thau bằng đồng tốt rồi bỏ bột gạo và đậu vào đó rồi lấy nước trộn đều, vo tròn, thấm đều trong ngoài, đừng cho rời ra. Như thế các Tỳ Kheo! Tâm tịch tĩnh hay sanh hoan hỷ làm cho thấm ẩm ướt, chẳng có chỗ nào dính mắc. Ở chỗ tịch tĩnh kia mà sanh hỷ lạc. Đối với thân tâm nầy chẳng có chỗ dính mắc. Đối với người dạy làm bánh và học trò cũng như người tọa thiền đều giống như vậy. Giống như cái thau đồng, tất cả tướng đều cho vào, như thế mà khá biết. 

Hỏi rằng: Tất cả đều nhập, vậy có tướng gì? 
Đáp rằng: Như cái thau bằng đồng là nơi để bột cứng mềm trong sáng, lành lấy tất cả tướng; tướng cứng sanh vui, tướng nhỏ thanh tịnh tạo ra sự sáng sủa. Tâm tâm số pháp tạo thành việc nầy vậy. Đây được gọi là cái thau đồng và tất cả tướng nhập. Tâm tâm số pháp cũng giống như bột nhồi vậy. Như thế mà khá biết. 

Hỏi rằng: Vì sao gọi là bột nhồi và tâm tâm số pháp tánh? 
Đáp rằng: Như bột thô tức chẳng hòa hợp, tùy theo gió mà bay đi. Như tâm nầy, tâm số pháp tánh lìa hỷ lạc thành thô; lìa định chẳng hòa hợp. Cùng với ngũ cái, gió làm cho bay đi. Đây gọi là bột nhồi và tâm tâm số pháp tánh
Nước là gì? 
- Đó là việc hỷ lạc định tĩnh như nước, làm cho bột kia thấm ướt nhu nhuyến tròn đủ. Như thế sự hỷ lạc làm cho tâm, tâm số pháp thấm nhuần đứng yên lại. Như thế, nước sánh với hỷ lạc định vậy. Như nước khuấy lên làm ra tướng chấp trước vậy. Như vậy nhờ giác quán có thể biết. 

Hỏi rằng: Viên tròn là gì? 
Đáp rằng: Giác quán như dục sai sử. Lấy bột để hòa nước, để trong thau đồng, lấy nước khuấy cùng và lấy tay viên tròn lại. Nếu đã viên tròn rồi, hợp với chất ẩm, cùng nhau tạo ra tròn trịa, chẳng làm cho rời mất và để trong thau đồng. Như vậy kẻ ngồi thiền tâm, tâm số pháp, tích chứa các việc và hay sanh tịch tĩnh. Sơ thiền lấy hỷ lạc làm nước; lấy giác quán làm tay; lấy sự quậy bột tạo cho tròn; hay sanh tịch tĩnh. Rồi thành tâm, tâm số pháp. Hỷ lạc tướng theo đó mà thành một viên tròn. Tâm thiền chẳng tán loạn, để nơi công việc Thiền, như là viên tròn và giác quán như bột được thấm ướt. Trong ngoài đều có tướng thấm ướt, không bị bay đi. Như thế người ngồi thiền. Sơ thiền lấy thân trên, dưới từ đầu đến chân. Từ chân đến đầu lâu, da, tóc trong ngoài hỷ lạc đầy khắp. Trụ nơi chẳng thoái; như thế thành trụ Phạm Thiên

Hỏi rằng: Tên hỷ lạc phi sắc pháp, chẳng có đối tướng, vì sao mà biến trụ ở thân? 
Đáp rằng: Gọi là đối với sắc, sắc nương vào nên gọi sắc. Cho nên nếu gọi rồi, thành hỷ sắc lại thành hỷ. Nếu gọi thành rồi, lạc sắc lại thành lạc. Lại nữa sắc từ lạc sanh, làm cho thân khởi lên việc vui sướng. Tất cả thân thành sắc kia vui sướng. Cho nên chẳng ngại làm cho sanh công đức của Phạm Thiên. Sơ thiền thành ra có 3 loại. Đó là hạ, trung, thượng. 
Nếu quán thắng duyên chẳng thiện, trừ ngũ cái, chẳng đến như ý tự tại. Đây là hạ thiền. 
Nếu quán thắng duyên thiện, trừ ngũ cái, đến như ý tự tại. Đây là trung thiền. 
Nếu quán thắng duyên thiện, trừ ngũ cái, đến như ý tự tại. Đây là thượng thiền. 
Đối với người ngồi thiền nầy nếu tu hạ sơ thiền, mệnh chung sẽ sanh vào các cõi Phạm Thiên. Thọ mệnh kia một kiếp 3 phần. Nếu tu trung sơ thiền thì khi mệnh chung sanh nơi Phạm Thiên, thọ nửa kiếp. Nếu tu thượng sơ thiền, mệnh chung sanh Đại Phạm Thiên, thọ mệnh một kiếp. Rồi sanh Phạm Thiên công đức, thành 4 loại, có người thành thoái phần. Có người thành trụ phần. Có người thành thắng phần. Có người thành đạt phần. Đây là thuần căn dục. Trụ ở buông lung, tác ý tương tùy. Thành khởi thiền nầy nên thành thoái phần. Lại nữa lấy 2 thiền hành thành nơi thoái phần. Cột chặt nhau vào, làm chẳng tinh tấn được. Nếu có người từ sơ, rồi khởi ác quán chẳng thể tiêu trừ. Mà do sự cột chặt; nên thành mau thối lui. Đây là lạc thiền sự nghiệp; lạc thoại ngữ lạc. Ngủ nghỉ chẳng ở tinh tấn; cho nên thành thoái lui

Hỏi rằng: Ai thoái và cái gì thoái? 
Đáp rằng: Có nơi nói nếu mau mang tật phiền não, thành khởi ra thoái thất. Lại nói phiền não như thế mà thoái. Lại nói nếu mất Xa Ma Tha, thành thoái. Lại nói nơi có tướng dài lâu chẳng tu hành, đối với kia, xứ kia chẳng thể làm cho khởi được. Lấy chẳng được định làm thoái phần. Nếu người căn thuần, trụ chỗ không buông lung được pháp kia, niệm thành thiền trụ phần. Người lợi căn, ở nơi chẳng buông lung, tùy ý được đệ nhị thiền, vô giác tác ý tướng theo đó, khởi thành Thiền thắng phần kia. Kẻ lợi căn trụ nơi chẳng buông lung, tùy ý được Tỳ Bà Xá Na (Quán), tùy theo tưởng lo lắng tác ý thành khởi. Tùy ý vô nhiễm thành thiền đạt phần. 

Luận Về Con Đường Giải Thoát 
Hết Quyển 4 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12443)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10313)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12294)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11591)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28752)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11989)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12964)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11399)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12316)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17387)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52928)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35428)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21328)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10647)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19178)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12371)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25960)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13285)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14329)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16041)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13683)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16802)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17504)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13096)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12493)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11568)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11557)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14466)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20381)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18915)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19504)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18572)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12149)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12270)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13808)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14943)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15006)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13945)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15486)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11357)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17126)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14909)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20126)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14581)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13798)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11670)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15008)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12956)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14524)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11606)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13129)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16836)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18307)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11914)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11470)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15810)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12832)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18863)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18360)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant