Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Mười Thiện Nghiệp

25 Tháng Năm 201411:07(Xem: 13252)
Kinh Mười Thiện Nghiệp


KINH MƯỜI THIỆN NGHIỆP

 

Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch

 blank

Tôi nghe như vầy.

 

Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.

 

Lúc ấy Đức Thế Tôn nói với chúa tể Đại dương, rằng hết thảy chúng sinh do tâm tư tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, vì vậy mà có sự luân chuyển trong mọi nẻo đường.

 

Chúa tể Đại dương, ông thấy chăng bao nhiêu thân hình màu sắc và chủng loại khác nhau trong đại hội và trong biển cả này? Mọi sự khác nhau như vậy toàn do tâm tạo ra thân nghiệp khẩu nghiệp ý nghiệp hoặc lành hoặc dữ mà thành ra.

 

Nhưng tâm thì không có hình sắc để có thể nhận thấy. Nó chỉ do các pháp không thật tập hợp lạiphát khởi ra, hoàn toàn không có chủ thể: không phải bản ngãsở hữu của bản ngã. Dẫu rằng tùy nghiệp mà biểu hiện khác nhau, nhưng thật sự trong đó không có cái chủ thể tạo tác. Do vậy, các pháp toàn là không thể tư duy mô tả, thực chất giống như huyễn ảo. Người có trí tuệ biết như vậy thì hãy tu tập thiện nghiệpTừ thiện nghiệp này mà có ra thân thể thì toàn bộ đẹp đẽ, ai nhìn cũng không chán.

 

Chúa tể Đại dương, ông hãy nhìn thân thể của Như LaiThân thể này do hàng trăm hàng ngàn hàng ức thiện nghiệp sinh ra, nên tướng hảo trang nghiêm, ánh sáng rực rỡ, khuất mờ cả đại hội, đến nỗi ánh sáng của vô số Đại tự tại và Đại phạn vương cũng không rõ ra được. Ai chiêm ngưỡng thân thể ấy của Như Lai cũng đều lóa mắt. Ông lại nhìn hình sắc trang nghiêmtrong sáng của các vị đại sĩ. Tất cả toàn do tu tập thiện nghiệp mà có. Rồi kia nữa, những vị uy thế lớn lao của tám bộ loại cũng do thiện nghiệp mà ra. [Ông lại quan sát] thân hìnhsắc tướng xấu xí, lớn có nhỏ có, của bao loại chúng sinh trong đại dương này, toàn do đủ loại tư tuởng của tâm họ làm ra các ác nghiệp nơi thân miệng ý, tùy ác nghiệp ấy mà ai cũng tự nhận lấy kết quả.

 

[Quan sát thấy như thế rồi], ông nên tu học [nguyên lý nhân quả] như vậy, lại làm cho chúng sinh cũng thấu triệt nguyên lý nhân quả ấy, cùng nhau tu tập thiện nghiệp. Đối với nguyên lý nhân quả, ông hãy có quan điểm chính xác, không hề dao động - không rơi vào loại quan điểm mất hẳn hay rơi vào loại quan điểm thường còn. Nên đối với các ruộng phước, các người cũng biết vui vẻ tôn kính, cung phụng, và do vậy mà các người cũng sẽ được nhân loạichư thiên tôn kính, cung phụng.

 

Chúa tể Đại Dương, [do những điều Như Lai đã nói trên đây mà] ông nên biết bồ tát có một cách có năng lực cắt đứt mọi khổ não trong các đường dữ. Một cách ấy là gì, là ngày đêm thường xuyên nhớ nghĩ và chiêm nghiệm về thiện nghiệp, làm cho thiện nghiệp tăng lên trong mỗi ý nghĩ, không cho tơ tóc ác nghiệp nào xen vào. Như vậy là có năng lực làm cho ác nghiệp đứt hẳn, thiện nghiệp tròn đầy, thường được thân gần các đức Phật đà, các vị bồ tát, các bậc thánh giả.

 

Nhưng thiện nghiệp [là gì,] là cái mà thân thể nhân loạithân thể chư thiên, tuệ giác thanh văn, tuệ giác độc giáctuệ giác Phật đà, tất cả đều do cái ấy làm căn bản mà được thành tựu, nên gọi cái ấy là thiện nghiệpThiện nghiệp này chính là mười thiện nghiệp. Mười thiện nghiệp là những gì, là [thân thì] từ bỏ vĩnh viễn sự làm sát sinh, sự làm trộm cướp và sự làm tà hạnh; [miệng thì từ bỏ vĩnh viễn] sự nói dối trá, sự nói ly gián, sự nói thô ác và sự nói thêu dệt; [ý thì từ bỏ vĩnh viễn] sự nghĩ tham dục, sự nghĩ giận dữ và sự nghĩ tà kiến.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự làm sát sinh thì thực hiện mười sự hết bất an. Mười sự ấy là gì? Một là ban cho các loại chúng sinh sự không sợ hãi. Hai là thường sinh tâm từ bi rộng lớn đối với các loại chúng sinh. Ba là cắt đứt vĩnh viễn mọi thói quen giận dữ. Bốn là cơ thể thường không bệnh tật. Năm là sống lâu. Sáu là thường được sự giữ gìn của những kẻ không phải loài người. Bảy là thường không ác mộng, ngủ hay thức đều yên vui. Tám là hết cả mọi sự thù oán, thù oán tự giải tỏa. Chín là không có sự sợ hãi về đường dữ. Mười là sinh mạng kết thúc thì sinh lên chư thiên. Đó là mười sự [(hết bất an]. Nếu biết [đem sự từ bỏ làm sát sinh và mười sự hết bất an] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "sự sống lâu tự do theo ý muốn" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự làm trộm cướp thì thực hiện mười sự đáng tin cậy. Mười sự ấy là gì? Một là tài sản dồn đầy, vua xấu, giặc cướp, nước lớn, lửa dữ và con hư không thể hủy diệt. Hai là lắm người thương mến. Ba là không ai lừa gạt. Bốn là chỗ nào cũng tán dương. Năm là không sợ tổn hại. Sáu là tiếng tốt lan tràn. Bảy là ở giữa công chúng không hề khiếp sợ. Tám là tài sản, sống lâu, tướng tốt, sức khỏe, yên vui và hùng biện đều toàn hảo, không khiếm khuyết. Chín là thường sẵn lòng cho người. Mười là sinh mạng kết thúc thì sinh lên chư thiên. Đó là mười sự [đáng tin cậy]. Nếu biết [đem sự từ bỏ làm trộm cướp và mười sự đáng tin cậy] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "tuệ giác vĩ đại và trong sáng" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự làm tà hạnh thì thực hiện bốn sự người trí khen. Bốn sự ấy là gì? Một là các giác quan thuần hóa. Hai là rời hẳn sự náo động. Ba là đời ai cũng ca tụng. Bốn là vợ [chồng] không thể bị xâm phạm. Đó là bốn sự [người trí khen]. Nếu biết [đem sự từ bỏ làm tà hạnh và bốn sự người trí khen] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "cái tướng đại trượng phu nam căn ẩn mật" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nói dối trá thì thực hiện tám sự chư thiên khen. Tám sự ấy là gì? Một là miệng thường sạch sẽ với mùi thơm của hoa sen. Hai là được người đời tin phục. Ba là nói là có chứng cứ, nhân loạichư thiên đều kính mến. Bốn là thường đem lời tiếng khả ái mà an ủi mọi người. Năm là được ý thích siêu việt, thân miệng ý đều trong sáng. Sáu là nói thì không lầm lỡ, lòng thường vui vẻ. Bảy là nói năng trang trọng, nhân loạichư thiên đều phụng hành. Tám là trí tuệ siêu việt, không ai chế ngự được. Đó là tám sự [chư thiên khen]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói dối trá và tám sự chư thiên khen] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "lời nói chân thận" của Phật.

 

Chúa tể đại dương, từ bỏ sự nói ly gián thì thực hiện năm sự không thể hỏng. Năm sự ấy là gì? Một là được thân thể không thể hỏng, vì sự không ai hại được. Hai là được thân thuộc không thể hỏng, vì không ai phá được. Ba là được tín tâm không thể hỏng, vì thuận với thiện nghiệp cũ. Bốn là được pháp hạnh không thể hỏng, vì sự tu vững chắc. Năm là được thiện hữu không thể hỏng, vì không hề lừa dối. Đó là năm sự [không thể hỏng]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói ly gián và năm sự không thể hỏng] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "thân thuộc chánh tánh, ma quân ngoại đạo không thể làm cho nát rã" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nói thô ác thì thực hiện tám sự nói trong sáng. Tám sự ấy là gì? Một là nói chừng mực. Hai là nói hữu ích. Ba là nói hợp lý. Bốn là nói hay ho. Năm là nói thì tiếp nhận được. Sáu là nói thì được tin theo. Bảy là nói không chê được. Tám là nói ai cũng thích. Đó là tám sự [nói trong sáng]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói thô ác và tám sự nói trong sáng] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được toàn hảo "âm thanh Phạn thiên" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nói thêu dệt thì thực hiện ba sự rất quyết định. Ba sự ấy là gì? Một là quyết định được sự thương mến của người có trí. Hai là quyết định có thể đem trí tuệgiải đáp đúng như sự thật về mọi câu hỏi. Ba là quyết định uy đức hơn hết đối với nhân loạichư thiên, không có giả tạo. Đó là ba sự [rất quyết định]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói thêu dệt và ba sự rất quyết định] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "sự thọ ký toàn không vô hiệu" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nghĩ tham dục thì thực hiện năm sự rất tự do. Năm sự ấy là gì? Một là thân miệng ý tự do, vì các quan năng đủ cả. Hai là tài sản tự do, vì những kẻ oán thù không thể chiếm đoạt. Ba là phước đức tự do, vì tùy ý muốn gì thì tài vật cũng có đủ cả. Bốn là ngôi vua tự do, vì những vật quý, lạ và đẹp, đều được phụng hiến. Năm là tài vật có được hơn cả trăm lần mong ước, vì xưa kia đã không keo lẫn. Đó là năm sự [rất tự do]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nghĩ tham dục và năm sự rất tự do] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "sự cao nhất ba cõi, ai cũng tôn kính hiến cúng" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nghĩ giận dữ thì thực hiện tám sự làm đẹp dạ. Tám sự ấy là gì? Một là không có tính làm hại. Hai là không tính giận dữ. Ba là không có tính kiện cáo. Bốn là được tính ôn hòa chất trực. Năm là được tính từ bi của các bậc hiền thánh. Sáu là được tính thường đem lại lợi ích và yên vui cho chúng sinh. Bảy là thân hìnhsắc tướng đều đẹp đẽ, trang nghiêm, mọi người ai cũng tôn kính. Tám là vì từ hòa ẩn nhẫn nên mau chóng sinh lên thế giới Phạn thiên. Đó là tám sự [làm đẹp dạ]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nghĩ giận dữ và tám sự làm đẹp dạ] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "cái tâm không chướng ngại nên ai nhìn cũng không chán" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nghĩ tà kiến thì thực hiện mười sự thành quả tốt. Mười sự ấy là gì? Một là được ý thích chân thiện, đồng bạn chân thiện. Hai là tin tưởng sâu xa vào nhân quả, nên thà chết chứ không làm ác nghiệp. Ba là chỉ quy y Phật, không theo vị trời nào khác hay những vị đồng đẳng với vị trời ấy. Bốn là tâm lý ngay thẳng, quan điểm chính xác, rời hẳn tất cả mạng lưới thắc mắc về lý số tốt xấu. Năm là thường sinh trong nhân loạichư thiên, không còn trở lại đường dữ. Sáu là vô lượng phước đứctuệ giác dần dần thêm và hơn lên. Bảy là vĩnh viễn tách rời đường đi tà ngụy, chỉ đi theo đường đi thánh chánh. Tám là không nổi dậy sự thân kiến, xả bỏ các thứ ác nghiệp. Chín là đứng vững trong sự thấy biết không chướng ngại. Mười là không rơi vào các tai nạn. Đó là mười sự [thành quả tốt]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nghĩ tà kiến và mười sự thành quả tốt] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "mau chóng thực hiện tất cả thành quả của Phật", [trong đó có sự] hoàn thành thần thông tư tại [của Ngài].

 

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại dạy chúa tể Đại dương, rằng vị bồ tát nào y theo mười thiện nghiệp này, khi hành bồ tát hạnh, có thể từ bỏ sự làm sát sinhbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, sống lâu chứ không chết yểu, không bị những kẻ oán thù làm cho thương tổn tai hạiTừ bỏ sự làm trộm cướp mà bố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, hơn hết tất cả, không ai sánh bằng, đủ mọi năng lực tập họp đầy đủ kho tàng chánh pháp của chư Phật. Từ bỏ sự làm tà hạnhbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, gia đình trinh bạch, thuận hòa, [cha] mẹ, vợ [chồng] và con cái, không ai có thể nhìn họ bằng tâm lý dâm dục. Từ bỏ sự nói dối trá mà bố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, không bị mọi sự phỉ báng, chấp trì chánh pháp, làm gì cũng chắc chắn hiệu quả y như nguyện ước. Từ bỏ sự nói ly giánbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, thân thuộc hòa thuận, ý thích đồng nhất, không bao giờ mâu thuẩn tương tranh. Từ bỏ sự nói thô ác mà bố thì, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, tập thể nào cũng vui vẻ quy ngưỡng, nói ra điều gì cũng được tin tưởng, tiếp nhận, không ai chống cự. Từ bỏ sự nói thêu dệt mà bố thì, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, nói không uổng lời, ai cũng kính trọng tiếp nhận, có thể tài tình cắt đứt mọi sự nghi hoặcTừ bỏ sự nghĩ tham dụcbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, có gì cũng đem biếu tặng, tin hiểu vững chắc, có đại uy lựcTừ bỏ sự nghĩ giận dữbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, mau chóng tự thành tâm trí không chướng ngại, mọi bộ phận thân thể đều trang nghiêm, tốt đẹp, ai thấy cũng kính cũng mến. Từ bỏ sự nghĩ tà kiếnbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, thường xuyên sinh vào gia đình chánh kiếnchánh tín, gặp Phật nghe Pháp cúng Tăng, không bao giờ quên mất tâm nguyện mong cầu đại bồ đề. Như thế đó là những sự lợi ích lớn lao mà bồ tát đạt được khi hành bồ tát hạnh, làm mười thiện nghiệptrang hoàng bằng thí độ. Ấy vậy, chúa tể Đại dương lấy phần chính yếu mà nói, làm mười thiện nghiệptrang hoàng bằng giới độ thì có năng lực phát sinh tất cả lợi ích chân thật trong Phật Pháp, đầy đủ chí nguyện vĩ đại; mà trang hoàng bằng nhẫn độ thì được ngữ âm toàn hảo của Phật, lại đủ mọi tướng tốt, vẻ đẹp; mà trang hoàng bằng tiến độ thì có năng lực hủy diệt sự thù nghịch của ma quân, nhập vào kho tàng chánh pháp của Phật; mà trang hoàng bằng định độ thì phát sinh được niệm, tuệ, tàm quí, khinh an; mà trang hoàng tuệ độ thì hủy diệt được mọi thứ quan điểm sai lầm của sự phân biệt.

 

[Lại nữa, cũng lấy phần chính yếu mà nói, làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng từ vô lượng tâm, thì đối với chúng sinh không hề nổi dậy mọi sự quấy rối, tác hại; mà trang hoàng bằng bi vô lượng tâm thì thương xót chúng sinh đến nỗi không bao giờ chán họ, bỏ họ; mà trang hoàng bằng hỷ vô lượng tâm thì thấy ai có thiện nghiệp lòng mình không ghét không ganh; mà trang hoàng bằng xả vô lượng tâm, thì đối với cảnh ngộ thuận lòng hay cảnh ngộ trái ý không có tâm lý ưa thích hay tâm lý tức bực. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng bốn nhiếp pháp, thì thường xuyên cần cù giáo hóa hết thảy chúng sinh. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng bốn niệm xứ thì khéo léo thực tập sự quán sát theo bốn niệm xứ ấy; mà trang hoàng bằng bốn chánh cần thì diệt trừ được hết mọi thứ ác nghiệp, làm thành được hết mọi thứ thiện nghiệp; mà trang hoàng bằng bốn thần túc thì làm cho cơ thể và tâm thần luôn luôn thư thái, thích thú; mà trang hoàng bằng năm căn thì thâm tín vững chắc, siêng năng thuần túy, không xen biếng nhác, không có lúc nào mê mờ, vọng động, tĩnh lặng thuần hóa, cắt đứt mọi sự phiền não; mà trang hoàng bằng năm lực thì mọi thứ thù nghịch diệt hết, không ai có thể phá hoại; mà trang hoàng bằng bảy giác chi thì thường khéo giác ngộ tất cả các pháp; mà trang hoàng bằng tám chánh đạo thì trí tuệ chính xác hiển hiện thường xuyên như ở trước mắt. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng sự Chỉ thì có năng lực trừ khử mọi thứ kiết sử; mà trang hoàng bằng sự Quán thì có năng lực biết một cách đúng như sự thật về thực chất của các pháp. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng phương tiện thì mau chóng hoàn thành đầy đủ cái vui hữu vi và cái vui vô vi.

 

Chúa tể Đại dương, ông nên biết mười thiện nghiệp này đến nỗi có năng lực làm cho mười đại năng lực, bốn sự không sợ, mười tám sự đặc biệt, tất cả thành quả của Phật [mà đại loại là như vậy], đều được hoàn thành đầy đủ. Do vậy, các người phải siêng năng mà tu học [mười thiện nghiệp ấy].

 

Chúa tể Đại dương, tất cả thành thị làng xóm đều nương tựa địa cầu mà đứng vững, tất cả cây cỏ rừng rú cũng nương tựa điạ cầu mà sinh trưởng. Mười thiện nghiệp cũng là như vậy, tất cả thân thể của nhân loạithân thể của chư thiên đều do mười thiện nghiệp mà đứng vững, tất cả tuệ giác của thanh văn, tuệ giác của độc giác, hạnh nguyện của bồ tát, tất cả thành quả của Phật đà, toàn do địa cầu mười thiện nghiệp mà được hoàn thành.

 

Đức Thế Tôn tuyên thuyết kinh này hoàn tất thì chúa tể Đại dương, và cả đại hội bao gồm chư thiên, tu la, và các chúng đồng đẳng, thuộc phạm vi thế gian, ai cũng đại hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22292)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16019)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15026)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18951)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14445)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18628)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14427)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13584)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13548)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11817)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13253)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13650)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13935)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13247)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15024)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16160)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16449)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11904)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17592)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12873)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13703)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12858)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14854)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16382)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13125)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12082)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12772)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12906)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14173)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14109)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16471)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12377)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14380)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11307)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11025)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13190)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13890)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13156)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12998)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13501)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10220)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11644)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12669)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10794)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10933)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11066)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12613)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11320)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant