Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Nói Đầu

21 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13126)
Lời Nói Đầu


Lời Nói Đầu

Những ai xem việc thay đổi tôn giáo hay chấp nhận một tôn giáo mới lần đầu tiên thì sẽ làm một điều gì đó có thể có một ảnh hưởng sâu sắc về cuộc đời của họ. Đó không phải là một điều gì phải được từ bỏ một cách hấp tấp, vội vã, hoặc là nó được từ bỏ dưới sự ảnh hưởng của những cảm xúc tình cảm khi đạt đến tột đỉnh. Nếu chân lý phải được khám phá, thì thời gian phải được diễn ra, tất cả những sự kiện phải được xem xét, và vấn đề phải được chất vấn và những ý kiến khác nhau phải được xem xét, thảo luận. Chúng ta cố gắng làm tất cả những điều này, trước khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của chúng ta, do vậy, tại sao chúng ta không nên thực thi chúng trước khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của chúng ta liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo của chính mình?

Chấp nhận ý kiến của người khác một cách mù quáng và không thắc mắc sẽ là một sự ngu xuẩn, nhưng làm ngơ ý kiến của họ cũng là một sự ngốc nghếch. Trí tuệkinh nghiệm của những người khác, đặc biệt là bậc trí, có thể giúp chúng ta làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của chúng ta và đưa chúng ta đến một vị trí tốt hơn để chọn lựa một giải pháp đúng hơn. Với sự mở rộng của tri thức Phật giáo trong khoảng hơn trăm năm qua, một số đông giới trí thức phương Tây, kể cả nhiều vị lãnh giải Nobel hòa bình, đã bày tỏ một sự quan tâm sâu sắc và ngưỡng mộ tôn giáo cổ đại này. Chỉ có một số ít thực sự trở thành Phật tử. Một số do bị ấn tượng bởi lối tư duy trong sánghợp lý của đạo Phật, số khác bởi sự khoan dung độ lượng nhã nhặn của tôn giáo này. Một số bị ngạc nhiên bởi giáo lý của tôn giáo này rất giống với những phát minh của khoa học hiện đại, trong khi số khác lại bị thu hút bởi ý tưởng về đời sống luân lý đạo đức mà không cần tin vào một đấng Thượng đế đầy quyền năng. Những lời trích dẫn được thu thập trong cuốn sách nhỏ này thật sự đáng để quan tâm vì một số lý do sau:

Trước hết, những lời trích dẫn này cho thấy sự hấp dẫn phổ quát của Phật giáo, mà đây lại là lời phát biểu của những nhà tâm lý, nhà thơ, triết gia và nhà toán học. Có phải chăng lời dạy của một con người đã sống từ lâu vẫn có thể thích hợp và có ý nghĩa đối với một nhà khoa học như Einstein, một nhà thơ như Eliot hoặc một triết gia như Rusell? Lại nữa, những lời trích dẫn này nói nhiều về những người đã viết ra chúng như họ đã làm gì cho chính đạo Phật.
Chúng ta đọc những gì mà một số tư tưởng gia có đầu óc vĩ đại trong thời đại của chúng ta phải nói về quan điểm của Phật giáo về ly tham, không chấp thủ và tình thương, về yếu tố duy lý trong đạo Phật và về vai tròđịa vị của đức Phật trong lịch sử nhân loại. Họ so sánh Phật giáo với những tôn giáo khác, làm nổi bật sự đề cao về yếu tố lý trí của tôn giáo này và cho chúng ta biết được những ảnh hưởng lớn lao của nó đối với nền tâm lý học hiện đại. Hy vọng rằng những gì được nói trong cuốn sách nhỏ này sẽ làm cho độc giả có động cơ nhìn sâu hơn nữa về những lời dạy của đức Phật, và nếu thoả mãn về mặt tâm linh hãy ứng dụng những nguyên tắc này vào đời sống thực tiễn. Thiết nghĩ đây là một công trìnhgiá trị nghiên cứu và rất hữu dụng đối với những ai khi nghiên cứu đạo Phật. Hơn nữa, những lời trích dẫn trong tập cách này là những nguồn dẫn chứng quý giá đối với những ai muốn nghiên cứu và viết lách về những đề tài liên quan đến Phật giáo và những lĩnh vực khác. 

Tuy nhiên, do đây là một tập sách mang tính chất sưu tầm những nguồn tư liệu nằm rải rác trong các nguồn tư liệu ở dạng nguyên bản Anh ngữ, cũng như một số tư liệu đã được dịch sang Việt ngữ, người dịch xin cáo lỗi cùng với quý độc giả trong vấn đề sắp xếp những lời phát biểu theo thứ tự từng tác giả hay theo từng chủ đề khác nhau liên quan đến giáo lýcuộc đời của đức Phật. Ơû cuối phần tập sách nhỏ này, người dịch xin trích dẫn nguyên bản tác phẩm "Buddhism In The Eyes Of Intellectuals" của Đại lão Hoà thượng K. Sri Dhammananda, một vị Hoà thượng người Tích Lan có công rất lớn trong công việc hằng truyền Phật pháp tại Miến Điện và cũng là một nhà Phật học có rất nhiều ảnh hưởng đến giới nghiên cứu Phật học tân thời. Nhân đây, Người dịch xin bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu, người đã hy sinh cả cuộc đời mình vì sự nghiệp giáo dục đàn hậu học chúng con. Thành kính dâng lên Thượng tọa Bổn sư, người đã có công giáo dưỡng con nên người, thành quả học tập này với tất cả tấm lòng quý kính của người đệ tử. Cuối cùng, xin chân thành tri ân sự chỉ giáo của các bậc cao minh để tập sách nhỏ này ngày càng hoàn chỉnh hơn. 

Quảng Đức, Xuân Canh Thìn
Dịch giả Thích Quảng Bảo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14093)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10841)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11976)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13103)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11319)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12889)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13029)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17863)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11407)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11465)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18951)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12520)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13123)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11794)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11678)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12735)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12617)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13929)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12908)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13268)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12738)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11711)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11701)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12313)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11942)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11976)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16091)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12860)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12208)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13219)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12469)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11796)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19825)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11241)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11073)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10951)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11727)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant