Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

17 Tháng Ba 201511:30(Xem: 12579)
Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

LUẬN TỤNG KINH NĂNG ĐOẠN KIM CƯƠNG
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA


Tập 25, Thích Kinh Luận Bộ ,số 1514, 1 quyển, Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận Tụng,
Vô Trước Bồ Tát tạo Đường Nghĩa Tịnh dịch, Nguyên Huệ Việt dịch

Luận Tụng Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa

Lợi ích thắng, nên biết
Nơi thân cùng quyến thuộc
Đạt, chưa đạt, không thối
phó chúc tối thắng.
Nơi tâm rộng, hơn hết
Tột cùng không điên đảo
Lợi ích chốn ý lạc
Thừa nầy công đức đủ.
Sáu độ đều gọi Thí
Do tài, pháp, vô úy
Trong đó, một, hai, ba
Gọi tu hành chẳng trụ.
Vì tự thân báo ân
Quả báo đều không chấp
Là lìa nơi chẳng khởi
Cùng lìa các hành khác.
Thâu phục nơi ba Luân
Nơi tướng, tâm trừ dứt
Các nghi hoặc về sau
Theo đời thảy đều diệt.
Nếu dùng để hợp tạo
Diệu tướng phi thắng tướng
Ba tướng dời đổi khác
Không đấy, tức Như Lai.
Nhân cùng quả sâu xa
Nơi ác kia khi nói
Đây chính là lợi ích
Do ba Bồ-tát khác.
Từ nơi chốn Phật trước
Phụng trì về giới học
Và gieo trồng thiện căn
Gọi đủ giới đủ đức.
Hay đoạn trừ tưởng ngã
Cùng do nơi tưởng pháp
Đây gọi là đủ tuệ
Hai, bốn khác thành tám.
Thể riêng nối tiếp khởi
Đến thọ mạng hết, trụ
Lại cầu tìm cõi khác
Tưởng ngã có bốn thứ.
Đều không nên chẳng có
Có nên chẳng thể nói
Là nêu bày về nhân
Tưởng pháp có bốn thứ.
Do lực tin hiểu kia
Tin nên sinh tưởng thật
Chẳng như lời chấp giữ
Chấp giữ cho chánh thuyết.
Phật rõ quả không đối
Do nguyện trí nên biết
Vì cầu sự lợi, kính
Ngăn chỗ tự nêu ấy.
Chứng chẳng trụ nơi pháp
Đó chính là tùy thuận
Cũng như bỏ bè kia
ý mật nên biết.
Hóa, thể không Phật thật
Cũng không người nói pháp
Thuyết pháp không hai thủ
Chỗ nói lìa giảng nêu.
Tự thọ vì khác, nói
Hợp phước không vô ích
Phước không giữ Bồ-đề
Hai ấy đều nên giữ.
Đạt nhân của tự tánh
Phần khác ấy là sinh
Nên chính là pháp Phật
Hay thành phước tối thắng.
Không giữ lấy tự quả
Phi có thể giữ, nói.
Giải thoát nơi hai chướng
Nói Diệu Sinh không tranh.
Tại nơi Phật Nhiên Đăng

Nói không giữ, pháp chứng

Do đấy pháp chứng thành

Không nơi giữ chốn nói.

Trí động, chỉ tánh thức

Quốc độ không chỗ giữ

Vô hình nên hơn hẳn

Không nghiêm cho tánh nghiêm.

Ví như núi Diệu Cao

Nơi thọ dụng không lấy

Tánh không phải hữu lậu

Cũng không là nhân tạo.

Vì hiển nhiều sai biệt

Cũng do thành thù thắng

Trước sau phước chẳng đồng

Lại nêu ra dụ nói.

Hai thành nên tôn trọng

Do đẳng lưu trội bật

Do tánh nhân phiền não

Nên kém cũng thành hơn.

Quả kia hơn hẳn khổ

Khó gặp được việc thắng

Cảnh, cõi không phải biết

Nơi phần khác chẳng cùng.

Tánh ấy rất sâu xa

Hơn khác, lược giảng giải

Tộc họ vốn cao, hơn

So phước, phước hơn hẳn.

Hành ấy khi gắng nhẫn

Tuy khổ nhưng hành thiện

Đức kia khó lường xét

Do đấy gọi thắng sự.

Do tình không giận dữ

Không gọi là tánh khổ

an lạc, đại bi

Lúc hành, không quả khổ.

Nhân sinh tâm không bỏ

Vì thế nên dốc cầu

Tức là đạt nhẫn biên

Cùng phương tiện tâm ấy.

Nên biết kẻ chánh hành

Là nhân của lợi sinh

Nơi sự tướng hữu tình

Nên biết dứt trừ khắp.

Sự kia là tên tụ

Hơn hết, trừ bỏ tưởng

Các Thế Tôn không đấy

Do thấy đúng tương ưng.

Quả chẳng trụ vị nhân

Là đạt nhân quả kia

Thế Tôn nói lời thật

Nên biết có bốn thứ.

Lập nên nói thừa dưới

Cùng nêu nghĩa Đại thừa

Do các việc thọ ký

Đều không có sai biệt.

Không đạt chỗ thuận kia

Trái phải thật không vọng

Như lời mà chấp giữ

Đối ứng nên tuyên thuyết.

Thường hằng các xứ có

Nơn chân tánh không đạt

Do không tỏ, có trụ

Trí vô trụ đạt thật.

Không trí cũng như tối

Nên trí tối hoặc sáng

Chủ đối cùng chỗ trị

Được mất đều hiện tiền.

Do chánh hành như thế

Đạt lượng phước như vậy

Nơi pháp, kẻ chánh hành

Nghiệp dụng nay sẽ nói.

Đối người có ba thứ

Thọ trì, nghe, nói rộng

Nghĩa đạt do kẻ khác

Cùng nghe, nghĩ của mình.

Đây là thành thục nội

Còn thành hữu tình khác

Do sự khi tánh lớn

So phước, phước hơn hẳn.

Không cảnh, tánh, riêng tánh

Chủ dựa là đại nhân

Cùng khó có thể nghe

Nhân vô thượng tăng trưởng.

Nếu chỉ giữ chánh pháp

Chốn sở y thành vật

Dứt trừ các nghiệp chướng

Mau đạt trí thông tánh.

Thế diệu sự viên mãn

Quả báo rất tôn quý

Nơi pháp nầy tu hành

Nên biết đạt nghiệp ấy.

Do lúc tự thân hành

Xem mình là Bồ-tát

Gọi tên là Chướng Tâm

Trái với tâm không trụ.

Thọ ký nơi thời sau

Nhiên Đăng hành không hơn

Bồ-đề hành kia đồng

Không thật do nhân tạo.

Không tướng kia là tướng

Nên hiển chẳng là vọng

Do pháp là pháp Phật

Đều không có là tướng.

Là do Pháp thân Phật

Nên biết dụ trượng phu

Thân tròn đủ không chướng

Là tánh hiện đủ khắp.

Cùng đạt được Thể lớn

Cũng gọi là Thân lớn

Không có thân là có

Nói tạo kia không thân.

Chẳng rõ nơi pháp giới

Tâm tạo độ chúng sinh

Cùng đất ruộng thanh tịnh

Đấy gọi là cuồng vọng.

Nơi Bồ-tát, chúng sinh

Các pháp không tự tánh

Nếu hiểu tuy không Thánh

Gọi Thánh tuệ, nên biết.

Tuy không thấy các pháp

Đây chẳng không có mắt

Phật gồm đủ năm thứ

Do nơi cảnh hư vọng.

Các thứ tâm lưu chuyển

Lìa nơi các niệm xứ

Tâm không giữ luôn chuyển

Nên gọi là hư vọng.

Nên biết trí ấy giữ

Phước mới không hư vọng

Hiển bày nhân phước ấy

Lại nêu dụ lần nữa.

Tức nơi chân Pháp thân

Không tướng hảo viên mãn

Cũng không là tướng đủ

Tánh không thân nên biết.

Nơi Pháp thân không riêng

Không Như Lai, không hai

Lại nói tướng đủ kia

Do hai Thể đều không.

Như Phật nói cũng không

Nói hai là chỗ chấp

Do không lìa pháp giới

Nói cũng không tự tánh.

Năng thuyết sở thuyết tuy thâm diệu

Nhưng cũng chẳng phải không kính tin

Do phi chúng sinh, phi phi sinh

Phi Thánh nên tánh Thánh tương ưng.

Ít pháp nên không có

Vô thượng giác, nên biết

Do pháp giới không tăng

Tánh bình đẳng, thanh tịnh.

Cùng phương tiện vô thượng

Do tánh lậu, phi pháp

Vì thế chẳng pháp thiện

Do đấy gọi là thiện.

Nói pháp tuy vô ký

Không chẳng được, nên biết

Do một pháp bảo nầy

Hơn vô lượng báu kia.

Nơi các loại toán, thế

Nhân cũng có sai khác

Tầm tư nơi thế gian

Dụ chỗ không sánh kịp.

Pháp giớibình đẳng

Phật không độ chúng sinh

Nơi các tên cùng tụ

Chẳng ở ngoài pháp giới.

Nếu khởi nơi pháp chấp

Cùng ngã chấp hơn, đồng

Định chấp thoát hữu tình

không chấp vọng chấp.

Chẳng nên dùng thể sắc

Chỉ Pháp thân Như Lai

Chớ khiến Chuyển luân vương

Cùng Như Lai ngang nhau.

Tức quả báo tướng đủ

Phước viên mãn không nhận

Có thể tạo Pháp thân

Do phương tiện tánh khác.

Chỉ thấy sắc, nghe tiếng

Người ấy chẳng biết Phật

Pháp thân, chân như nầy

Chẳng phải cảnh giới Thức.

Phước kia không hề mất

Quả báo không đoạn tuyệt

Được nhẫn cũng không đoạn

Do đạt không cấu nhiễm.

Lại luận về nhân phước

Vì đây nêu dụ kia

Phước ấy không có báo

Chính nhận, không nhận vượt.

Phước kia tạo quả hóa

Tạo lợi ích hữu tình

Sự ấy do tự nhiên

Thành Phật hiện các phương.

Đến, đi cũng là hóa

Chánh giác luôn chẳng động

Đối nơi chốn pháp giới

Chẳng một, khác nên biết.

Vi trần đem làm mực

Dụ hiển bày pháp giới

Luận ấy tạo sự mực

Làm rõ phiền não tận.

Tánh không tụ không hợp

Hiển thị phi một tánh

Nơi tánh hợp chung kia

Rõ tánh chẳng phải khác.

Chẳng rõ chỉ lời tục

Các phàm phu vọng chấp

Đoạn hai thứ ngã, pháp

Đó gọi là chứng giác.

Vì thế kiến, không kiến

Không cảnh, chấp hư vọng

Do đấy là chướng tế

Biết như vậy nên đoạn.

Do đạt hai thứ trí

Cùng định, mới dứt trừ

Nêu phước rõ Hóa thân

Phước vô tận chẳng không.

Lúc chư Phật thuyết pháp

Không nói thân là hóa

Chính do không tự nói

Nên là nói chân thật.

Như Lai chứng Niết-bàn

Không tạo cũng chẳng khác

Hợp tạo ấy có chín

Dùng chánh trí để quán.

Tướng kiến cùng với thức

Nơi ở thân thọ dụng

Quá khứ cùng hiện còn

Chưa đến, quan sát rõ.

Do quán xét về tướng

Thọ dụng cùng đổi dời

Ở trong sự hữu vi

Đạt tự tại vô cấu.

HẾT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10250)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12233)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12900)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17277)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52693)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21212)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10586)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19087)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12306)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16711)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12433)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18815)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19419)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15421)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11297)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17018)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11630)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14934)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14474)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11542)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18238)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11412)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15714)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18259)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant