Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam Pháp Ấn, Giáo Lý Đặc Trưng Trong Đạo Phật

03 Tháng Hai 201513:20(Xem: 10490)
Tam Pháp Ấn, Giáo Lý Đặc Trưng Trong Đạo Phật

TAM PHÁP ẤN
GIÁO LÝ ĐẶC TRƯNG TRONG ĐẠO PHẬT

Thích Lệ Định (*)



tam phap anA - DẪN NHẬP :

Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộgiải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này.

Trước thời Đức Phật xuất hiện, về mặt tư tưởng Tôn giáo, triết học cũng như kinh tế, chính trị và xã hội Ấn Độ vô cùng phức tạp. Lúc bấy giờ, Ấn Độ có trên 62 học thuyết khác nhau, chi phối toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học, nổi bật nhất là Bà La Môn Giáo. Ấn Độ như một thành phố phức tạp, bao học thuyết là bao đường đan chéo nhau, đa dạng vô cùng . Bởi các học thuyết đó không tránh khỏi vành đai tranh chấp, không tô điểm cho đời bằng vẻ đẹp an vui hạnh phúc. Còn xã hội thì phân chia bốn giai cấp rõ rệt; giai cấp Bà La Môn ( Brahmana ) và giai cấp Sát Đế Lợi ( Ksatriya ) được xem là những người thuộc giai cấp bề trên, thụ hưởng mọi quyền lợi, là giai cấp thống trị; còn gia cấp Phệ Xá ( Vaisya ) và Thủ Đà La ( Sùdra ) là những hạng nô lệ, tiện dân luôn bị xã hội khinh miệt, chà đạp, không được luật pháp bảo hộ .

Họ là những người ở dưới đáy xã hội, luôn bị áp bức bóc lột không chút thương tiếc, nhất là giai cấp Thủ Đà La. Sống dưới một xã hội về vật chất thì đang rên siết dưới ách bất công, với bao phiền trược vây quanh, bao nghịch duyên đau khổ luỵ phiền. Về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo trong những luồng tư tưởng lý thuyết rối ren. Con người còn biết bám víu vào đâu ? biết tin tưởng vào ai ? Thật là một diễn cảnh vô cùng bi thảm, Vì thế con người luôn khát khao có một lối sống tươi đẹp chân chánh để vượt qua thác loạn của cuộc đời .

Giữa hoàn cảnh xã hội bế tắc và con người dường như không còn lối

thoát cho cuộc đời. Chính giờ phút quan trọng ấy, Đức Phật, bậc vĩ nhân trong các vĩ nhân đã xuất hiện như mặt trời sáng ấm ban mai, xua tan bóng tối của đêm đen dày đặc đã từ lâu che phủ nhân sinh. Đây là sự kiện trọng đại nhất trong các sự kiện trọng đại của lịch sử nhân loại. Sự xuất hiện của đức Thế Tôntiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai còn mê ngủ trong đêm dài tăm tối; là thông điệp cứu khổ cho vạn loại chúng sinh đang sống trong cảnh lầm than, mê mờ đầy dẫy tham , sân , si . . .

Suốt 49 năm hoằng pháp lợi sanh, Đức Phật đã để lại cho chúng sanh một kho tàng chánh pháp vô giá, một triết lý sống mang đậm tính nhân bản xuyên cả không gianthời gian. Kho tàng giáo lý ấy được truyền trải qua nhiều quốc độ khác nhau. Hơn nữa, Giáo lý đó đã được “ SƯ SƯ KẾ TỤC – TỔ TỔ TƯƠNG TRUYỀN “. Các Ngài kế thừa, phát huy và ứng dụng cho từng hoàn cảnh, từng đối tượng; tuỳ căn cơ cao thấp , sâu cạn mà xiển dương. Vì vậy, chắc chắn có nhiều sự thay đổi. Nguy hại hơn nữa là những giáo lý của ngoại đạo cũng không ngừng tìm cách chen vào để phá hoại chánh pháp, đã làm cho ý nghĩa chân chính của giáo lý bị pha trộn và ít nhiều làm mất đi tính chánh thống của giáo lý Đạo Phật , Đó cũng là điểm khó khăn cho hàng hậu học trong việc nghiên cứu, tu tập giáo lý Phật Đà.

Thế thì đâu là chánh pháp ? Đâu là tà giáo ngoại đạo ? Lấy gì để xác định , chứng nhận tính chính thống của giáo lý đạo Phật ? Bằng tuệ giác siêu việt của mình, Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật. Phương pháp đó là gì ? Đó không gì khác chính là TAM PHÁP ẤN. Tam Pháp Ấn mang tính pháp định trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật Giáo.

Tất cả giáo lý của đạo Phật đều phải mang ba dấu ấn đó. Giáo lý nào không có ba dấu ấn trên thì giáo lý đó không phải là giáo lý chính thống của Phật Giáo. Vậy Tam Pháp Ấn gồm những gì ? Trong Kinh Tương Ưng III, Đức Phật có lần hỏi các thầy Tỳ Kheo :

“ Các Thầy cái gì được thấy, được nghe được nghĩ đến, được biết, được tìm cầu, được tư duy, cái ấy thường hay vô thường ?

- Là VÔ THƯỜNG , bạch Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay vui ?

- Là KHỔ, bạch Thế Tôn.

- Cái gì Vô thường, khổ chịu sự biến hoại, nếu không chấp thủ cái ấy, thì có thể khởi lên suy nghĩ : Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi ?

- Thưa không ( VÔ NGÃ ) bạch Thế Tôn. “

Như vậy, qua phần Kinh văn trên chúng ta thấy rõ Tam Pháp Ấn chính là: VÔ THƯỜNG – KHỔ và VÔ NGÃ.

Trong phạm vi cho phép của đề tài này –Tam Pháp Ấn (VÔ THƯỜNG – KHỔ và VÔ NGÃ ) được xem như là nét đặt thù căn bản nhất của toàn bộ giáo lý Đạo Phật.

Trước khi đi vào phân tích, chúng ta hãy tìm hiểu xuất xứ Kinh và định nghĩa thế nào là Pháp Ấn?

B – NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : XUẤT XỨ VÀ ĐỊNH NGHĨA PHÁP ẤN

1.1 – XUẤT XỨ KINH PHÁP ẤN :

Kinh Pháp Ấn ( 經法印 ) do Thiền Sư Thi Hộ đời nhà Tống chuyển dịch từ Phạn ngữ sang Hán văn. Kinh này thuộc về Kinh Bộ A Hàm, là Kinh số 104 của Đại Tạng Tân Tu . Ngoài ra trong Đại Tạng cũng còn có hai Kinh nói về Tam Pháp Ấn , đó là Phật Thuyết Thánh Pháp Ấn Kinh ( Kinh số 103 ) và Kinh số 80 của bộ Tạp A Hàm ( Kinh số 99 của Đại Tạng Tân Tu. Kinh này do Thiền Sư Câu Na Bạt Đà La dịch cũng vào đời nhà Tống )

Trong Kinh tạng Pàli , đề tài Pháp Ấn được nói đến trong kinh số 43 của Trung Bộ ( Najjhima Nikaya ) và trong bộ Patisambhidàmaggo. Nội dung của ba bộ kinh đại khái tương đồng, ít có phần dị biệt. Song đứng về phương diện mạch lạc và ý tứ thì Phật Thuyết Thánh Pháp Ấn Kinh khúc chiết và súc tích hơn, còn kinh văn thì cũng ngắn gọn hàm súc hơn.

Ngoài các bộ kinh nói về Tam Pháp Ấn thì các bộ Luận của Đại thừa cũng có đề cập đến Tam Pháp Ấn , tiêu biểuĐại Trí Độ Luận quyển 22 do Bồ Tát Long Thọ viết vào thế kỷ thứ II .

1.2 – ĐỊNH NGHĨA PHÁP ẤN :

Pháp là gì ? Nhậm trì tự tánh – Quỷ sanh vật giải , Nghĩa là cái gì giữ được hình dáng hay khuôn khổ của nó làm cho người khác trông thấy mà biết đó là vật gì thì gọi là Pháp. Nhưng Pháp trong phạm vi trình bày của đề tài này thì Pháp là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được các Thánh đệ tử ghi chép lại trong Tam Tạng Thánh Điển.

Pháp nói vắn tắt cho dễ hiểuGiáo Pháp.

Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu.

Như vậy Pháp Ấn là khuôn dấu hay dấu hiệu của chánh pháp, là tiêu

chuẩn để chứng minh cho tính đúng đắnchính thống của giáo lý đạo Phật .

Tam Pháp Ấn là ba đặc điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật , ba khuôn dấu của chánh pháp , là ba bản chất của thế giới hiện tượng : VÔ THƯỜNG – KHỔ và VÔ NGÃ . Ba đặc điểm này xác định tính đích thực của giáo lý Phật Đà, nhằm đảm bảo mọi sự suy tư, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người đệ tử Phật không vượt ra ngoài mục đích giải thoátNhư Lai đã giảng dạy.

CHƯƠNG 2 : PHÂN TÍCH TAM PHÁP ẤN

2.1 – PHÁP ẤN THỨ I : VÔ THƯỜNG (Anitya - 無常) :

Bốn mùa luân chuyển, hoa nở rồi tàn, trăng tròn lại khuyết. . . Dòng đời biến dịch đẩy xô con người đến tận cùng hoang vu, thinh lặng. Người lữ hành mãi lang thang dong ruổi muôn vạn nẽo, lấy gió mát, trăng thanh làm bạn, xem sông núi mây ngàn là tri kỷ, tri âm. Song chợt một ngày bước chùn, gối mỏi.Thì than ôi ! áo đã sờn vai , đầu đã bạc tóc.

Biển đời vẫn lặng lờ trôi, từng cơn sóng nhấp nhô, rì rào, vỗ về bờ cát trắng đã cuốn đi biết bao hạt cát vào lòng bể khơi. Có bao giờ chúng ta tự hỏi: Sóng sẽ về đâu ? Hạt cát còn hay mất giữa đại dương mênh mông ? Còn điều gì lung linh mầu nhiệm bên trong lớp áo Vô thường biến dịch.

Trong cuộc sống thực tại của con người, sở dĩ mang đầy gánh nặng đau khổ là do mê lầm, chìm đắm chạy theo ngũ dục, thất tình mà mấy ai nhận thức được rằng :

Cuộc đời rồi chẳng còn chi

Ruộng vườn nhà cửa có gì của ta

Trắng tay lòng mẹ sinh ra

Một hơi vĩnh biệt cũng là tay không

Đó chính là quy luật muôn thuở của vũ trụ nhân sinh, là định luật nghìn đời không thể thay đổi. Chúng ta hãy nghe Đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú

Phẩm Vô thường thí dụ thứ 4 như sau:

Thường giả giai tận

Cao giả tất đoạ

Hiệp hội hữu ly

Sanh giả hữu tử

Tạm dịch :

Có còn thì có mất

Rơi xuống bởi trèo cao

Hết hiệp rồi tới tan

Có sống là có chết

Hay Tổ Quy Sơn cũng đã từng dạy :

“. . . Vô thường lão bệnh, bất dữ nhơn kỳ

Tiêu tồn tịch vong, sát na dị thế

Thí như xuân sương hiểu lộ, thúc hốt tức vô

Ngạn thọ tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. . . “

Hoà Thượng Hoàn Quan dịch :

“. . . Vô thường lão bệnh, chẳng hẹn cùng người

Sớm còn tối mất, bổng chốc đã qua đời khác

Thí như sương xuân, móc sớm, chợt có liền không

Cây bờ, dây giếng nào được lâu bền . . .”

Vậy thế nào là Vô thường ?

2 .1.1 – Định nghĩa :

Vô thường tiếng Phạn là Anitya, có nghĩa là biến dịch, thay đổi, không

cố định. Vạn vật không đứng yên một chổ mà luôn luôn biến đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành sang trạng thái biến hoại rồi tan rã theo định luật Thành

Trụ – Hoại – Không.

Cái mà Nho gia gọi là Dịch hóa thì nhà Phật gọi là Vô thường.

Vô thường là nói trong giới vật chất cũng như trong giới tinh thần không

có cái gì cố định, vạn pháp đều nằm trong dòng biến dịch không ngừng. Một pháp vừa sinh là đi dần đến chổ tan rã. Một pháp tan rã mở đầu cho một pháp đang sanh. Thực tại không phải là một ao tù mà là một dòng nước . Như Xuân Diệu đã từng viết :

Hoa nở để rồi tàn

Trăng tròn để rồi khuyết

Bèo hợp để chia tan

Người gần để ly biệt.

Ở phương Tây, Heraclite cũng đã từng nói : “ Người ta không bao giờ tắm hai lần trong một dòng sông “ . Rõ ràng Ông đã nói tới sự Vô thường thay đổi. Đúng vậy, một khi chúng ta xuống tắm dưới sông rồi đi lên, sau đó xuống tắm lại thì dòng sông đã là dòng sông khác mất rồi. Vì dòng sông không mãi đứng yên một chổ mà luôn luôn trôi chảy không chút ngừng nghỉ. Ở phương Đông đức Khổng Tử cũng từng nói về Vô thường. Có lần đứng trên bờ nhìn xuống dòng sông Ông nói : “ Thệ giả như tư phù, bất xả trù dạ “ ( Trôi mãi thế này sao, ngày đêm không dừng nghỉ ).

Theo Phật Giáo, tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian do các tập hợp duyên sanh đều mang tính Vô thường. Nói cách khác, Vô thường nghĩa là sự vật không mang tính đồng nhất bất biến. Hòn núi là tập hợp duyên sinh, thân thể con người là tập hợp duyên sinh, mây trôi, nước chảy, lá rụng bên đường cũng là tập hợp duyên sanh, cho đến hạt bụi nhỏ cũng do duyên sanhhiện hữu. Do vậy, hòn núi, thân người, lá cây, hạt bụi . . . đều luôn biến đổi, tức phải chịu sự tác động của Vô thường . Mọi sự mọi vật trong thế giới hiện tượng từ các vật thể vĩ mô đến các thế giới vật chất cực nhỏ vi mô như những hạt nguyên

tử, hạt proton, hạt neuton luôn biến chuyển thay đổi liên tục, liên tục không đứng yên.

2 .1.2– Phân loại :

Phật Giáo chia Vô thường làm ba loại như sau để cho dễ phân tích và quán sát:

a – Thân Vô thường :

Kiếp người với khoảng thời gian bất định 60 năm cuộc đời, có thể hơn thế nữa nhưng cũng có thể chỉ 20 năm, 10 năm. Có người chưa một lần nếm đắng cay, bùi ngọt mà cuộc đời ban tặng thì đành chịu vùi xác thân dưới lòng đất lạnh, đêm đêm nghe côn trùng rả rích.

Bằng tuệ giác của mình các Thiền sư đã nhìn vào lòng vạn vật, thấy rõ thân này là giả tạm, mong manh. Bằng âm sắc thi ca, bằng hình tượng nghệ thuật, các Ngài đã thức tỉnh chúng ta biết sự mong manh của kiếp người.

Như chúng ta đã biết, thể tánh của vạn phápbất biến, còn vạn hữucon người được hình thành theo pháp duyên sanh. Thế nên, nó cũng theo thời gianhoại diệt, tan rã. Trong kinh Pháp Cú Thế Tôn đã dạy:

Thân này không bao lâu

Sẽ vùi sâu đáy mồ

Như cây khô khúc gỗ

Vưt bỏ vì vô tri.

Cái thân của chúng ta không thể ước lượng được với thời gian, tuỳ theo sự tu tập, nhưng cũng không thể biết trước được sự sống chết, vì Vô thường không bất cứ một ai. Khi một hơi thở không ra vào nữa thì đã chấm dứt một kiếp người.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, có đoạn đức Phật hỏi các thầy Tỳ

Kheo mạng sống con người là bao lâu ?

- Vị thứ nhất trả lời : Trong vài ngày

- Phật bảo : Ông chưa hiểu đạo

- Vị thứ hai đáp : Trong một bữa ăn

- Phật bảo : Ông cũng chưa hiểu đạo

- Vị thứ ba trả lời : Mạng sống con người trong một hơi thở.

- Đức Phật khen : Hay lắm. Ông mới thật sự là người hiểu đạo.

( Phật Tổ Ngũ Kinh trang 275 )

Thân tứ đại này rồi sẽ hư họai dưới ba tấc đất, giống như khúc cây mục nát không thể dùng vào việc gì nữa. Mới hôm nào đầu xanh, tuổi trẻ mà bây giờ tóc bạc da nhăn, chân mỏi gối dùn, mắt mờ tay điếc. Cho nên cổ đức có câu :

Cái thân như tấc bóng chiều

Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi

Hay trong TUYỂN TẬP CÁC BÀI SÁM VĂN trang 192 Thầy Thích Tâm

Chơn đã viết :

Cuộc đời giấc mộng Nam Kha

Giật mình tỉnh dậy thì ta tuổi già

Trăm năm cõi mộng người ta

Sanh già bệnh tử thiệt là chẳng sai

Còn thêm địa thủy phong tai

Sang hèn, nghèo khó chẳng ai khỏi nào. “

mong manh quá, như bọt bèo như dây leo miệng giếng không chi là bền chắc cả. Chúng sanh vì một niệm mê lầm bất giác , nhận giả làm chơn, mãi lo cung phụng cho cái thân tạm bợ này mà nào có biết :

“ Thân như điển ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thạnh suy vô bố uý

Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.” ( Thiền Sư Vạn Hạnh )

Tạm dịch :

Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời

Sá chi suy thạnh việc đời

Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Chính ngay nơi thân xác ta còn không giữ được, huống chi là tài sản, vợ

con , danh vọng phú quý của cuộc đời. Đôi lúc chúng ta đang vui hạnh phúc sum họp trong gia đình thì đùng một cái Vô thường đến sanh tử biệt ly.

Cho nên Khổng Tử đã từng than :

Ngô hữu đại hoạn vị vô hữu thân

Ngô nhược vô thân hà hoạn chi hữu

Nghĩa là :

Sở dĩ ta có cái khổ lớn vì ta có thân,

Nếu ta không có thân này thì đâu có khổ .

Ngày nay, khoa sinh lý học ( Biologic ) tuy chưa có thể hiểu biết hết đến chổ rốt ráo, cũng cho chúng ta biết rằng trong thân thể mỗi người, mỗi giây đồng hồ, có hàng nghìn hàng triệu tế bào chết đi và hàng nghìn hàng triệu tế bào khác sinh ra để thay thế. Ngay nơi những vật như bức tường rắn chắc, chiếc xe, cái bàn trước mắt, ta tưởng chừng chúng chẳng thay đổi; song từng giây từng phút chúng luôn bị bào mòn hư hoại.

Như vậy, thân ta và thân mọi vật luôn đổi mới, biến dịch không ngừng, chúng ta không chỉ có một thân, mà là vô số lượng thân đang nối tiếp nhau không xen hở, thân trước làm nhân cho thân sau và thân sau là quả của thân trước . Theo đạo Phật thì trong thời gian 24 giờ, thân chúng ta thay đổi chết đi sống lại tới 6.400.099.980 lần; nhưng vì mắt thường chúng ta không thể trông thấy được sự thay đổi quá nhanh của thân này.

Tóm lại, tất cả vạn vật đều chết đi, sống lại, sống sống, chết chết, liền liền nối tiếp nhau nhanh như dòng nước chảy. Nước mà chúng ta thấy đang chảy ở ngay trước mắt chẳng phải là nước chúng ta trông thấy chảy ở nháy mắt trước và nước chảy trong nháy mắt sau đã không phải là nước hiện tại nữa rồi.

b – Hoàn cảnh Vô thường :

Chẳng những thân thể chúng ta luôn biến chuyển , thay đổi tương tục không dừng mà ngay cả sơn hà đại địa cũng không tránh khỏi định luật Vô thường kia. Điều này chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy.Mới hôm nào là đồng hoang, cỏ cháy mà hôm nay là khu du lịch vui chơi của hàng ngàn du khách.

Ngày hôm qua, nơi này là những nhà lầu huy nga đồ sộ mà hôm nay chỉ còn là một bãi đất trống lạnh lẽo. Chắc chúng ta ai ai cũng biết khu Nam Sài Gòn trước khi là đồng không vắng vẻ mà bây giờ nó trở thành một khu đô thị mới với nhiều nhà lầu mọc lên như nấm, đường sá thênh thang.v .v. . . Điển hình và sống động nhất cho những gì đã nói là đợt Sóng Thần vừa qua đã cướp đi bao sanh mạng, bao của cải vật chất của con người. Chúng ta hãy nhìn đi để thấy và để cảm nhận thế nào là hoàn cảnh Vô thường. Thế cho nên cổ đức đã dạy :

Biển hoá cồn dâu rất nhiệm mầu

Sông dài núi lớn chắc già đâu

Rừng mây lơ lửng chim vướng bẩy

Đáy nước mịt mù cá mất câu

Triệu phú Thạch Sùng đâu thấy nữa

Oai quyền Tần Thủy có bao lâu

Soi gương kim cổ mau tu tỉnh

Thế sự công danh dập bả trầu.

Đây là một nhận xét rất tinh tế. Hằng ngày nhiều lúc người ta cứ lầm tưởng những vật trước mắtthường hằng vĩnh cửu, bất biến không thay đổi.

Một đời chúng ta đã chứng kiến biết bao sự thăng trầm vinh nhục, nghèo khổ, sang giàu, biết bao sự thay đổi của cuộc đời. Ôi ! cuộc sống thật là mong

manh tạm bợ, biến đổi khôn lường.Thật là:

Tiêu điều nhơn sự đã xong

Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ

Quán thu phong đứng rủ tà huy

Phong trần đến cả sơn khê

Tan thương đến cả hoa kia cỏ này.

c – Tâm Vô thường :

Vô thường không chỉ tác động đến thế giới vật chất mà nó còn chi phối cả trong thế giới tâm linh ( tâm thức ). Tâm thức con người luôn biến đổi, hết giận rồi thương, vui đó rồi buồn đó . v . v . . . Nó luôn biến chuyển như dòng suối , chảy mãi, chảy mãi không một phút giây nghỉ ngơi.

Vì thế cổ đức mới dạy tâm của con người là “ Tâm viên ý mã “. Hay

trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy : Tâm con người thường dao động , hốt hoảng, biến chuyển khó chế phụcCổ đức cũng đã từng dạy :

Con người cái ý vốn hai

Khi mừng khi giận đổi thay không lường.

Nó luôn luôn thay đổi từng giây, từng phút. Từng sát na một . Cho nên Thế Tôn đã ví : “ Tâm người như vượn chuyền cây, như ngựa rong chơi ngoài đồng nội. “ Chẳng khác nào từng đợt sóng ngoài biển khơi, có rồi mất, mất rồi có, biến chuyển liên tục. Cũng chính ngay tâm sinh diệt biến đổihiện diện của phiền não, tham, sân. Si .v.v. . . Tính chất Vô thường của tâm linhchuyển hoá không thật, chợt sanh chợt điệt. Chính vì nó quá vi tếchúng ta cũng thờ ơ không để ý đến, nên cứ lầm tưởng nó không có thay đổi.

Thật ra tâm được cấu tạo bởi từng niệm sanh diệt liên tục. Cái suy nghĩ

phút trước không phải là cái suy nghĩ của lúc này; cái suy nghĩ của lúc này không phải là cái suy nghĩ của lúc sau. Bởi tâm là niệm niệm nối nhau sanh

khởi, chuyển hoá liên tục, liên miên bất tận không bao giờ đứng yên một chổ.

Vì vậy Tổ Quy Sơn đã dạy :

Niệm niệm tấn tốc nhất sát na gian

Chuyển tức tức thị lai sanh

Hà nãi yến nhiên không quá .“

( Phật Tổ Ngũ Kinh trang 451 )

Nghĩa là : “ Niệm niệm sanh diệt qua mau, trong một sát na đã chuyển qua đời khác. Tại sao chúng ta lại nỡ khoanh tay để ngày tháng luống qua mau”

Dòng tâm thức sinh diệt ấy chính là vọng tưởng điên đảo của lớp vô minh trùng trùng, điệp điệp, cuốn chúng sanh trôi lăn mãi trong bể khổ luân hồi sanh tử.

Cuộc đời là một hí trường mà chúng ta vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên, đồng thời cũng là nhân chứng sống cho tấn tuồng đời đó. Vô thường là một cuộc luân vũ của những hình dạng phù du ấy và chúng ta là nhân chứng cho tấn tuồng đời, cho sự đổi thay, biến chuyển thâm trầm của kiếp sống nhân sinh. Nhiều lúc chúng ta tự hỏi tại sao mọi sự vật Vô thường tạm bợ như thế ? Một câu trả lời rất minh bạchđơn giản là vì chúng do duyên sinh, dưới cái nhìn Phật học, con người cũng như sơn hà đại địa chỉ là tập hợp của năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành và thức nên chúng Vô thườngbiến đổi theo định luật Vô thường là sự hiển nhiên, là chân lý, là bản chất của thế giới hiện tượng. Cho nên chúng ta phải quán sát, thẩm thấu, tư duy thiền quán để chế ngự sự tham ưu ở đời.

Trước khi nhập Niết Bàn đức Thế Tôn còn ân cần dạy chúng ta rằng :

“ Trong các dấu chân, dấu chân voi là lớn hơn cả. Trong các phép quán niệm xứ thì niệm Vô thường là hơn cả “ ( Kinh Đại Bát Niết Bàn )

Thế nhưng, hiện tượng Vô thường không tất yếu đưa đến khổ ( Pháp ấn thứ hai ). Nếu chúng ta chỉ hiểu đơn giản Vô thường là khổ thì giáo lý Vô thường sẽ không phải là con dấu của chánh pháp nữa. Trong thực tế nếu khôngVô thường thì sẽ không có sự sống và không có sự phát triển. Nếu hạt bắp thường tại thì nó không bao giờ trở thành cây bắp hay phà Mỹ Thuận vẫn là phà Mỹ Thuận, không bao giờ có cầu Mỹ Thuận hiện hữu như hôm nay.

Vô thường cũng đồng nghĩa với nguyên lý sinh tồn và phát triển của con ngườithế giới tự nhiên. Nếu sự vật không Vô thường thì làm sao một chính sách độc tài có thể thay đổi bằng một chính sách dân chủ? Người này hôm nay rất dễ ghét song nhờ có sự Vô thường nên chúng ta có thể chuyển hoá người đó thành người dễ thương. Nếu sự vật không Vô thường biến đổi thì lịch sử tiến hoá của nhân loại sẽ không có nền văn minh phát triển như ngày nay mà nền văn minh nhân loại chỉ tồn tạithời kỳ đồ đá. và nhất là chúng ta sẽ không có hy vọng hóa giải các tập khí tham ái, phiền não vô minh đang tiềm ẩn sâu kín trong tâm hồn của mỗi chúng ta.

Nếu sự vật không Vô thường thì trên thế gian này sẽ không bao giờ có khái niệm trồng trọt , khai hoang, không có khái niệm văn minh, phát triển .v.v. . . . Chính Darwin nhà Sinh học nổi tiếng của thế giới trong thuyết tiến hóa của mình; Ông đã chứng minh được Vô thường chính là sự tiến hoá.

Do đó, giáo lý Vô thường đem lại cho mọi nổ lực sáng tạo. Ta có thể khẳng định Vô thườngđặc tính đích thực của cuộc sống. Đây cũng là khía cạnh tích cực của Vô thưòng mà ít có ai nói tới. Thầy Long Thọ đã nói những câu như sấm sét :“ Nhờ Vô thường, nhờ Vô ngã, nhờ Không mà tất cả thành tựu”. Nếu khôngtrí huệ, không có thực chứng thì làm sao nói được những câu đanh thép như thế.

Cuối cùng người viết xin mượn bài thơ CUỘC ĐỜI QUA MẮT TÔI của Hoà Thượng Thích Thanh Từ để kết thúc phần trình bày về Vô thường :

Chiếc thân tứ đại khói

Sinh hoạt thế gian mây

Thành công khối nước đá

Thất bại chùm bọt tan

Nhục vinh bong bóng nước

Thương ghét hạt sương mai

Khổ vui trong giấc mộng

Lành dữ bóng chim bay

Tháng ngày cái chớp mắt

Còn mất ánh trăng lai

Chung cuộc cơn gió thoảng

Viên mãn bầu trời trong

2.2 – PHÁP ẤN THỨ II : KHỔ ( Dukkha - 苦) :

Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì không hiểu rõ bản chất khổ đau nên không tìm được lối thoát thật sự, đôi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng khổ đau.

2.2.1 – Định nghĩa :

Khổ tiếng Pàli là Dukkha; “ Du” có nghĩa là khó còn Kkha có nghĩa là chịu đựng, là kham nhẫn. Nói cho dễ hiểu Dukkha có nghĩa là sự bức bách, đau đớn, khó chịu . . . Hán tự 苦 có nghĩa là đắng, hàm chức rằng sự đau khổ trong thế giới hữu tình, chứa đựng nhiều vị đắng chát, chua cay, đem lại cảm giác bất an. Trong kinh Tương Ưng trang 133 Đức Phật diễn tả sự khổ đau của con người như sau :” Toàn thể thế giới bốc cháy, toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, toàn thể vũ trụ làm mồi cho lửa, toàn thể vũ trụ rung lập cập. “

Đức phật đã căn cứ vào những hiện tượng duyên khởi hiện hữu - vô thườngbiến dịch của nhân sinhvũ trụxác nhận rằng thế gian là giả tạm, bất toàn, trống rổng. Ngay đến những trạng thái mà người đời cho rằng hạnh phúc, an vui cũng đều là mầm mống của khổ đau.

Khổ đau là một sự thật mang tính phổ biếnhiện diện với nhiều hình thái đa dạng khác nhau. Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã diễn bày nổi khổ

trần gian như một định chế đeo mang trọn kiếp người :

Trắng răng đến thuở bạc đầu

Tử,sanh, kinh, cụ làm đau mấy lần

( Cung Oán Ngâm Khúc câu 59 – 60 )

Khổ trong Pháp ấn thứ hai này mang một triết lý sâu sắc, hàm chứa nội dung uyên áo rộng lớn . Khổ ở đây chính là Khổ Thánh Đếđức Thế Tôn đã trình bày trong Tứ Thánh Đế. Đó cũng là nội dung của kinh Chuyển Pháp Luân ( Dhammacakhappavattana sutta ) mà Như Lai đã thuyết giảng lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển cho năm anh em Kiều Trần Như nghe.

2.2.2 – Phân loại :

Theo đạo Phật khổ đau trong đời sống con người được chia qua 8 hiện tượng như sau :

a – Sanh khổ :

Khổ trong đời sống của con người được chia làm hai phần , đó là khổ trong lúc sanh và khổ trong đời sống.

– Khổ trong lúc sanh :

Trong kinh Phật dạy : mỗi mỗi loại chúng sanh trong từng giới loại, sự

xuất sản, xuất sanh , xuất thành, tái sanh, sự hoạch đắc các căn gọi là sanh. Sanh gồm người sanh và người được sanh.

Với con người, sanh có nghĩa là từ khi kết thai cho đến khi ra đời. Sự kết thai khởi đầu đã khó khăn phải đủ điều kiện như nghiệp thức, tinh cha huyết mẹ kết hợp và phải trong lúc bà mẹ có khả năng thụ thai v.v… thì thai nhi mới hình thành. Khi kết thai người mẹ bắt đầu biếng ăn mất ngủ, nôn mửa, bần thần … thai nhi càng lớn, người mẹ càng mỏi mệt, nặng nề, đi đứng khó khăn chậm chạp. Khi sanh người mẹ bị chịu nhiều đau đớn, sức khoẻ suy yếu, tinh huyết hao mòn có khi phải mổ sẻ lắm lúc làm cho người mẹ chịu khuyết tật hay chết v.v … đều đau khổ.

Còn thai nhi thì sao? Từ khi tượng thai cho đến lúc vào đời cũng chịu nhiều điều khổ sở không kém gì người mẹ. Chín tháng mười ngày đối với thai nhi là cả một thời gian dài đăng đẳng như bị giam hảm trong bóng tối, chật hẹp hơn cả lao tù. Khi thì cảm thấy lỏng bỏng như bong bóng phập phều, khi thì bị chèn ép như dằn bột dưới thớt to, khi thì nghe nóng như giữa sa mạc cháy bỏng, có lúc cảm thấy lạnh như giá băng.

Thức ăn và những chuyển biến tâm lývật lý của người mẹ đều có ảnh hưởng mạnh đối với thai nhi. Đây là điều khổ lớn. Nghiệp thức vào thai là kết quả của ái, thủ, vô minh, khiến thai nhi quên hết những gì trong đời sống quá khứ. Đây cũng là nỗi khổ lớn khác. Đến kỳ sinh sản, thân con phải chen qua chổ chật hẹp như bị đá ép bốn bề, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc Oa - Oa ( khổ oa - khổ oa) . Đúng như Ôn Như Hầu đã nói:

“ Thảo nào lúc mới chôn nhau

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra “

Hay Nguyễn Công Trứ đã viết :

“Thoạt sinh ra thì đành khóc chóe

Trần có vui sao chẳng cười khì “

– Khổ trong đời sống :

Sau khi được sanh ra lớn lên trong cuộc đời, đời sống con người cũng gặp biết bao là khổ đau, trắc trở. Con người ở đời hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn. Mong uớc những điều mà không thể thành tựu được thì thật là tuyệt vọng ưu sầu … đều là khổ. Trong cuộc sống còn có những mong ước khác như giàu sang phú quý, danh cao, quyền lớn . .v. v . . . những mong uớc ấy không trở

thành hiện thực thì khổ.

Cảm nhận được điều này nên cổ đức đã dạy :

Lọt lòng đã khóc khổ tu oa

Cái kiếp phù sinh kiếp đoạ mà

Vui sướng có chăng như gió thoảng

Dãi dầu chắc chắn tợ mưa sa

Danh cao lộc cả càng lo lắng

Sức yếu lực cùng phải trải qua

Bệnh tật rình chờ như cướp dữ

Sống còn tan tác giữa phong ba.

b – Già khổ :

Trong Đế Phân Biệt Tâm KinhTrung Bộ III trang 471 Đức Phật cũng

đã từng dạy : “ Sự niên lão, sự hư hoại, trạng thái răng rụng tóc bạc, da nhăn,

mắt mờ tai điếc, tuổi thọ rút ngắn , các căn biến hoại. Như vậy gọi là già. “

Hay cao dao ta cũng có câu :

Già nua là cảnh điêu tàn

Cây già cây cỏi, người già người si. “

Ở đời con người ai mà không già ? Cơ thể chúng ta biến diệt hư hoại trong từng giờ, từng phút, từng sát na. Nhưng tuổi còn trẻ ít ai nhận ra già là khổ, ai cũng muốn mình trẻ mãi, càng mong trẻ khi già thì đau khổ càng lắm.

Già là một điều kinh hãi, nó như mặt trời chiều chôn đi bao mơ ước. Càng già khí huyết càng hao mòn, bên trong ngủ tạng, lục phủ càng ngày càng suy yếu, bên ngoài các giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tay điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân rung rẫy, đi đứng khó khăn. Trí não ngày một suy kém, nhớ trước, quên sau . . . Đã vậy, mỗi khi thời tiết thay đổi thì cơ thể cũng đổi thay theo nóng lạnh thất thường., không chút gì vui sướng cả.

Thật là :

Tuổi già lùm cụm ốm đau hoài

Tóc bạc da mồi trí lẫn sai

Tay yếu chân mềm chờ giúp bữa

Mắt mờ tai điếc sống qua ngày

Tinh thần lụng bại tâm nhu nhược

Vật chất suy đồi tánh đổi thay

Mệt mỏi không chừng nhìn dĩ vãng

Đời tàn chưa biết có ngày mai

c – Bệnh khổ :

con người ai cũng phải bệnh tật, cái bệnh nó hành hạ xác thân con người, làm cho khổ sở đau đớn. Chỉ bị đau đầu, đau răng hay đau bụng, trúng thực . . . cũng làm cho con người vô cùng khổ sở; làm cho ta không làm chủ được thân này. Huống hồ là những bệnh trầm kha, nó hành hạ xác thân khổ sở khó chịu vô cùng. Mạng sống con người có thể bị vô thường cướp mất đi bất cứ lúc nào, kể cả sự nghiệp mà mình khổ công xây dựng ở đời. Trong cuộc sống có biết bao chứng bệnh khác, nhất là những căn bệnh nan y như: nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, hay căn bệnh quái ác Sida, v.v. . . ngày đêm luôn luôn rình rập và xâm nhập vào cơ thể bất cứ lúc nào, Thử một lần vào bệnh viện, chúng ta sẽ thấy tướng trạng thật sự của bệnh, khổ đến mức nào. Chúng ta hoàn toàn bị động trước cơn bịnh của kiếp người.

Thế nên mới biết :

Bệnh hoạn đeo theo để khổ đời

Con người vì thế phải mòn hơi

Bệnh xua quân tử không tròn mệnh

Bệnh khiến nam nhi chẳng kịp thời

Bệnh chuyển trần gian thành địa ngục

Bệnh mờ non nước án khung trời

Phải chăng mạnh khỏehy hữu

Nên mộng xuân hồng phải tả tơi.

d – Tử khổ :

Bệnh là nổi đau đớn như thế thì chết là cảnh tượng hãi hùng hơn. Con người ai cũng phải chết, chỉ sớm hay muộn mà thôi. Ở đời có người sợ chết đến nổi không dám nghe đến chữ CHẾT. Người bịnh khi hấp hối bị hành xác mới cảm nhận cái chết là đáng sợ, biết mình sắp chết thì tâm lý dao động, rối loạn, sợ hãi. Lo nghĩ hoang mang chết rồi không biết sẽ về đâu ? Tài sản, vợ con để lại cho ai ? Không biết chúng có giữ gìn được gia sản hay phá hết. Lúc đó các căn suy yếu, hư họai đau đớn vô cùng. Do đó ta thấy ám ảnh của cái chết đối với kiếp nhân sinh thật là khổ đau. Đúng như cổ đức đã dạy :

Tử là lìa bóng những người thân

Trước phút lâm chung khổ đoạn trường

Não dạ giã từ con hiếu thảo

Đau lòng ly biệt bạn hiền lương

Chỉnh lo cơ nghiệp rồi tan rã

Hướng thiện gieo duyên ngại bước đường

Hắc ám bao trùm mồ lạnh lẽo

Thẩn thờ vô định cõi sầu vương

e – Aùi Biệt ly khổ :

Sống trong tình thương đầm ấm của cha mẹ, vợ con, bạn bè. . . thế mà bị chia ly thì thật là khổ đau. Sự chia ly có hai loại.

– Sanh ly khổ :

Một gia đình đang sống vui vẻ hạnh phúc, bỗng vì hoàn cảnh bắt buộc, hay tai họa thình lình xảy đến như chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. . . làm cho mỗi người một nẽo, bơ vơ, thất lạc, kẻ trông người đợi. Trong những năm chiến tranh khốc liệt, nam thanh niên phải thi hành Nghĩa Vụ Quân Sự, chúng ta dễ dàng bắt gặp cảnh vợ lìa chồng, con xa mẹ khóc than lưu luyến không nỡ rời nhau. Thật là đau lòng xót dạ. Đúng như người đời thường nói :“Thà lìa tử ai nỡ

lìa sanh ?”

– Tử biệt khổ :

Sanh ly tuy là khổ nhưng còn có ngày gặp lại; nhưng chết rồi bao thuở mới được sum vầy ? Vì thế, đứng trước cảnh chết, là sự chia ly vĩnh viễn, con người không ai không đau khổ trước cảnh đó. Lâm vào cảnh này có người xót thương rầu rĩ, đến quên ăn bỏ ngủ, có người đau đớn tuyệt vọng toan tìm cái chết theo người quá cố.

f – Cầu bất đắc khổ :

Con người ở đời hy vọng càng nhiều thì thất bại cũng càng nhiều. Bất luận trong lảnh vực nào trong cuộc sống, số người được như ý thì quá hiếm hoi; trong khi đó kẻ thất bại, không như ý thì không sao kể xiết. Con người muốn được kết quả như ý thì phải tốn không biết bao nhiêu tâm huyết và sức lực, lao tâm,tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, nhưng chẳng may những điều ấy không thành thì sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Sự bất như ý của con người có thể nhiều không thể kể hết. Trong đó thất vọngcông danh, vì phú quý, vì tình duyên trắc trở là những đau khổ lớn nhất của kiếp nhân sinh.

Thế cho nên Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mới nói :

“ Gót danh lợi bùn pha chất xám

Mặt phong trần nắng nám mùi dâu.”

g – Oán tắng hội khổ :

Thương yêu xa lìa khổ đã đành, còn những điều bất như ý hay thù ghét

mà luôn gặp mặt thì nổi khổ cũng lắm phần đắng cay. Người ta thường nói :

“Thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt, ở chung với người nghịch như nếm mật nằm gai “

Ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, vợ chồng, con cái, anh chị em một khi vì một lý do nào đó mà bất hòa với nhau; khi gặp nhau còn thấy khó chịu vô cùng; huống hồ là kẻ thù bất cộng đáy thiên luôn gặp mặt mà còn phải

giả đò như thân quen thì nổi khó chịu, đau đớn ấy thật là tột cùng.

h – Ngũ ấm xí thạnh khổ :

Thân người là do năm ấm hay năm uẩn ( sắc – thọ – tưởng – hành và thức ấm ) giả hợp lại mà thành; mà giữa ngũ ấm luôn có sự xung đột, mâu thuẩn, chi phối lẫn nhau. Chính sự bất hoà này mà con người phải chịu biết bao là khổ sở. Từ già đến chết, từ mạnh đến ốm luôn bị vô thường chi phối không ngừng nên con người cứ khổ dài dài.

Tóm lại, hễ có thân này là có khổ. Tám nổi khổ trên của kiếp người được

tóm gọn thành ba điều khổ tổng quát như sau : Khổ khổ (Dukkha – dukkhata), Hoại khổ ( Vìnarupamam – dukkhata ), và Hành khổ (Samskhàra – dukkhata)

1 - Khổ khổ : (Dukkha – dukkhata )

Chỉ cho những trạng thái khổ não bức bách, cái khổ này chồng lên cái khổ kia. Ví dụ như cảm giác đau đớn vì bị nhức đầu là một khổ thọ, trời nóng oi bức không có quạt máy là một khổ thọ, chứng kiến cảnh ra đi vĩnh viễn của người thân yêu là một khổ thọ,bị người khác chọc giận làm cho đỏ mặt tía tai là một khổ thọ. . . Nói chung lại là những cảm giác bất an trong thân thể vật lý và các trạng thái tâm – sinh lý đều là khổ thọ tức khổ khổ

Thật thế , mỗi một chúng sanh là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ như

bệnh tật, đói nghèo, thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh, sưu cao, thuế nặng . . . bao nhiêu cái khổ đó nè nặng lên cái thân tạm bợ này, thế nên gọi là KHỔ KHỔ

2 - Hoại khổ : ( Vìnarupamam – dukkhata )

Theo đức Phật những gì đổi thay, biến đổi, nó phát sinh ra mọi khổ đau và bất hạnh đối với mỗi chúng ta, cho dù đó là những trạng thái hạnh phúc ,hay đó là những cảnh giới an lạc của thiền mà chúng ta đạt được đi nữa chúng vẫn bị lệ thuộc bởi định luật Vô thường và là mầm móng của mọi khổ đau trên thế gian này.

Cái búa tàn ác của thời gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây chúng ta

sống, cũng là từng phút từng giây chúng ta bị hủy hoại.Dù chúng tasức mạnh cở nào, quyền thế bao nhiêu, giàu có thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể cản ngăn, chống đỡ trước lưỡi búa hủy diệt của thời gian.

Trong Kinh Tăng Chi Bộ ( Anguttara – nikàya ) Đức Phật đã dạy : Hạnh phúc

của cuộc đời ẩn sĩhạnh phúc của cuộc sống gia đình, hạnh phúc của khoái lạc giác quanhạnh phúc của sự từ bỏ thế tục, hạnh phúc của sự trói buộchạnh phúc của sự giải thoát, hạnh phúc của vật chấthạnh phúc của tâm linh.v.v. . . Tất cả đều bao gồm trong Dukkha ( khổ ) .

3 - Hành khổ : (Samskhàra – dukkhata )

Đây là hình thức quan trọng nhất đối với khía cạnh triết lý trong sự thật thứ nhất ( Khổ Đế ).Vì theo Phật Giáo chữ “ Hành “ là chỉ cho các hiện tượng kết tập các điều kiện nhân duyên mà thành . Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, có hai câu mà đức Thế Tôn luôn nhấn mạnh là : “ Chư hành Vô thường, thị sanh diệt pháp”, có nghĩa là những thứ gì do nhân duyên tạo thành, sanh ra đều là Vô thường, đều thuộc về thế giới tương đối, thế giới của sanh và diệt, của luân hồi sanh tử . Thân thể, thế giới bên ngoài thân ngũ uẩn, hoàn cảnh sống, các trạng thái tâm lý của con người như đã nói đều là nhân duyên sanh nên phải chịu sự tác động của Vô thường. Mà Vô thườngbiến đổi nên tất yếu đưa đến khổ. Cho nên, trong các hành, các hiện tượng đều chứa sẵn hạt giống của khổ hay gọi là HÀNH KHỔ.

Do đó có thể nói khổ trong giáo lý Tam Pháp Ấn chính là cách nói gọn của Khổ Đế trong Tứ Thánh Đế. Đây là hiện trạng thực tế trong cuộc đời mà bất cứ ai mang thân này đếu phải trải qua. Vì thế muốn thoát khổ, chúng ta phải nhìn thẳng vào khổ đau để giải quyết . Toàn bộ hệ thống tư tưởng của Phật giáo cũng bắt nguồn từ nhận thức căn bản này. Có thể khẳng định không một kinh điển nào trong Phật giáo mà không đề cập đến khổ và con đường diệt khổ. Chúng ta hãy nghe đức Thế Tôn dạy trong kinh Tương Ưng V như sau :

“ Này các thầy, Như Lai đã dạy các thầy những gì ? Như Lai đã dạy các thầy sự thật về Khổ, nguyên nhân đau khổ, đoạn diệt khổ đau và con đường đưa đến đoạn diệt khổ. Tại sao Như Lai dạy các thầy về chân lý đó ? Vì chúng thật có ích và cần thiết để đi đến một đời sống lý tưởng, vì chúng còn làm cho các thầy từ bỏ mọi dục lạc, giải thoát mọi sự say đắm, chấm dứt mọi khổ đau đi đến thanh tịnh, giác ngộ, Niết bàn”

Cả hai cách trình bày về khổ nói trên đều mang tính tổng quát. Thật ra, bất cứ khi nào phiền não xuất hiện thì nơi đó khổ đau có mặt; và chỉ khi nào dòng tâm thức của chúng ta không còn bị quấy nhiễu bởi bóng hình của phiền não thì khi đó chúng ta mới thật sự an lạc. Các bộ luận trong Phật giáo đề cập đến nhiều loại phiền não. Chẳng hạng như trong 5 vị – 75 pháp của Câu Xá Luận ( Abhidharma Kosa ) do ngài Thế Thân trước tác vào đầu thế kỷ thứ 5 TL có 6 đại phiền não và 10 tiểu phiền não; Duy Thức học thì triển khai thành 6 loại phiền não chính và 20 tùy phiền não. Đó chỉ là những con số mang tính chất tượng trưng, thật ra có rất nhiều loại phiền nãotùy thuộc vào tần số xuất hiện của chúng mà mức độ đau khổ sẽ khác nhau.

Do đó, hiện tượng vô thường không hẳn là nguyên nhân của mọi đau khổ trong cuộc sống của nhân sinh. Nguyên nhân của khổ nằm trong nhận thứcthái độ sống tích cực hay tiêu cực của con người. Nhận thức là thấy rõ và đánh giá về một sự kiện, còn thái độ sống thuộc về hành vitâm lý chủ động của con người trước sự kiện đó. Sự vật luôn luôn biến đổi Vô thườngchúng ta cứ tuởng và mong ước chúng sẽ thường còn và tồn tại mãi mãi.

Như trong Sa Di Lược Giải trang 103 có ghi : “ Cái khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của kẻ trôi lăn trong lục đạo chưa gọi là khổ.Ngu si không nhận thức được thực tại, không biết được hướng đi mới thật là khổ”.

Chính nhận thức sai lầm của con người cho rằng vạn pháptồn tại, vĩnh hằng mà không biết nó luôn luôn biến đổi , hư hoại nên phát sinh mọi đau khổ.

2.3 – PHÁP ẤN THỨ III : VÔ NGÃ ( 無我)

Vô ngã nghĩa là không có một bản chất trường tồn, bất biến, không có một chủ thể tuyệt đối, không có một linh hồn bất diệt, không có đấng sáng tạo vĩnh cửu. Vì tất cả sự vật đều do duyên sinh, sự hiện hữu của mỗi sự vật, mỗi chúng sanh là sự hiện hữu trong tương quan, do tác động nhân duyên mà thành. Sự hiện hữu của chúng ta là do bốn đại kết hợp, năm uẩn định hình trong cơ chế nhân duyên mà thành, nên tất cả đều là Vô ngã.

Khi đặt câu hỏi ta là gì ? Một triết học gia đã than thở : “ Ta chỉ là một

hạt cát trong sa mạc mênh mông, là ngọn gió lang thang khắp ruộng đồng, là điểm nhỏ của khoảng không bất tận, là hạt mưa sa trong biển cả bao la

Vô thưòng và khổ đau là hai đặc điểm tương đối dễ được người ta chấp nhận. Nhưng tính chất Vô ngã thường khó được người ta chấp nhận . Nguyên nhân chính là do vô minh, tham ái, người ta đã chấp ngã tự bao giờ, do ước vọng được sanh tồn, sợ mất sở hữu, sợ mất bản thân . . . mà con người đã tạo một đấng tối cao, một linh hồn bất tử ( Ngã ) để được che chởmãi mãi trường tồn bất diệt .

Nhận xét về thế giới hiện tượng, Phật giáo khẳng định rằng mọi sự vật trên đời đều không có tướng trạng cố định, tất cả đều luôn biến đổi, chuyển động không ngừng, hay nói cách khác vạn pháp luôn luôn đang trôi chảy và không có một tướng nhất định nào cả. Nó chỉ là một chuỗi thay đổi liên tụcvô số tướng trạng từ mới đến cũ, từ trẻ đến già, từ sanh đến diệt. . . Phật giáo tạm phân quá trình ấy thành bốn giai đoạn “ Sanh – trụ – dị – diệt “ còn gọi “ Thành – tựu – hoại – không . “Như vậy, theo Phật giáo tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới này đều không có chủ thể nhất định và vì thế tất cả đều Vô ngã.

Trong khi đó, nhận thức thông thường của chúng ta cho rằng tất cả các sự vật đang hiện hữu là cố định, từ đó sanh đắm nhiễm, mê lầm mà phải đau khổ,

luân hồi. Xin nêu lên một ví dụ để minh hoạ vấn đề Vô ngã này :

Xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàn gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi :

- Ai đó ?

- Tôi - Linh hồn trả lời.

- Tôi là ai ?

- Tôi là tôi.

Thượng Đế bảo : Ở đây không đủ chổ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy

đi nơi khác.

Linh hồn ấy trở về thế gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa và sau đó lên trời gõ cửa .

- Thượng Đế hỏi :

- Ai đó ?

- Tôi

- Tôi là ai ?

- Tôi là ngài.

Khi đó Thượng Đế mở cửa cho vào.

Ví dụ trên cho ta thấy một ngàn năm trước Tôi là Tôi, tức còn bản ngã nên không vào được, Một ngàn năm sau Tôi là Ngài nghĩa là nhơn – ngã, bỉ – thử không còn, mà nhơn – ngã, bỉ – thử đã mất thì bản ngã cũng không tồn tại, nên Thượng Đế mở cửa cho vào.

Hay cuộc đối thoại giữa vua Di Lan Đà và ngài Na Tiên về chiếc xe đã cho chúng ta thấy không có cái gì thật sự là chiếc xe cả. Mà chiếc xe là tập hợp của Gọng – Trục – Bánh – Căm – Thùng – Mui .v.v. . . hợp thành mới tạm gọi là xe.

Lý thuyết Vô ngã đã dạy chúng ta biết bộ mặt thật của mọi sự vật, đã vạch cho chúng ta con đường chân chánh, chỉ cho chúng ta thái độ đúng đắn cần phải có; lý thuyết Vô ngã đã mở đầu cho sự thật phủ phàng, đã phân tich cho chúng ta thấy rõ những nguyên nhân của những căn bệnh ích kỷ, chấp thủ.tật đố, tham lam. v . v. . .

Như thế có thể khẳng định Vô ngãgiáo lý đặc biệt trong hệ thống giáo

lý của Phật giáo. Giáo lý này là hệ quả thẩm sát liên tục các nguyên lý duyên khởi, Vô thường. Vô thường là tính thay đổi trong khi đó Vô ngãtính không đồng nhất. Bản chất của Vô ngã không có chủ thể riêng biệt.

Chúng ta nói cái bàn là Vô thường bởi vì chúng ta thấy nó luôn thay đổi,

biến hoại dần dần về hình thức. Nhưng nói cái bàn là Vô ngãchúng ta nhìn

cái bàn qua cái nhìn của duyên khởi. Trong cái nhìn đó, cái bàn là tập họp của nhiều điều kiện nhân duyên của cây gỗ, đinh, công sức của người thợ. .v.v. . . Như vậy, Vô thườngVô ngã liên quan chặt chẽ với nhau. Vô thường là nói về mặt thời gian, trong khi đó nói Vô ngã là đứng trên bình diện không gianluận bàn.

Tam Pháp Ấn còn được đề cập trong Luận tạng, không những Pháp Ấn được trình bày dựa trên đặc tính của các pháp về mặt hiện tượng, mà còn đứng trên lập trường bản thể. Ở đây Tam Pháp Ấn được mệnh danh là Vô Thường – Khổ và Niết bàn. Trong Hán Tạng Tam Pháp Ấn còn được hiểu là ba cánh cửa

( Không – Vô tướngVô tác ) đi vào giải thoát, bao gồm cả luận lý học, nhận thức học, là tự tánh của vạn pháp và của nhận thức

Qua phân tích và nhận định trên đã cho chúng ta thấy hai điều :

Thực tại khách quan là Vô thườngVô ngã.

– Biểu hiện của Vô thườngVô ngã ấy ở nơi tâm lý chấp thủ của chúng sanh là khổ đau.

CHƯƠNG 3 : GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRONG GIÁO LÝ

THƯỜNG – VÔ NGÃ

Thế nào là cái đẹp ? Có nhiều quan niệm khác nhau về cái đẹp, Alberti, nhà mỹ học thời phục hưng tại Italia nói rằng: “ Cái đẹp là sự hòa nhịp như thế nào đó giữa các phần trong tổng thể mà chúng tạo thành, sự hòa hợp và hòa nhịp này phải đáp ứng những số liệu chặt chẽ, đáp ứng sự tổ chức và bày trí mà

sự hài hòa tức cái nguyên lý tuyệt đối và khởi nguyên của tự nhiên đòi hỏi “

Hay Herder, nhà luận lý học người Đức thế kỷ thứ 18 thì nói : “ Cốt lõi

của toàn bộ cái đẹp là chân lý, bất kỳ cái đẹp nào cũng cần dẫn tới chân lý

điều kiện.”. Còn Gorki thì bảo : “ Cái đẹp là sự phối hợp các chất liệu khác nhau cũng như các âm thanh, màu sắc, từ ngữ- sao cho tác phẩm tạo ra có một hình thức có thể tác động lên tình cảm và lý trí như một sức mạnh khơi dậy ở con người sự ngạc nhiên, lòng kiêu hãnh và niềm sung sướng trước khả năng sáng tạo của mình.”

Cái đẹp mà người viết muốn đề cập ở đây là cái đẹp ở trạng thái trong đó chúng ta đã giải tỏa tuyệt đối cái trung tâm của tự ngã , một trạng thái bình an và giản dị. Sự bình an và giản dị không có chổ cùng tột và chỉ phát sinh trong cái thâm sâu cùng tận của tâm thức. Đó chính là sự rủ bỏ toàn bộ cái “ Ngã” . Thẩm mỹ Vô thườngVô ngã bàn bạc trong thi ca Phật giáo vốn là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt trong các áng văn chương của các thi nhân, nhưng thi ca chỉ là cái xác không hồn, không gợi được cái cảm giác thẩm mỹ siêu thoát mà trong đó con người, vạn vật, vũ trụ là một tổng thể hài hòa không thể tách rời nhau. Để cảm nhận hết cái đẹp siêu thoát này, chúng ta cũng phải tự thấy mình “Vô ngã”, ngoại giới cũng không có hữu ngã.

Nhận chân được thế giới thực tạiVô thường, nhân sinh Vô ngãthấu triệt được hai phạm trù đầu tiên là khổ đếtập đế. Hai phạm trù này thuộc cái bi thẩm mỹ. Từ đó, định ra cho mình một cách sống tích cực để đạt được bản lỉnh tự tại, an nhiên, lạc quan trong cuộc sống. Điều này đồng nghĩa với hành giả đã chuyển hoá cái bi ấy thành cái đẹp cao cả để thực thi một quá trình “sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

Xuân, hạ, Thu, Đông bốn mùa lần lượt dắt nhau qua lòng tạo vật, dòng sống vẫn tuôn trào bất tận. Tuổi xuân phải nhường chổ cho tuổi già và vẻ tươi mát của sương mai, biến mất trước nắng hồng rực rỡ. Đó là quy luật tự nhiên và cuộc sống vận hành là thế. Chúng ta không thể thay đổi bản chất của chúng mà chỉ thay đổi quan điểm của chính mình về cuộc sống. Khổ, vui cũng từ nơi nhận thức mà có. Người đời sống trong lo toan, chết trong sợ hãingộ nhận; người đạt đến giác ngộ, an vui tự tại nhờ trí Bát Nhã, quán sát bản chất như thật của vạn pháp.

Con đường đạt đến trí tuệ cao cả này là con đường thuần lý tánh được chuyển hóa từ “ có “ đến “ Không “, từ “ Thường “ đến “ Vô thường “, từ cái “ Ngã “ đến “ Vô ngã “. Chúng ta có thể đi lần vào vùng sâu thẩm của ý thức, thầm lặng nhưng hùng tráng, đơn sơtrác tuyệt của các vị Thiền Sư để hiểu rõ hơn tư tưởng thẩm mỹ trong Vô thường, Vô ngã của Phật giáo. Đối tượng thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ là các Thiền Sư được cảm nhận như một khoảng thời gian ngắn ngủi trong vòng quay vô tận của vũ trụ. Chỉ một khoảng nhỏ ấy thôi bao hàm cả sự sống. Dưới mắt Thiền Sư Mãn Giác :

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

(Xuân đi héo úa, nhị tàn

Xuân về hoa nở dọc ngang dưới trời )

Đó là quy luật muôn thuở của tự nhiên. Như vậy, với Thiền Sư Mãn Giác “Vô thường” mới thật là “ Chơn Thường”. Thế giới quan của người liễu đạo là vậy, nhân sinh quan của các vị ấy thì sao ? Hai câu thơ tiếp” Sự trục nhãn tiền quá – Lão tùng đầu thượng lai “, đã nói lên cuộc sống của con người cũng thay đổi từng sát na sanh diệt. Nơi con người không có một cái ngã thường hằng. Như vậy, với tuệ nhãn của người kiến tánh thấy rõ “ Vô ngã” đích thực là “ Chơn ngã” Thấu triệt Vô thường, Vô ngã các Thiền Sư có một cái nhìn chân thậtsống động đối với vạn vật. Các Ngài là hiện thân của cái đẹp toàn diện.

Một thi sĩ người Nhật Bản khi nói về sự biến họai không ngừng của vạn

vật, Ông đã viết :

Yosino đỉnh núi kia

Hằng năm xuân vẫn trở về trên non

Đẹp thay Đào thắm nở hoa

Bạn ơi hãy chặt cây ra hai phần

Rồi sau bạn hãy đến gần

Xin cho ta biết hoa nằm nơi nao .

Còn thi sĩ Vương Bột với những câu thơ đậm chất triết lý Vô ngã đã đưa Ông vào hàng ngũ Tứ Kiệt của Đường thi qua bài phú Đằng Vương Các Tự :

“… Lạc hà lữ cô vụ tề phi

Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”

( Ráng chiều xuống cùng bay với cánh cò cô đơn

Làn nước mùa thu với màu trời cùng một sắc)

“. . . Các trung đế tử kim hà tại ?

Hàm ngoại trường giang không tự lưu” ( Thơ Đường)

( Đằng Vương trong gác giờ đâu “

Trường giang nước vẫn chảy mau mé ngoài).

Giáo lý Vô thương – Vô ngã cũng đã được nhà thơ Thôi Hiệu ( 704 – 754) thể hiện rõ nét trong bài Hoàng Hạc Lâu đã khiến cho Thi Tiên Lý Bạch cũng phải cuối đầu khâm phục.

Hoàng Hạc Lâu

Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

Tĩnh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

Nhật mô hương quan hà xứ thị ?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Tản Đà dịch :

Lầu Hoàng Hạc

Hạc vàng ai cởi đi đâu ?

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ

Hạc vàng đi mất từ xưa

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay

Hán Dương sông tạnh cây bày

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Đẹp trước hết là sự thật. Cái đẹp chân chánh chỉ xuất hiện trên cơ sở sự thật. Người ta gọi là thật khi nhận thức của chúng ta phù hợp với thực tại khách quan. Đó là sự đồng điệu giữa ta và vũ trụ, hài hòa như một nhạc khúc. Nắm chắc sự vận hành của quy luật và sống đúng theo quy luật ấy, con người sẽ đạt được an lạc và sẽ hành xử đúng theo chiều hướng phát triển của lịch sử, góp phần thúc đẩy xã hội ngày một văn minh, tiến bộ, làm cho cuộc sống thêm sinh động, hài hòa hơn.

Đẹp theo Phật giáo là cơ chế thăng bằng, thăng bằng với môi trường để hoà nhập vào thiên nhiên tuyệt mỹ; thăng bằng với nội tâm để có một bản lĩnh tự tại. Trong cơ chế thăng bằng đó, các Thiền Sư đã chuyển giáo lý Vô thường, Vô ngã thâm nhập hoàn toàn vào áng văn chương lấp lánh đầy màu sắc triết học, mỹ học, thiền học, thiên nhiêncon người. Vua Trần Nhân Tông đã thấu triệt quy luật vận hành của vũ trụ:

Chúa xuân nay bị ta khám phá

Chiếu trải giường thiền ngắm cảnh hồng

Hay nói như Thiền Sư Pháp Loa:

Đã hết duyên trần thỏng tay đi.

Không tự giam hãm mình trong bốn tướng sanh – già – bệnh và chết. Thiền Sư Mãn Giác cùng một cách thể như vậy đã tạo cho mình sức cân bằng nội tại đến mức cao nhất. Đứng trước vực thẩm của sanh tử, như cuộc du hành tự tại trước một xuân thanh bình. Trong phong thái đó, với một cành mai, một mùa xuân, một mái đầu. Thiền Sư Mãn Giác đã cho chúng ta thấy sự đến, đi của con người trước cuộc sống êm đềm như sự đi qua và trở lại của mùa xuân. Xuân này đến, hoa nở, hoa nở để rồi tàn. Xuân sau về, hoa lại nở thôi. Tất cả đến mong manh như trò chơi của tạo hóa nhưng bao giờ mất đi trong chuỗi dài sanh diệt, diệt sanh. Do đó, có không, mất còn, sống chết, thịnh suy .v.v . . . là những cặp phạm trù đối đãi bất tận của con ngườithế giới trần gian này.

“Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi,

Để mai tôi trở về cát bụi . . .”

Phạm trù đẹp còn biểu hiện ở sự nhận thức một cách biện chứng về cuộc sống đang vận hành và phát triển. Trong ý nghĩa đó, Thiền sư Mãn Giác rất lạc quan :

“ Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

( Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai ).

Thơ ca tuy mang đậm nét triết lý nhân sinh, song cũng không ngoài ý nghĩa của giáo dục. Đó là xác lập nhân cách siêu việt của con người qua năng lực giác ngộ và tự thắng cái ngã của mình qua mọi hoàn cảnh. Trong ý nghĩa giáo dục này, được rút từ những nguồn cảm hứng thẩm mỹ, cái trác tuyệt trong ngôn ngữ đời thường để đưa con người đến chân lý qua sự cảm nhận của thi ca. Như vậy, giáo dục tinh thần Vô thườngVô ngã là tạo cho con người một bản lĩnh tự tại, cái bản lĩnh của bậc đại dũng

Dù tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch

Tự thắng mình tốt hơn

Thật chiến thắng tối thượng

( Pháp Cú 103 )

Con người chứng ngộ đượm nhuần chất Thiền của giáo lý Vô thường, Vô ngã ấy sẽ có đầy đủ nghị lực, ý chí có thể tự tại trước bao biến thiên của cuộc sống. Cân bằng với môi trường và đạt đến bản lĩnh tự tạithể hiện mặt “ tịch “ của cái thể tánh chân như, để phục vụ tha nhân đến mức quên mình, cống hiến tất cả sức lực tâm lực của mình cho đạo pháp và cuộc sống.

CHƯƠNG 4 : TAM PHÁP ẤN TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TRONG THỂ NGHIỆM TÂM LINH

Giáo lý Tam Pháp Ấn giúp chúng ta nhận thứchiểu rõ bản chất thực của bản thân cuộc sống xung quanhhiện tượng giới, đồng thời Tam Pháp Ấn cũng là chìa khóa giúp chúng ta đi ra khỏi điên đảo vọng tưởng của dục vọng, ngoan cố, chấp thủ và khổ đau.

Giáo lý Tam Pháp Ấn có thể áp dụng vào trong đời sống hiện tại, khi mà nhân loại đang có xu hướng giáo dục con người sống có lý tưởng vị tha, biết vì hạnh phúc của số đông; vì hòa hợp hiểu biết, và giúp đỡ lẫn nhau, sống chung trong một thế giới hòa bình,văn minh và cùng nhau phát triển. Giáo dục con người theo lối nhìn của Tam Pháp Ấn sẽ giúp cho họ có nhận thức đúng về thực tại và mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con người với môi trường thiên nhiên cũng như mối quan hệ giữa con người với xã hội. Với cái nhìn Vô ngã sẽ giúp cho con người phát triển đức khiêm cung, điềm đạm, tôn trọng, tha thứyêu thương, sống một cuộc sống vị tha, không bảo thủ, không ích kỷ. Đặc biệt xoá bỏ được tư duy hữu ngã độc hại đã từ lậu ăn sâu trong tiềm thức của con người.Nhờ Tam Pháp Ấncon người biết được vạn phápVô thường, giả tạm, nhờ đó mà khi gặp những biến đổi của cuộc đời, con người sẽ giảm bớt đau khổ, cũng là động lực thúc đẩy con người phấn đấu hoàn thiện mình và cải tạo xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Muốn giải thoát khổ đau, chúng ta phải biết ý thức và thực nghiệm về khổ đau trong cuộc sống. Vì rằng, một khi nhận chân được thật tướng của cuộc đờivô thường, là khổ, chúng ta sẽ không có ảo tưởng cuộc đờihạnh phúc, là đoá hoa hồng thơm ngát, chúng ta sẽ không bị ràng buộc trong đời sống vật chất, hưởng thụ và dễ dãi, chúng ta sẽ không đánh mất mục đích tu tập của chính mình.

Trong Kinh Pháp cú số 227 và 228 Đức Phật đã dạy :

“ Tất cả hành vô thường

Với tuệ quán như vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.”

“Tất cả hành đau khổ

Với tuệ quán như vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.”

Với trí tuệ quán sát các hành là Vô thường, là khổ đau, tuyệt nhiên không làm cho đời sống của một Phật tử buồn rầu, phiền muộn, như người ta đã lầm tưởng. Trái lại một Phật tử chân chánh là nguời hạnh phúc nhất trần gian, không hoang mang lo lắng, luôn luôn bình an, thanh thoát và không bao giờ bị sự thăng trầm của cuộc đời làm cho điêu đứng, điên đảo. Vả lại, khi nhìn thấy như thật chân tướng của vạn phápVô thường – Khổ và Vô ngã tức là người Phật tử đã khám phá ra nguyên lý vận động của sự phát triển, sự hoàn thiện thế giới vật chấttâm linh.

Giáo lý của Phật giáo không bao giờ nâng đỡ sự ngu si, sợ hãi và dục

vọng, mà cốt là làm cho con người giác ngộ bằng cách trừ khửtiêu diệt chúng, đánh vào tận gốc rễ của ngu sisợ hãi. Có hai ý tưởng ăn sâu vào tâm lý của con người, đó là tự vệ và tự tồn. Vì tự vệ, con người đã tạo ra Thượng đế, và vì muốn tồn tại con người tạo ra ý tưởng về một linh hồn bất diệt hay còn gọi là ngã. Theo Phật giáo những ý tưởng của con người về một Thượng đếlinh hồnsai lạc, trống rổng. Nó phát sinh ra những tư tưởng về cái “Tôi” và cái ”Của Tôi”, dục vọng ích kỷ, khác khao ràng buộc, thù hằn, độc ác, kiêu căng.v.v. . . Nó là nguồn gốc của mọi đau khổ, rối ren trong cuộc đời, tạo ra những tranh chấp cá nhân đến chiến tranh giữa các dân tộc. Chính vì “cái tôi” ích kỷ này mà có biết bao nhiêu xương máu của nhân loại đã ngã xuống, khiến cho chồng vợ, con cái mỗi người một ngã, bao cảnh đau thương tang tóc, thảm khốcnhân loại phải gánh chịu. Chính vì thế mà chúng ta cần phải thường xuyên tư duy, quán sát về Vô thườngVô ngã để nội tâm chúng ta ngày một định tỉnh, sáng suốt và có nghị lực vững chắc hơn để vượt qua những chướng ngại khổ đau trong cuộc sống. Cho nên trong Kinh Pháp Cú 279 đức Phật dạy :

“Tất cả pháp vô ngã

Với tuệ quán như vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.”

C – KẾT LUẬN

Suốt 49 năm hoằng pháp độ sanh, đức Phật đã tùy hoàn cảnh, căn cơ của chúng sanh, của hàng đệ tử mà khai mở rất nhiều ngõ vào con đường tuệ giác, qua một hệ thống giáo lý vô cùng chặt chẽ và phong phú. Trong ấy, ba sắc thái đặc biệt : Vô Thường – Khổ và Vô Ngã được đức Thế Tôn nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong các bài thuyết pháp của mình. Ba dấu ấn này được bàn rãi rác khắp trong hệ thống giáo lý Phật Giáo cả kinh điển Nam truyền và Bắc tạng.

Sự có mặt của Đạo Phật, với cái nhìn tuệ giác về thực tại của thế giới hiện tượngVô thường – Khổ và Vô ngã đã đem lại luồng sinh khí lành mạnh mới cho xã hội Ấn Độ thời bấy giờ nói riêng, cho vạn loại chúng sinh nói chung. Đã mở ra lối cho con người trước những bế tắc, những khủng hoảng về xã hội, về tư tưởng triết họcđạo đức theo lối tư duy hữu ngã. Trải qua gần 3.000 năm, đạo Phật đã được thử thách, cọ sát với thời gian, với bao thăng trầm của lịch sử nhân loạiđạo Phật không những không lu mờ mà ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ hệ thống giáo lý của đạo Phật là một triết lý sống mang đầy tính nhân bản thật sự . Điển hình và cụ thể nhất là giáo lý Tam Pháp Ấn đã đem đến cho con người có cái nhìn mới về nhân sinh quan, để từ đó phát huy tiềm năng có sẵn trong mỗi con người, cải tạo xã hội ngày một văn minhtốt đẹp hơn. Nhất là chuyển hoá những tham, sân , si , tính ích kỷ, lòng ghen ghét thành những tâm hồn biết yêu thương mọi loại, sống vị tha, biết hy sinh quên mình vì lợi ích chung cho nhân loại.

Tam Pháp Ấn thể hiện rõ nét nhất trong giáo lý Duyên Khởi. Vô ngã là hệ quả thẩm sát liên tục các nguyên lý Duyên KhởiVô thường. Hay nói cách khác Vô ngã là kết quả tự nhiên, là hệ luận của kết quả phân tích về năm uẩngiáo lý Duyên Sinh. Bằng phương pháp phân tích, chúng ta thấy rằng cái mà ta gọi là linh hồn hay cá thể được cấu tạo bởi năm uẩn đều trống rỗng, không có gì đằng sau chúng mà ta có thể gọi là Tôi hay Ngã. Ta cũng có kết quả tương tự khi xét kỹ lý thuyết Vô ngã theo luật Duyên sinh và đây là phương pháp tổng hợp. Theo định luật này không có gì trong thế giantuyệt đối. Mọi sự vật đều giới hạn, tương đốiphụ thuộc lẫn nhau.

“ Cái này có thì cái kia có

Cái này sinh thì cái kia sinh

Cái này không có thì cái kia không có

Cái này diệt thì cai kia diệt “

Đối với giáo lý Tứ Diệu Đế, Tam Pháp Ấn thể hiện rõ ở Diệu Đế thứ nhất là chân lý về sự thật của sự khổ đau trong kiếp người, và khi nói Vô ngã thì thực tại vô ngã ấy chính là Diệu Đế thứ ba ( Niết Bàn ) Đối với Bát Chánh Đạo, con đường trung đạo gồm tám chi phần nhưng Chánh Tri Kiếnyếu tố hàng đầu trong mọi lộ trình tu tập; mà nói Chánh Tri Kiến tức là nói về sự thấy biết như thật về Vô thường – Khổ và Vô ngã.

Tam Pháp Ấn là cơ sở để xây dựnghoàn thiện mẫu người sống có vị thahạnh phúc số đông. Tam Pháp Ấn tương đồng với ý niệm bình đẳng, nhân đạo. Qua đó giáo dục mục đíchlý tưởng sống cho con người . Ngày nay con người sống trong sự phát triển cao độ của vật chất thì giáo lý Tam Pháp Ấn càng phải được phổ biến rộng rãi, để nhân sinh có cái nhìn đúng về thật tướng của vạn vậtvũ trụ.

Ánh sáng Tam Pháp Ấn đã đem lại cho chúng ta một nhận thức đúng đắn về bản chất của mọi sự hiện hữu trong cuộc sống nhân sinh. Vô thường – Khổ và Vô ngã không đưa con người đến thế giới bi quan, yểm thế, tiêu cực mà ngược lại Tam Pháp Ấn là một thực trạng, một vấn đề phổ biến trong kiếp sống nhân sinh. Có nhận thức được khổ con người mới tìm đến hạnh phúc an vui. Để đạt không có một chủ thể tồn tại bất diệt, rồi từ đó ta tiến hành xả ly mọi tham ái chấp trước, mọi hành động tư tưởng bất thiện, nổ lực tu tập tự hoàn thiện nhân cách của mỗi chúng ta. Khi chúng ta sống với cái nhìn Vô ngã thì mọi khổ đau, phiền não đều tự biến mất và tan theo mây khói, đời sống trở nên thuần thiện, an lạc, hạnh phúc. Từ đó xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, người người thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Các tệ nạn xì ke ma tuý, mại dâm, trộm, cướp sẽ không có chổ tồn tại, các nhà tù, các quán bia ôm, các nhà chứa sẽ không có mặt và không có cơ hội phát sinh.; mà thay vào đó là những trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, các khu vui chơi giải trí. v . v . . . Đó cũng chính là tính thực tiển của giáo lý Tam Pháp Ấn trong đời sống thực tại.

(*) Luận văn tốt nghiệp
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11832)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11949)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10629)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17830)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11599)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9831)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10082)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11091)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14185)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11959)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15150)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11856)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11068)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11970)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 12439)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14651)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12532)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16373)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19410)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12544)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12146)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11692)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10779)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11488)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12621)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14362)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15515)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13460)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12750)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17851)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11037)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12065)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12910)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10200)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12071)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15149)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12091)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14112)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19495)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14035)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24373)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12368)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant