Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh "Tất Cả Đều Bốc Cháy" (Adittapariyaya-sutta)

24 Tháng Hai 201512:25(Xem: 10754)
Kinh "Tất Cả Đều Bốc Cháy" (Adittapariyaya-sutta)

KINH « TẤT CẢ ĐỀU BỐC CHÁY »
(ADITTAPARIYAYA-SUTTA)

Hoang Phong


Kinh Tat Ca deu boc chayDưới đây là một bản kinh ngắn trích từ "Tương ứng bộ kinh" trong "Luật Tạng" mang tên là Adittapariyaya-sutta (Samyutta-nikkaya IV, 19-20; cf. Vinaya-pitaka,1, 36-37). Tiếng Phạn Aditta-pariyaya có nghĩa là Tất cả đều bị thiêu đốt hay bốc cháy. Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người. Năm thứ cấu hợp ấy thường xuyên bốc cháy và không còn lại gì cả, tuy nhiên sự bốc bốc cháy ấy cũng tượng trưng cho nguyên nhân sâu xa nhất của mọi khổ đau mà mỗi con người phải gánh chịu.

Tuy nhiên sự vận hành chung của ngũ uẩn cũng đã tạo ra sự sống cho mỗi cá thể con người trong thế giới ta bà, và sự sống ấy biểu hiện cho một ý chí hay một sức mạnh nào đó. Mỗi con người đều có thể sử dụng ý chí ấy hay sức mạnh ấy để thực hiện những tham vọng cũng như những đòi hỏi bản năng của chính mình, nhưng mặt khác cũng có thể hướng chúng vào một lý tưởng cao đẹp hơn để mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự hiện hữu của chính mình.

Bản kinh này được dịch để tưởng nhớ đến một vị Bồ tátĐạo Pháp đã tự thiêu ngày 11 tháng 6 năm 1963. Năm thứ ngũ uẩn tạm thời kết hợp để tạo ra thân xác và tâm thức của vị Bồ tát ấy đã bốc cháy gần nửa thế kỷ nay và không còn lại gì cả. Tuy nhiên hình ảnh ấy, hình ảnh của một vị Bồ tát ngồi im trong lửa đỏ và gục xuống ở một ngã tư đường vẫn còn lưu lại trong tâm hồn của mỗi người trong chúng ta.

Bản tiếng Việt dưới đây được dịch căn cứ vào bản dịch từ tiếng Pali sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna trong quyển Sermons du Bouddha (Các bài thuyết giáo của Đức Phật), nhà xuất bản Cerf, 1988, Paris.

Một lần, Đức Thế Tôn đang ở tại Tượng Đầu Sơn (Gayasisa), gần Giác Thành (Gaya) cùng với một ngàn đệ tử.

Đức Thế Tôn thuyết giảng cho các đệ tử như sau :

"Này các tỳ kheo, tất cả đều bốc cháy. Và những gì đang bốc cháy như thế ? Mắt đang bốc cháy. Các hình tướng vật chất đang bốc cháy. Tri thức thị giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa mắt và các hình tướng vật chất đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với các hình tướng vật chất, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì giác cảm ấy vẫn đang bốc cháy. Này các tỳ kheo, vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Này các tỳ kheo, tai đang bốc cháy. Âm thanh do tai tiếp nhận đang bốc cháy. Tri thức thính giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc với những gì do tai tiếp nhận được đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh từ sự tiếp xúc với những gì tai tiếp nhận được đang bốc cháy, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Này các tỳ kheo, mũi đang bốc cháy. Mùi đang bốc cháy. Tri thức khứu giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa mũi và mùi đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì do mũi tiếp nhận, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Này các tỳ kheo, lưỡi đang bốc cháy. Vị đang bốc cháy. Tri thức vị giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa lưỡi và vị đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì lưỡi tiếp nhận, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Này các tỳ kheo, thân xác đang bốc cháy. Các vật thể sờ mó được đang bốc cháy. Tri thức xúc giác đang bốc cháy. Sự tiếp xúc giữa thân xác và các vật thể sờ mó được đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì do thân xác tiếp nhận được, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Này các tỳ kheo, Tư duy đang bốc cháy. Các vật thể tâm thần đang bốc cháy. Tri thức tâm thần đang bốc cháy. Sự tiếp xúc của tư duy với các vật thể tâm thần đang bốc cháy. Cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với những gì tư duy tiếp nhận được, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì giác cảm ấy vẫn bốc cháy. Vậy những thứ ấy bốc cháy từ những ngọn lửa nào ? Ta nói rằng những thứ ấy đang bốc cháy từ ngọn lửa của dục vọng, từ ngọn lửa của hận thù, từ ngọn lửa của ảo giác ; những thứ ấy bốc cháy từ ngọn lửa của sự sinh, của già nua, của bịnh tật, của cái chết, của nhọc nhằn, của ta thán, của đớn đau, của buồn phiền, của tuyệt vọng.

"Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn tất cả mọi thứ theo phương cách đó, thì một đệ tử sáng suốt sẽ phải kinh tởm mắt, kinh tởm những hình tướng vật chất, kinh tởm tri thức thị giác, kinh tởm sự tiếp xúc của mắt với những hình tướng vật chất, kinh tởm cảm giác phát sinh do sự tiếp xúc với các hình tướng vật chất, dù đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy.

Đức Phật tiếp tục trình bày như trên đây đối với tai, âm thanh, tri thức thính giác, sự tiếp xúccảm giác ; mũi, mùi, tri thức khứu giác, sự tiếp xúccảm giác ; lưỡi, vị, tri thức về vị giác sự tiếp xúccảm giác ; thân xác, các vật thể sờ mó được, tri thức xúc giác, sự tiếp xúccảm giác. Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảng như sau :
"Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn tất cả mọi thứ bằng phương cách đó, thì một đệ tử sáng suốt sẽ kinh tởm tư duy, kinh tởm các vật thể tâm thần, kinh tởm tri thức tâm thần, kinh tởm sự tiếp xúc của tư duy với các vật thể tâm thần, kinh tởm giác cảm phát sinh từ sự tiếp xúc với các vật thể tâm thần ; dù cho đấy là thích thú hay đớn đau, dù đấy không phải là đớn đau cũng không phải là thích thú, thì cảm giác ấy vẫn đang bốc cháy.

"Khi một đệ tử sáng suốt biết kinh tởm những thứ ấy, thì người ấy sẽ không còn thèm khát nữa và khi được giải thoát thì sự hiểu biết sẽ hiện ra : "Đây chính là sự Giải thoát", và người ấy sẽ hiểu rằng : "Mọi sự tái sinh đều bị hủy diệt, con Đường Đạo hạnh tinh khiết được hoàn tất, những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn bất cứ thứ gì lưu lại để chờ đợi một sự thực hiện nào nữa".

Đấng Thế Tôn thuyết giảng như trên đây. Sau khi được nghe những lời thuyết giảng của Đấng Thế Tôn, các tỳ kheo đều vui sướnghân hoan. Trong khi Ngài thuyết giảng thì tất cả mọi ô nhiễm trong tư duy của một ngàn đệ tử đều được hoàn toàn tẩy xóa. Bures-Sur-Yvette, 29.5.10

Hoang Phong


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33153)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6532)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11251)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30427)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12163)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12790)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34727)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52247)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10698)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10456)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13063)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21817)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9605)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7110)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10380)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16216)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16514)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13790)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12614)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14984)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14520)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20664)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13203)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10930)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20681)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20354)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17642)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12010)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant