Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phân Biệt

05 Tháng Ba 201511:29(Xem: 12726)
Kinh Phân Biệt

KINH PHÂN BIỆT

Việt Dịch: Thích Thiện Trí

(Bản chữ Hán của Tam Tạng Pháp-sư Trúc-Pháp-Hộ, Đại Tạng quyển 14 Kinh Tập bộ 1).


Kinh Phân BiệtN
hư thật tôi nghe một thuở nọ Phật ở vườn cây của Trưởng giả Cấp-Cô-Độc và Thái-tử Kỳ-Đà tại nước Xá-Vệ(*). Trong một buổi sớm mai, ánh bình minh trải vàng trên muôn ngàn hoa lá, Đức Phật với lớp y vàng đoan nghiêm tĩnh toạ. Ngài bảo A-Nan:

Này ông A-Nan: Ông hãy nói với các Tỳ-kheo yên lặng lắng nghe. Ta sẽ nói cho các ông biết về sự thọ khổ của cõi nhơn sanh.

A Nan liền rời chỗ ngồi đứng dậy sửa chiếc y rồi lạy Phật mà thưa rằng:

Bạch Thế-Tôn, chúng con rất mong được nghe Thế-Tôn dạy cho điều đó.

Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt. Đó là sáu thứ thường xuyên làm cho người đời phải sa vào các đường ác, chịu khổ triền miên, khó mong giải thoát. Những người có trí mới nhận thức được.

Lại nữa, có ba điều người đời ưa làm nên họ phải chịu quả báo trong ba đường khổ: Một là thân ưa sát hại, trộm cắpdâm dục. Hai là miệng ưa nói lời xuyên tạc, chửi mắng độc ác, dối trá lừa gạt và nói thêu dệt. Ba là ý ưa nghĩ chuyện tham lam, giận hờn, si mê. Vì ba điều đó mà đoạ vào ba đường khổ: Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. Chỉ người có trí mới nhận thức được.

Lại nữa, có sáu điều người đời thường mê đắm, nên bị sa vào mười tám cảnh khổ: Mắt mê đắm theo hình sắc, tai mê đắm theo âm thanh, mũi mê đắm theo mùi thơm, thân mê đắm theo những thứ gây cảm xúc mát mịn êm dịu, ý mê đắm theo tư tưởng cuồng loạn sai lầm. Đó là những điều thường xuyên gây tổn hại, thế mà họ vẫn thường xuyên chấp nhận, cho nên bị rơi vào mười tám cảnh Địa-ngục, chịu sự thống khổ mãi mãi, không lúc nào mong thoát khỏi!

A-Nan thưa Phật: Nếu như những người nào có thờ Phậtthọ giới thì có thể thoát được cảnh khổ ấy chăng?

Phật đáp: Nếu như những người có thờ Phậtthọ giới thì được phước đức vô lượng, không thể nào hình dung được. Nhưng ngược lại cũng có những người thờ Phật mà sa vào chỗ cực cùng tội lỗi.

A-Nan bạch Phật: Thờ Phậtthọ giới sẽ được phước đức vô lượng. Vậy thì tại sao có kẻ mắc phải tội lỗi nặng? Con mong được Phật dạy cho điều đó.

Phật đáp: A-Nan! Người mà thờ Phật, phụng trì kinh giới, tinh tấn tu niệm, không hề trật phạm thì được phước đức vô lượng, không thể tỷ dụ được. Nhưng cũng có người thờ Phật, thọ giới mà không giữ gìn thanh tịnh, không lo tinh tấn tư duy thiền định, mà chỉ mượn danh thờ Phật, rồi chuyên làm những sự tà vạy tham cầu không nhàm, không có tâm niệm biết đủ, không có ý nghĩ chế ngự, dâm dật sắc dục, ưa thích ca múa, tham đắm rượu thịt, buông lung phóng đãng, thì làm sao tránh khỏi tội lỗi khó lường của họ? Vì lẽ đó, họ đoïa mãi ba đường , chịu nhiều thống khổ, khó được giải thoát:

Phật dạy: có ba hạng người thờ Phật:

Một là đệ tử của Ma thờ Phật.

Hai là hàng Nhơn Thiên thờ Phật.

Ba là đệ tử của Phật thờ Phật.

Sao gọi là đệ tử của Ma thờ Phật?

Phật đáp: Tuy rằng thọ giới theo Phật, nhưng tâm niệm của họ ưa làm những việc tà vạy: Bói xâm, giải trừ, cúng tế cầu đảo, đồng bóng mê hoặc, tin có Quỷ Thần gần gũi trong nhà, không tin theo những điều chơn chánh, không biết quả báo tội phước. Chỉ mượn danh nghĩa thờ Phật mà thường theo những kẻ tà ác, chết đoïa địa ngục không kịp trở tay, phải chịu khổ lâu lắm mới có ngày thoát ra, mà làm bà con với boïn ma, siểm nịnh yêu quái, thật rất khó cứu độ. Hạng người này do dư phước đời trước, nên tạm thời được gặp Chánh đạo mà tâm ý vẫn mù mờ, không hiểu được túc phước. Rồi lại phải đi theo nẻo tà kiến mà bị sa đoạ không biết bao giờ cùng! Ấy là đệ tử của Ma thờ Phật. Sao gọi là hàng Nhơn Thiên thờ Phật?

Người thọ trì đủ năm giới cấm, tu mười pháp lành(1), dầu đến chết cũng không dám huỷ phạm, biết tin tội phước, làm phải gặp phải, sau khi mạng chung liền sanh lên cõi trời. Ấy gọi là hàng Nhơn Thiên thờ Phật.

Sao gọi là đệ tử của Phật thờ Phật?

Là những người biết phụng trì chánh giới, học rộng kinh luật, trao dồi trí tuệ, biết rõ ba cõi là trường thống khổ, tâm không ưa đắm, muốn cầu giải thoát, tu hành theo những pháp môn như: Tứ-đẳng(2), Lục-độ(3). Thương xót chúng sanh, muốn tế độ khắp tất cả, không tham tiếc thân mạng, biết chết đời này sanh lại đời khác, cầu làm việc phước mãi mãi, không bao giờ làm theo những điều mê tín, Ấy là đệ tử của Phật thờ Phật.

Phật dạy: Sau khi Ta nhập Niết-bàn độ một ngàn năm sẽ có ma giáo nổi lên, thời thế yêu ác, quốc gia không được toàn quyền tự chủ, nhân dân không được an cư lạc nghiệp, tai nạn chiến tranh sát hại tàn bạo, ngoại xâm nội loạn dồn dập, quốc gia không có phép tắc kỷ cương, xã hội đảo lộn. Lúc đó là thời tượng pháp.

A-Nan thưa Phật: Sao gọi là tượng pháp?

Phật đáp: trong thời đó có nhiều Tỳ-kheo không phụng trì đúng theo Chánh-pháp. Trái lại họ còn sống với vợ con, không tâm hổ thẹn, chỉ lo nghề nghiệp sanh sống, không có học thức, không lo tu thiền, ưa thích ăn mặc theo kiểu thế tục, trên dưới lộn xộn, giả dối lẫn nhau, bác bỏ những điều căn bản chính yếu trong sự nghiệp giáo hoá hộ đời, đắm theo sắc dục, không sợ tội lỗi. Khi có người hiểu biết Chánh-pháp vì muốn dùng lời trung thực chỉ bày giáo pháp chơn chánh thì họ lại sanh tâm xấu ác, oán ghét, muốn tìm mọi cách chỉ trích phá hoại, phỉ báng, cho rằng người ấy là kẻ thiếu sự hiểu biết. Vì vậy cho nên Chánh-pháp giảm dần.

A-Nan thưa Phật: Khi đó có người nào phụng trì Chánh-pháp hay chăng?

Phật đáp: Vẫn có nhiều người thờ Phật, và nhiều người xuất gia. Nhưng không mấy ai giữ đúng giới luật. Không sống với tinh thần lục hoà. Những người tinh thông nghĩa lý thì lại rất ít. Phần nhiều là những người kém hiểu biết!

A-Nan thưa rằng: Vậy thì ngay trong khi đó, nước nào ác nhất, đến nỗi ít thấy được những người tin tưởng tu hành đúng theo lời Phật?

Phật đáp: Ở cõi Chơn-Đơn sẽ có hàng ngàn Tỳ-kheo ngay trong Tăng đoàn mà làm bạn với ma. Trong số ấy chỉ có một vài vị là người thông minh hiểu biết và chính là đệ tử của Phật. Đến nỗi ít có người được sanh lên cõi Trời Lục-Dục. Những kẻ sa vào cõi ma thì lại rất nhiều!

Phật dạy: Sau khi ta nhập Niết-bàn, cũng có nhiều kẻ học ở bên ngoài đền cầu đạo ta. Nếu người nào muốn tiếp độ họ thì cần phải dè dặt. Sau ba tháng, nếu biết ý chí của họ có thể tu lập theo hạnh thanh-tịnh, thân tâm rỗng lặng, ít lòng ham muốn, không làm những điều gì sai quấy, ô nhiễm, thì mới có thể chính thức chấp nhận. Trước hết là truyền cho họ giới thập thiện. Sau ba năm, nếu xét thấy họ tu tập đúng được với chánh đạo, không phạm những tội ác nào, nhiên hậu mới được tiếp tục cho thọ hai trăm năm mươi giới pháp. Nếu biết tinh tấn tu lập, hoàn toàn đến mục đích giải thoát, nhất định người ấy sau sẽ gặp Phật Di-Lặc và được độ thoát.

A-Nan thưa Phật: Như lời Phật dạy con xin hoàn toàn vâng thọ và nói lại cho người sau biết rõ. Để sự nghiệp hoằng pháp của Phật sau này khỏi bị sai lầm tuyệt diệt.

Phật dạy: Này A-Nan! Việc ông vâng thọ, trước sau như một, quán thống tất cả. Ông đã hết lòng tin tưởng và lo hộ trì Phật pháp. Ta cũng đã chứng minh cho ông điều đó.

A-Nan thưa Phật: Sau này những người tin tưởng, muốn tu hành đúng theo chánh pháp, hết lòng mong muốn cầu xa lìa thế tục, xuất-gia học đạo, nếu không được bậc minh sư trao truyền giới pháp, mà có người viết chép giới, luật trao cho thì họ có thể được độ và làm Phật sự được hay không?

Phật dạy: A-Nan, hoàn toàn phải là người biết giới cấm và biết đạo lý mới có thể trao truyền giới pháp. Nhưng không thể trao truyền qua văn tự mà cho là đúng pháp được. Tại sao như vậy? Bởi vì Phật là bậc Đại trí cả trên trời dưới trời, là Bậc Đại độ cả trên trời dưới trời, là bậc Đại minh cả trên trời dưới trời, Không nên vọng truyền làm mất tôn chỉ, mà cần phải hiểu rõ giới pháp, luật cấm, lão luyện mọi sự, mới có thể truyền giới cho người sau. Nếu không thông hiểu những việc cốt yếu trong kinh phápoai nghi giới cấm, mà truyền giới pháp cho người ta là trái lời Phật dạy, thiếu sự thành kínhmất lòng tin đối với mọi người. Chẳng những đã không ích lợi gì cho cả người truyền lẫn người thọ, mà lại còn mắc phải tội lỗi không nhỏ. Vậy nên các ông cần phải suy xét cho rõ.

A-Nan thưa Phật: Đời sau, như có những người chí tâm chí ý, vì chán nỗi thống khổ của cảnh thế gian, muốn cầu được độ thoát, nếu gặp đời không có Phật thì phải làm sao để tế độ họ?

Phật dạy: A-Nan, hãy dẫn họ đến chỗ vị minh sư am hiển giới pháp, chỉ vẽ cho họ tập theo những việc cốt yếu về các oai nghi giới cấm. Nếu như xét thấy người có thể độ thì sẽ độ cho họ. Bằng như tự mình không hiểu rõ giới pháp mà truyền cho người, thì cả hai đều mê lầm, sai đạo, lộn xộn vô cùng, còn nương vào đâu mà được độ thoát!

Phật dạy: Sau này có những Tỳ-kheo, bản thân không được thanh tịnh, nuôi dưỡng vợ con, thân thì hành động phi pháp, phá giới, ô nhiễm, mà ý lại tham phước mà mong an lạc, thì khó nỗi thoát khỏi quả báo tội ác! Những hạng người như thế thật đáng thương xót!

A-Nan thưa Phật: Sau này những người đã có nhơn duyên xuất gia tu học, như vậy là đều đã được nhờ oai thần của Phật, thì lẽ ra cũng đều được giải thoát, tại sao có kẻ không tin lời minh giáo của Phật, mà lại trái phạm giới luật, để rồi phải chịu không biết bao nhiêu thống khổ trong vô số kiếp? Phật dạy: Do bởi đời trước, khi bị đoạ trong cảnh thống khổ, vì quá đau đớn, người ấy đã nhất thời ăn năn tự trách, nên được chút phước sanh làm thân người ở thời mạt pháp, lại được gặp kinh Phật và có thể cạo bỏ râu tóc mà làm vị Tỳ-kheo. Nhưng ý thức cũ chưa dứt trừ được, tâm do dự, mù mờ không rõ, lại không gặp được bậc minh sư trí đức, nên thường có những hành động ô trược, phần đông không thể hoàn toàn ly tục. Như vậy mai sau còn phải đoạ vào các cảnh khổ cực, lần lượt thọ tội trải vô số kiếp!

Phật dạy: Này các Tỳ-kheo. Các ông nay đã là người xuất gia, bỏ cả lối sống gia đình vợ con, bỏ những sự nghiệp kinh doanh ở đời để làm bậc Sa-môn, thì các ông cần phải siêng năng tu tập, giữ gìn giới hạnh, như pháp của các bậc A-La_hán. Thà rằng các ông lấy nước đồng sôi tự uống vô, làm cháy tiêu ruột gan, chứ không nên làm người vô đạo đức mà nhận của tín thí. Người vô đạo đức mà nhận của tín thí sẽ phải chịu tội thống khổ nhiều kiếp. Do chút phước mọn, được làm thân người, rồi phải trở lại tuần tự đền trả, Có kẻ phải làm con cái để đền trả, có kẻ phải làm cha mẹ để đền trả v.v...

A-Nan thưa Phật: Sao gọi là đền trả?

Phật đáp: Có người làm thân tôi tớ bị chủ nhà đánh đập, mắng chửi tàn tệ, đối xử vô đạo, thế mà tôi tớ vẫn đành cam chịu, không hề oán hận, lại còn siêng năng làm mọi công việc không biết mỏi mệt, giữ gìn của cải cho người chủ nhà không để hư mất. Chính là đời nay làm thân tôi tớ để đền trả nghiệp đời trước đã nhận của tín thí mà không lo tạo những việc công đức. Thì ra sau khi kẻ ấy chịu đủ tội khổ xong rồi, còn trở lại làm người để mà đền trả. Trong số đó cũng có người biết được phần nào nghiệp báo đời trước, nên đành cam chịu!

Sao gọi là làm con cái để đền trả?

Nghĩa là sự việc con cái không dám than phiền dù làm được bao nhiêu của tiền đều bị cha mẹ tiêu dùng không biết hạn lượng. Ấy là làm con cái để đền trả nghiệp báo đời trước.

Sao gọi là làm cha mẹ để đền trả?

Nghĩa là sự việc cha mẹ vẫn cam tâm đành chịu dù làm ra bao nhiêu của tiền đều bị con cái xài phá hoang phí, làm hư gia bại sản.

Sở dĩ ai cũng chịu đựng như vậy, là vì họ cảm nhận được phần nào nhân duyên nghiệp báo đời trước mà đành cam chịu, không trách ai cả. Thế nhưng những kẻ phải trả nợ cho nhau ấy, nhân duyên đưa đẩy gặp nhau trong một thời gian, sau khi trả xong lại phải chia ly, chứ không thể nào sống chung mãi. Người trí biết rõ lẽ đó cho nên không gây ra nghiệp duyên để phải đền trả.

Chỉ có đạo đức mới được tồn tại. Như ta thuở quá khứ cũng từng phải làm cha mẹ, con cái, tôi tớ nhiều đời không thể tính kể. Tất cả đều do nhơn duyên một thời phải chịu, mà không làm sao chạy khỏi. Và cha mẹ của ta có được hiện thời là do nhơn duyên đạo đức nhiều đời, chứ không do nhơn duyên nghiệp báo. Nhiều đời cha mẹ ta đã để cho ta tự do học đạo. Chính nhờ công ơn đó ta đã tinh tấn tu hành trải qua nhiều kiếp nay mới được thành Phật. Vậy nên người muốn học đạo không thể không tinh tấn lo sao cho tròn chữ hiếu. Chớ để một khi bị đoạ mất thân người, muôn kiếp khó bề trở lại!

Sau này, gặp thời mạt pháp, các người cần nên tu hành hiếu thuận, được gặp kinh pháp, không thể không lo siêng năng tu lập. Gặp Phật ra đời, không thể không hết lòng quy kính. Gặp bậc minh sư, không thể không lo hết lòng phụng thờ, chuyên cần học hỏi, thân cận thọ lãnh những giáo huấn.

Tại sao như thế? Vì nguyên được làm thân người đã là việc rất khó. Sáu giác quan cũng khó được đầy đủ. Khó được thông minh tài khí. Khó được gặp Phật, khó được nghe chánh pháp. Cho nên các ông cần phải hết lòng siêng năng tu tập. Sau khi ta nhập niết bàn, sẽ có thời kỳ thế gian xảy ra tai ác, ngũ nghịch. Khi đó ở cõi Chơn đơn có nhiều ma quái thạnh hành, chánh đạo bế tắc; tuy kinh pháp của Phật vẫn lưu truyền, nhưng ít ai học hỏi thấu đáo. Và dẫu có ai học hỏi thì cũng ít có người thực hành. Giửa đời tuy cũng có hình bóng của các vị Tỳ-kheo, nhưng ít ai tự giữ gìn giới hạnh thanh tịnh. Phần nhiều là những kẻ phá giới, nhiễm trước, tập theo thói tục, chỉ có tham vọng đây đó cho thoã chí du nhàn không khác gì người đời. Ưa mặc đồ tốt đẹp, ưa học theo sách vở nghị luận của thế gian, tập những thứ âm nhạc ca xướng , ưa kết tụ bè đảng, ưa cầu danh vọng như người thế tục. Họ nhận người vào đạo, độ làm đệ tử nhưng không biết cách dạy giữ gìn giới hạnh ngăn ngừa ma nghiệp, không theo chánh đạogiáo hoá độ đời, không chịu tìm bậc minh sư trí đức, không biết giữ gìn cẩn thận các giác quan, mà vẫn tự xưng ta là đại đức. Họ si mê không biết rằng tuy nay được làm thân người cũng chỉ tạm thời mà thôi, nhưng cứ tưởng là lâu dài. Và mặc dù đời là tạm thời và tương đối nhưng tội lỗi đã gây ra thì sau phải chịu khổ sở vô cùng, điên đảo lăn lộn ở trong chúng ma. Thật là thống khổ biết dường nào! Này các Tỳ-kheo! Các ông nay đã được làm thân người, được đầy đủ sáu giác quan, lại được gặp Phật, gặp kinh luật, giới pháp thì các ông cần phải siêng năng tu tập. Nếu không, một khi đánh mất căn bản nhân cách, muôn kiếp khó bề hồi phục. Phật ra đời cũng khó được gặp, kinh Pháp dạy cũng khó được nghe. Nên các ông phải biết tự suy nghĩ.

Phật nói kinh này xong thì các vị Tỳ-kheo đều ngồi im lặng tư duy quán tưởng và liền được chứng quả A-La-hán.

Dịch tại Phật Học Viện Quảng Hương Già Lam Gia Định

Phật đản 2515

Chú thích

(1) Mười pháp lành:

1- Không sát sanh.

2- Không trộm cắp.

3- Không tà hạnh

4- Không nói dối.

5- Không nói thêu dệt.

6- Không nói xuyên tạc.

7- Không nói độc ác.

8- Không tham lam.

9- Không sân hận.

10- Không si mê tà kiến.

Ngược lại mười điều trên là mười điều ác.

(2) Tứ đẳng: Cũng được gọi là Tứ Vô Lượng Tâm: TỪ, BI, HỶ, XẢ, là bốn đức tánh bao labình đẳng của chư Phật đối với tất cả chúng sanh. Theo kinh Lăng-già quyển ba nói thì tứ đẳng là: Tự đẳng, Ngữ đẳng, Pháp đẳng và Thân đẳng. Tự đẳng như Phật tự xưng là Phật, thì chữ Phật ấy cũng là tiếng tôn xưng cho tất cả chư Phật. Tự tánh của chữ Phật không có gì sai khác, nên gọi tự đẳng. Ngữ đẳng là những âm thanh ngôn ngữ thuyết pháp của tất cả các đức Phật đều như nhau. Thân đẳng là ba thân: Pháp thân, Báo thânỨng hoá thân tướng hão trang nghiêmđức Phật nào cũng có đầy đủ như nhau. Pháp đẳng là Ba mươi bảy pháp giác ngộ giải thoátthuyết pháp độ sanhđức Phật nào cũng có như nhau. Theo hai thuyết trên ta thấy như có sự sai khác, nhưng kỳ thật thì tuỳ theo nhơn quả mà nói Vì nhơn TỪ BI HỶ XẢ bình đẳng vô lượngđạt đến quả TỰ NGỮ PHÁP THÂN cũng bình đẳng vô lượng.

(3) Lục độ: Là sáu pháp môn chính yếu của Bồ tát hạnh tự độ và độ tha, là sáu món diệu dược chữa trị sáu căn bịnh trầm trọng làm cho chúng sanh đắm trong sanh tử. Bồ tát dùng sáu pháp này để đưa chúng sanh qua biển sanh tử, lên bờ giải thoát, nên gọi là độ:

1.Bố thí độ, tiếng Phạn gọi là Đàn ba-la mật( Dànapàramita), là hạnh bố thí rốt ráo, để độ tâm xan tham bỏn xẻn của mình, và để cứu giúp cho kẻ khác đang bị cảnh nghèo cùng thiếu thốn do nhơn bỏn xẻn đời trước gây ra.

2. Trì giới độ, tiếng Phạn gọi là Thi-la ba-la mật ( Silapàramita) đối trị sự huỷ phạm giới cấm.

3. Nhẫn nhục độ tiếng Phạn gọi là Sằn đề ba la mật ( Ksatipàramita) đối trị sân hận.

4. Tinh tấn độ tiếng Phạn gọi là Tỳ-lê-da ba la-mật ( Viryapàramita) đối trị trễ nải.

5. Thiền định độ, tiếng Phạn gọi là Thiền na ba la-mật ( Dhyàpàramita) đối trị tán loại.

6. Trí tuệ độ, tiếng Phạn gọi là Bát nhã ba-la-mật (Prajnãpàramita) đối trị si mê.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14696)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11755)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12704)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10264)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12004)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15221)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11020)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10464)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12411)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16362)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14251)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11722)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14736)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11979)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16759)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11521)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12674)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11286)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11998)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51998)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15408)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13923)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11397)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13126)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12726)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13170)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17842)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12399)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12592)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54130)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14358)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9876)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13768)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57859)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14435)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20062)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13718)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15333)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17433)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13271)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11868)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13446)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14615)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12436)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12105)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12021)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13242)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12470)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13597)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13288)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25492)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12146)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14476)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11800)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42011)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28254)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38723)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14669)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12652)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16191)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant