Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Viên Dung Thuần Khiết

03 Tháng Ba 201512:39(Xem: 11967)
Kinh Viên Dung Thuần Khiết
KINH VIÊN DUNG THUẦN KHIẾT

Lưu Ly trích dịch


Kinh Viên Dung Thuần KhiếtĐối thoại với nữ cư sĩ Gangottara

Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không. Nếu bản tính của hiện tượng là không, vậy thì cái tâm đối đãi muốn nhận đó là thật để có thể nắm bắt được hay trốn tránh, cùng cả một thế giới đang hiện ra như thực trước mắt, đều thực sự là không từng hiện hữu. Tuy nền tảng là bất sinh, nhưng vẫn hiện ra trước mắt như một trò ảo thuật. Bởi vì tính bất sinh, nên cũng chẳng từng hoại diệt. Điều vượt ngoài mọi suy luận nghĩ bàn đó được gọi là niết bàn.

Bối cảnh của kinh này là vườn Kỳ Viên ở ngoại ô thành phố Shravasti ở phía Bắc sông Hằng, miền Trung Ấn. Đây là địa điểm của một trong những tu viện lớn đầu tiên được lập ra cho Đức Phậttăng đoàn, do vị thí chủ lớn là trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường. Trong kinh này, Đức Phật bị chất vấn gắt gao về lý thuyết căn bản của ngài, do nữ cư sĩ can cường Gangottara, một người tinh thông và nắm vững những giáo lý của Đức Phật, tuy hơi thiên về chấp không. Tuy tranh luận rất gay go, nhưng bà luôn luôn kính trọng Đức Phật, gọi ngài là Như Lai.

“Tôi nghe như vầy, một ngày nọ Đức Phật đang ngụ tại vườn Kỳ Viên của trưởng giả Cấp Cô Độc gần thành phố Shravasti (Xá Vệ). Lúc đó, một nữ cư sĩ tên là Gangottara rời nhà ở Sravasti đến yết kiến Đức Phật. Bà đê đầu đảnh lễ trước chân Đức Phật, xong đứng qua một bên, rồi ngồi xuống.

Đức Thế Tôn hỏi Gangottara: “Con từ đâu đến?”

Nữ cư sĩ bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, nếu có ai hỏi một người do ảo thuật tạo ra đến từ đâu, thì câu hỏi đó phải được trả lời như thế nào?”

Đức Phật nói, “Một con người do ảo thuật tạo ra không đến cũng không đi, không sinh cũng không hoại diệt, làm sao có thể hỏi người ấy đến từ đâu được?”

Lúc đó, nữ cư sĩ hỏi, “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả các pháp có thực là huyễn ảo, như trò ảo thuật không? “

Phật nói, “Đúng như vậy. Điều con nói là thực.”

Gangottara hỏi, “Nếu tất cả các pháp là huyễn ảo như trò ảo thuật, vậy tại sao Ngài lại hỏi con đến từ đâu?”

Đức Thế Tôn bảo bà, “Một con người do ảo thuật tạo ra không đi đến những cõi giớiđau khổ, không đi lên cõi trời, cũng chẳng đạt đến niết bàn. Gangottara, con có như vậy không?”

Nữ cư sĩ trả lời: “Theo như con thấy, nếu sắc thân này của con có khác biệt với một người do ảo thuật tạo ra, thì con mới nói được đến chuyện đi tới những cõi giới tốt lành hay đau khổ, hay đạt đến niết bàn. Tuy nhiên, con không thấy có gì khác biệt giữa sắc thân của con và một người do ảo thuật tạo ra, vậy thì làm sao con nói được đến chuyện đi tới những cõi giới tốt lành hay đau khổ, hay đạt đến niết bàn được?

Hơn nữa, bạch Đức Thế Tôn, tánh của niết bàn là không tái sinh trong những cõi giới tốt lành hay đau khổ, cũng không có trải nghiệm nhập diệt niết bàn. Theo như con cảm nhận thì điều đó cũng giống như tánh của con vậy. “

Đức Phật hỏi, “Con không tìm cảnh giới niết bàn sao?”

Gangottara hỏi ngược lại, “Nếu câu hỏi này được đặt ra cho người chưa từng sinh, thì câu trả lời sẽ như thế nào?”

Đức Phật trả lời, “Cái chưa từng sinh chính là niết bàn.”

Gangottara lại hỏi, “Như vậy có phải tất cả các pháp đều giống với niết bàn chăng?”

Đức Phật trả lời, “Đúng thế, đúng như vậy.”

“Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các pháp đều giống với niết bàn, tại sao ngài hỏi con là “sao không tìm cảnh giới niết bàn”?

Lại nữa, Thế Tôn, nếu một người do ảo thuật tạo ra hỏi người khác cũng do ảo thuật tạo ra rằng, “ngươi không tìm cảnh giới niết bàn sao?” thì câu trả lời sẽ như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời: “Một người do ảo thuật tạo ra không có những vọng tưởng trong tâm (nên không tìm kiếm gì cả).”

Gangottra hỏi tới, “Vậy câu hỏi của Như Lai có đến từ những vọng tưởng trong tâm chăng?”

Đức Thế Tôn nói, “Ta đặt câu hỏi bởi vì trong pháp hội này có những thiện nam tín nữ đang có thể được khai ngộ. Ta đã lìa khỏi những vọng tưởng trong tâm. Vì sao? Bởi vì Như Lai biết rằng ngay cả tên gọi của các pháp cũng đã không thể suy luận nghĩ bàn được, huống chi là nói đến chính các pháp và những người đang tìm kiếm niết bàn”.

Gangottara nói, “Nếu vậy, tại sao cần phải tích lũy thiện căn để có thể đạt được giác ngộ?”

Đức Phật trả lời, “Bồ Tát hay thiện căn của Bồ Tát đều không thể nắm bắt được, bởi vì trong tâm Bồ Tát không còn ý nghĩ phân biệttích lũy thiện căn hay không.”

Gangottara hỏi,” Bạch Thế Tôn, Ngài nói “không còn ý nghĩ phân biệt” là ý nghĩa như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời, “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn. Nó không thể nắm giữ được hay thực hiện được; nó không thuần khiết, cũng không phải là bất thuần khiết. Vì sao vậy? Bởi vì, như Như Lai thường dạy, tất cả các pháp đều là không và không có gì ngăn trở như hư không vậy.”

Gangottara hỏi, “Nếu tất cả các pháp đều như hư không, tại sao Đức Thế Tôn lại nói đến ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 18 thức, 12 xứ, 12 nhân duyên, ô nhiễm hay không ô nhiễm, thanh tịnhbất tịnh, luân hồi và niết bàn?”

Đức Phật nói với Gangottara, “Ví dụ như khi ta nói đến một cái “ngã”, tuy ta dùng một ngôn từ để diễn tả một khái niệm, nhưng thật ra tánh của cái “ngã” là không thể nắm bắt được. Ta nói đến tướng, nhưng trong thực tế tánh của tướng là không thể nắm bắt được, và các pháp khác cũng đều như thế, cho tới niết bàn cũng vậy. Như ta không thể tìm thấy nước trong các ảo ảnh, ta cũng không thể tìm thấy tánh trong tướng, và tất cả các pháp khác cũng vậy, cho tới niết bàn cũng đều như thế.

Gangottara, chỉ người nào tu hạnh thanh tịnh theo đúng như Pháp, nhận biết rằng không gì có thể nắm bắt được, mới xứng đáng được gọi là một người tu hạnh thanh tịnh chân chính. Còn kẻ kiêu mạn nói là đã nắm bắt được điều gì đó, ta không thể nói là kẻ đó đã thực sự tu hạnh thanh tịnh. Những kẻ kiêu mạn như thế sẽ hãi sợ và nghi ngờ khi nghe Pháp thâm diệu này. Họ sẽ không thể giải thoát được sinh lão bệnh tử và những lo âu, đau khổ, phiền não của thế gian.

Gangottara, sau khi ta nhập niết bàn, sẽ có một số người có thể truyền bá được Pháp thâm diệu có thể chấm dứt được vòng quay của luân hồi này. Tuy nhiên, cũng có những kẻ điên rồ theo ác kiến, sinh tâm thù ghét những vị chân tu theo chánh pháp, và liên tục tìm cách làm hại họ. Những kẻ điên rồ đó sẽ bị đọa vào địa ngục.”

Gangottara hỏi, “Bạch Thế Tôn, ngài nói Pháp thâm diệu này “có thể chấm dứt vòng quay của luân hồi”, điều đó có nghĩa như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời, “Chấm dứt vòng quay của luân hồi là thấu suốt được chân lý hiện tiền, cõi giới không thể nghĩ bàn. Pháp đó không thể bị hủy hoại hay tiêu diệt được. Do vậy nên được gọi là giáo pháp đoạn diệt luân hồi.”

Nói xong, Đức Thế Tôn mỉm miệng cười tươi, phóng ra từ trán những hào quang mầu xanh, vàng, đỏ, trắng và lưu ly rực rỡ. Những hào quang này chiếu sáng đến vô số quốc độ, đến tận cõi giới cao như cõi trời phạm thiên, rồi thu về nhập vào trán của Đức Phật.

Trước cảnh đó, tôn giả A-Nan nghĩ thầm, “Như Lai, bậc Ứng Cúng Vô Thượng Giác, ít khi nào mỉm cườikhông có lý do.” Tôn giả bèn đứng lên, trật vai bên phải ra, rồi quỳ gối xuống chắp tay trước Phật hỏi rằng:

“Bạch Thế Tôn, vì sao ngài mỉm cười như thế?”

Đức Phật trả lời, “Ta nhớ lại trong quá khứ về trước, một ngàn vị Như Lai cũng đã giảng Pháp này ở đây, và mỗi pháp hội đó đều được dẫn đầu bởi một nữ cư sĩ tên là Gangottara. Sau khi nghe giảng Pháp này, nữ cư sĩ và tất cả pháp hội đều xuất gia, và khi tới thời, họ đều nhập được vô dư niết bàn.”

A-Nan hỏi Đức Phật, “Vậy chúng con gọi kinh này là kinh gì, và thọ trì ra sao?”

Đức Phật nói,”Kinh này gọi là kinh Viên Dung Thuần Khiết và phải được thọ trì đúng như tên ấy.”

Sau khi nghe kinh này, 700 vị tăng và 400 vị ni đều tự xa rời cấu nhiễm , tâm rỗng rang thanh tịnh, thoát ly khỏi những chấp trước.

Lúc đó, chư thiên của Cõi A Tu La đã biến hóa nhiệm mầu vô số loài hoa trời với đủ sắc mầu kỳ diệu rải trên mình Đức Phật, nói rằng, “Thật hiếm thay! Vị nữ cư sĩ này dám đối thoại với Đức Như Lai một cách bình đẳng không sợ hãi. Chắc hẳn vị này trong quá khứ đã từng hầu hạ cúng dường vô số đức Phật và đã vun trồng vô số căn lành với chư Phật.”

Sau khi Đức Phật nói kinh này xong, nữ cư sĩ Gangottara và toàn thể trời, người, atula, càn thát bà (vị thần Hương Ấm) đều vô cùng hoan hỉ được nghe những lời chỉ dạy, và hết lòng kính ngưỡng tin nhận thọ trì.

Bản dịch tiếng Anh: Garma C.C. Chang
Lưu Ly dịch ra tiếng Việt
(Trích từ “An Introduction to the Buddha and his teachings”)
(Ngọc Bảo)



The Gangottara Sutra
The Sutra Called "Flawless Purity"
A dialogue with the Laywoman Gangottara


Thus have I heard.

Once the Buddha was dwelling in the garden of Anathapindika, in the Jeta Grove near Shravasti. At that time, a laywoman named Gangottara came from her dwelling in Shravasti to see the Buddha. She prostrated herself with her head at the Buddha’s feet, withdrew to one side, and sat down.

The world honored one asked Gangottara, “Where do you come from?”

The Laywoman asked the Buddha, “World-Honored One, if someone were to ask a magically produced being where he came from, how should the question be answered?

The World Honored One told her, “A magically produced being neither comes nor goes, is neither born nor perishes; how can one speak of a place from which he comes?

Then the laywoman asked, “Is it not true that all things are illusory, like magic?”

The Buddha said, “Yes indeed, what you say is true”

Gangottara asked, “If all things are illusory, like magic, why did you ask me where I came from?”

The World Honored One told her, “A magically produced being does not go to the miserable planes of existence, nor to heaven; nor does he attain nirvana. Gangottara is that also true of you?”

The Laywoman replied, “As I see it, if my own body were different from a magically produced one, then I could speak of going to the good and miserable planes of existence, or of attaining Nirvana. I see no difference, though, between my body and a magically produced one, so how can I speak of going to the good or miserable planes, or of attaining nirvana?

“Furthermore, World Honored One, nirvana’s very nature is such that it is not reborn in the good or miserable planes, nor does it experience parinirvana. I perceive that the same is true of my own nature.”

The Buddha asked, “Do you not seek the state of nirvana?”

Gangottara asked in turn, “If this question were put to one who had never come into being, how should it be answered?”

The Buddha replied, “That which has never come into being is nirvana itself.”

Gangottara asked, “Are not all things identical with nirvana?”

The Buddha replied, “So they are, so they are.”

“World-Honored One, if all things are identical with nirvana, why did you ask me, ‘Do you not seek the state of nirvana?’ “Furthermore, World-Honored One, if a magically produced being asked another magically produced being, ‘Do you not seek the state of nirvana?’ what would the answer be?”

The World-Honored One told her, “A magically produced being has no mental attachments (and thus seeks nothing).”

Gangottara inquired, “Does the Tathagata’s very question stem from some mental attachment?”

The World-Honored One told her, “I raised the question because there are in this assembly good men and good women who can be brought to maturity. I am free of mental attachments. Why? Because the Tathagata knows that even the names of things are inaprehensible, let alone the things themselves or those who seek nirvana.”

Gangottara said, “If so, why all the accumulation of good roots for the attainment of enlightenment?”

[The Buddha replied,] “Neither Bodhisattvas nor their good roots can be apprehended, because in the Bodhisattvas’ minds there is no discriminative thought as to whether they are accumulating good roots or not.”

Gangottara asked, “What do you mean by ‘no discriminative thought’?”

The World-Honored One answered, “The absence of discriminative thought canot be understood or grasped by means of thinking. Why? Because in the state [of no discriminative thought], even the mind is inapprehensible, let alone the mental functions. This state , in which the mind is inaprehensible, is called inconceivable. It cannot be grasped or realized; it is neither pure nor impure. Why so? Because, as the Tathagata always teaching, all thins are as empty and unimpeded as space.”

Gangottara inquired, “If all things are empty space, why does the World-Honored One speak of form, feeling, conception, impulse and consciousness; the [eighteen] elements; the [twelve[ entrances; the twelve links of dependent origination; the defiled and the undefiled; the pure and the impure; samsara and nirvana?"

The Buddha told Gangottara, "When I speak of a 'self', for example, althugh I express the concept by a word, actually, the nature of 'self' is inapprehensible. I speak of form, but in reality the nature of form is also inapprehensible, and so it is with the other [dharmas], up to nirvana. Just as we cannot find water in mirages, so we cannot find a nature in form, and so it is with the others, up to nirvana.

“Gangottara, only a person who cultivates pure conduct in accordance with the Dharma, perceiving that nothing can be apprehended, deserves to be called a real cultivator of pure conduct. Since the arrogant say that they have apprehended something, they cannot be said to be firmly established in genuine pure conduct. Such arrogant people will be terrified and doubtful when they hear this profound Dharma. They will be unable to liberate themselves from birth, old age, sickness, death, worry, sorrow, suffering and distress.

“Gangottara, after my parinirvana, there will be some people able to spread this profound Dharma, which can stop the rounds of samsara. However, some fools, because of their evil views, will hate those Dharma-masters, and will contrive to harm them. Such fools will fall to the hells for that.”

Gangottara asked, “You speak of ‘this profound Dharma which can stop the rounds of samsara.’ What do you mean by ‘stop the rounds of samsara’?”

The World-Honored One replied, “To stop the rounds of samsara is to [penetrate] reality, the realm of the inconceivable. Such a Dharma cannot be damaged or destroyed. Hence, it is called he Dharma that can stop the rounds of samsara.”

Then the World-Honored One smiled graciously and emitted from his forehead blue, yellow, red, white, and crystalline lights. The lights illuminated all the numerous lands, reaching as high as the Brahma Heaven, then returned and entered the top of the Buddha’s head.

Seeing this, the Ven. Ananda thought to himself, “The Tathagata, the Worthy One, the Supremely Enlightened One, does not smile without a reason.” He rose from his seat, uncovered his right shoulder, knelt on his right knee, and joined his palms toward the Buddha, inquiring, “Why did the Budha smile?”

The Buddha replied, “I call that, in the past, a thousand Tathagatas also taught this Dharma here, and each of those assemblies was also led by a laywoman named Gangottara. After hearing this Dharma preached, the laywoman and all the assembly left the household life. [In time,] they entered the nirvana without residue.”

Ananda asked the Buddha, “What name should be given to this sutra and how should we accept and uphold it?”

The Buddha said, “This sutra is called ‘Flawless Purity’, and you should accept and uphold it by that name.”

During the preaching of this sutra, seven hundred monks and four hundred nuns were liberated from defilements forever and their minds were set free.

At that time, the gods of the Desire-Realm magically produced various kinds of wonderful celestial flowers and scattered them upon the Buddha, saying “Rare indeed is this laywoman, who can converse fearlessly with the Tathagata on equal terms. She must have served and made offerings to countless Buddhas, and planted good roots of every kind in their presence.

After the Buddha had finished speaking this sutra, the laywoman Gangottara and all the gods, humans, asuras, gandharvas, and so forth were jubilant over the Buddha’s teaching. They accepted it with faith and began to follow it with veneration.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10384)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11651)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28812)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12055)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13012)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11447)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35492)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12409)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16092)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17588)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13134)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12538)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11613)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11619)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20488)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12322)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13866)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15032)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15527)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17199)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14983)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20210)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14627)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13847)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11712)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14561)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11659)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16890)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11948)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11506)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15858)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12892)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18922)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18428)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15784)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant