Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Viên Dung Thuần Khiết

03 Tháng Ba 201512:39(Xem: 11960)
Kinh Viên Dung Thuần Khiết
KINH VIÊN DUNG THUẦN KHIẾT

Lưu Ly trích dịch


Kinh Viên Dung Thuần KhiếtĐối thoại với nữ cư sĩ Gangottara

Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không. Nếu bản tính của hiện tượng là không, vậy thì cái tâm đối đãi muốn nhận đó là thật để có thể nắm bắt được hay trốn tránh, cùng cả một thế giới đang hiện ra như thực trước mắt, đều thực sự là không từng hiện hữu. Tuy nền tảng là bất sinh, nhưng vẫn hiện ra trước mắt như một trò ảo thuật. Bởi vì tính bất sinh, nên cũng chẳng từng hoại diệt. Điều vượt ngoài mọi suy luận nghĩ bàn đó được gọi là niết bàn.

Bối cảnh của kinh này là vườn Kỳ Viên ở ngoại ô thành phố Shravasti ở phía Bắc sông Hằng, miền Trung Ấn. Đây là địa điểm của một trong những tu viện lớn đầu tiên được lập ra cho Đức Phậttăng đoàn, do vị thí chủ lớn là trưởng giả Cấp Cô Độc cúng dường. Trong kinh này, Đức Phật bị chất vấn gắt gao về lý thuyết căn bản của ngài, do nữ cư sĩ can cường Gangottara, một người tinh thông và nắm vững những giáo lý của Đức Phật, tuy hơi thiên về chấp không. Tuy tranh luận rất gay go, nhưng bà luôn luôn kính trọng Đức Phật, gọi ngài là Như Lai.

“Tôi nghe như vầy, một ngày nọ Đức Phật đang ngụ tại vườn Kỳ Viên của trưởng giả Cấp Cô Độc gần thành phố Shravasti (Xá Vệ). Lúc đó, một nữ cư sĩ tên là Gangottara rời nhà ở Sravasti đến yết kiến Đức Phật. Bà đê đầu đảnh lễ trước chân Đức Phật, xong đứng qua một bên, rồi ngồi xuống.

Đức Thế Tôn hỏi Gangottara: “Con từ đâu đến?”

Nữ cư sĩ bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, nếu có ai hỏi một người do ảo thuật tạo ra đến từ đâu, thì câu hỏi đó phải được trả lời như thế nào?”

Đức Phật nói, “Một con người do ảo thuật tạo ra không đến cũng không đi, không sinh cũng không hoại diệt, làm sao có thể hỏi người ấy đến từ đâu được?”

Lúc đó, nữ cư sĩ hỏi, “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả các pháp có thực là huyễn ảo, như trò ảo thuật không? “

Phật nói, “Đúng như vậy. Điều con nói là thực.”

Gangottara hỏi, “Nếu tất cả các pháp là huyễn ảo như trò ảo thuật, vậy tại sao Ngài lại hỏi con đến từ đâu?”

Đức Thế Tôn bảo bà, “Một con người do ảo thuật tạo ra không đi đến những cõi giớiđau khổ, không đi lên cõi trời, cũng chẳng đạt đến niết bàn. Gangottara, con có như vậy không?”

Nữ cư sĩ trả lời: “Theo như con thấy, nếu sắc thân này của con có khác biệt với một người do ảo thuật tạo ra, thì con mới nói được đến chuyện đi tới những cõi giới tốt lành hay đau khổ, hay đạt đến niết bàn. Tuy nhiên, con không thấy có gì khác biệt giữa sắc thân của con và một người do ảo thuật tạo ra, vậy thì làm sao con nói được đến chuyện đi tới những cõi giới tốt lành hay đau khổ, hay đạt đến niết bàn được?

Hơn nữa, bạch Đức Thế Tôn, tánh của niết bàn là không tái sinh trong những cõi giới tốt lành hay đau khổ, cũng không có trải nghiệm nhập diệt niết bàn. Theo như con cảm nhận thì điều đó cũng giống như tánh của con vậy. “

Đức Phật hỏi, “Con không tìm cảnh giới niết bàn sao?”

Gangottara hỏi ngược lại, “Nếu câu hỏi này được đặt ra cho người chưa từng sinh, thì câu trả lời sẽ như thế nào?”

Đức Phật trả lời, “Cái chưa từng sinh chính là niết bàn.”

Gangottara lại hỏi, “Như vậy có phải tất cả các pháp đều giống với niết bàn chăng?”

Đức Phật trả lời, “Đúng thế, đúng như vậy.”

“Bạch Thế Tôn, nếu tất cả các pháp đều giống với niết bàn, tại sao ngài hỏi con là “sao không tìm cảnh giới niết bàn”?

Lại nữa, Thế Tôn, nếu một người do ảo thuật tạo ra hỏi người khác cũng do ảo thuật tạo ra rằng, “ngươi không tìm cảnh giới niết bàn sao?” thì câu trả lời sẽ như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời: “Một người do ảo thuật tạo ra không có những vọng tưởng trong tâm (nên không tìm kiếm gì cả).”

Gangottra hỏi tới, “Vậy câu hỏi của Như Lai có đến từ những vọng tưởng trong tâm chăng?”

Đức Thế Tôn nói, “Ta đặt câu hỏi bởi vì trong pháp hội này có những thiện nam tín nữ đang có thể được khai ngộ. Ta đã lìa khỏi những vọng tưởng trong tâm. Vì sao? Bởi vì Như Lai biết rằng ngay cả tên gọi của các pháp cũng đã không thể suy luận nghĩ bàn được, huống chi là nói đến chính các pháp và những người đang tìm kiếm niết bàn”.

Gangottara nói, “Nếu vậy, tại sao cần phải tích lũy thiện căn để có thể đạt được giác ngộ?”

Đức Phật trả lời, “Bồ Tát hay thiện căn của Bồ Tát đều không thể nắm bắt được, bởi vì trong tâm Bồ Tát không còn ý nghĩ phân biệttích lũy thiện căn hay không.”

Gangottara hỏi,” Bạch Thế Tôn, Ngài nói “không còn ý nghĩ phân biệt” là ý nghĩa như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời, “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn. Nó không thể nắm giữ được hay thực hiện được; nó không thuần khiết, cũng không phải là bất thuần khiết. Vì sao vậy? Bởi vì, như Như Lai thường dạy, tất cả các pháp đều là không và không có gì ngăn trở như hư không vậy.”

Gangottara hỏi, “Nếu tất cả các pháp đều như hư không, tại sao Đức Thế Tôn lại nói đến ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 18 thức, 12 xứ, 12 nhân duyên, ô nhiễm hay không ô nhiễm, thanh tịnhbất tịnh, luân hồi và niết bàn?”

Đức Phật nói với Gangottara, “Ví dụ như khi ta nói đến một cái “ngã”, tuy ta dùng một ngôn từ để diễn tả một khái niệm, nhưng thật ra tánh của cái “ngã” là không thể nắm bắt được. Ta nói đến tướng, nhưng trong thực tế tánh của tướng là không thể nắm bắt được, và các pháp khác cũng đều như thế, cho tới niết bàn cũng vậy. Như ta không thể tìm thấy nước trong các ảo ảnh, ta cũng không thể tìm thấy tánh trong tướng, và tất cả các pháp khác cũng vậy, cho tới niết bàn cũng đều như thế.

Gangottara, chỉ người nào tu hạnh thanh tịnh theo đúng như Pháp, nhận biết rằng không gì có thể nắm bắt được, mới xứng đáng được gọi là một người tu hạnh thanh tịnh chân chính. Còn kẻ kiêu mạn nói là đã nắm bắt được điều gì đó, ta không thể nói là kẻ đó đã thực sự tu hạnh thanh tịnh. Những kẻ kiêu mạn như thế sẽ hãi sợ và nghi ngờ khi nghe Pháp thâm diệu này. Họ sẽ không thể giải thoát được sinh lão bệnh tử và những lo âu, đau khổ, phiền não của thế gian.

Gangottara, sau khi ta nhập niết bàn, sẽ có một số người có thể truyền bá được Pháp thâm diệu có thể chấm dứt được vòng quay của luân hồi này. Tuy nhiên, cũng có những kẻ điên rồ theo ác kiến, sinh tâm thù ghét những vị chân tu theo chánh pháp, và liên tục tìm cách làm hại họ. Những kẻ điên rồ đó sẽ bị đọa vào địa ngục.”

Gangottara hỏi, “Bạch Thế Tôn, ngài nói Pháp thâm diệu này “có thể chấm dứt vòng quay của luân hồi”, điều đó có nghĩa như thế nào?”

Đức Thế Tôn trả lời, “Chấm dứt vòng quay của luân hồi là thấu suốt được chân lý hiện tiền, cõi giới không thể nghĩ bàn. Pháp đó không thể bị hủy hoại hay tiêu diệt được. Do vậy nên được gọi là giáo pháp đoạn diệt luân hồi.”

Nói xong, Đức Thế Tôn mỉm miệng cười tươi, phóng ra từ trán những hào quang mầu xanh, vàng, đỏ, trắng và lưu ly rực rỡ. Những hào quang này chiếu sáng đến vô số quốc độ, đến tận cõi giới cao như cõi trời phạm thiên, rồi thu về nhập vào trán của Đức Phật.

Trước cảnh đó, tôn giả A-Nan nghĩ thầm, “Như Lai, bậc Ứng Cúng Vô Thượng Giác, ít khi nào mỉm cườikhông có lý do.” Tôn giả bèn đứng lên, trật vai bên phải ra, rồi quỳ gối xuống chắp tay trước Phật hỏi rằng:

“Bạch Thế Tôn, vì sao ngài mỉm cười như thế?”

Đức Phật trả lời, “Ta nhớ lại trong quá khứ về trước, một ngàn vị Như Lai cũng đã giảng Pháp này ở đây, và mỗi pháp hội đó đều được dẫn đầu bởi một nữ cư sĩ tên là Gangottara. Sau khi nghe giảng Pháp này, nữ cư sĩ và tất cả pháp hội đều xuất gia, và khi tới thời, họ đều nhập được vô dư niết bàn.”

A-Nan hỏi Đức Phật, “Vậy chúng con gọi kinh này là kinh gì, và thọ trì ra sao?”

Đức Phật nói,”Kinh này gọi là kinh Viên Dung Thuần Khiết và phải được thọ trì đúng như tên ấy.”

Sau khi nghe kinh này, 700 vị tăng và 400 vị ni đều tự xa rời cấu nhiễm , tâm rỗng rang thanh tịnh, thoát ly khỏi những chấp trước.

Lúc đó, chư thiên của Cõi A Tu La đã biến hóa nhiệm mầu vô số loài hoa trời với đủ sắc mầu kỳ diệu rải trên mình Đức Phật, nói rằng, “Thật hiếm thay! Vị nữ cư sĩ này dám đối thoại với Đức Như Lai một cách bình đẳng không sợ hãi. Chắc hẳn vị này trong quá khứ đã từng hầu hạ cúng dường vô số đức Phật và đã vun trồng vô số căn lành với chư Phật.”

Sau khi Đức Phật nói kinh này xong, nữ cư sĩ Gangottara và toàn thể trời, người, atula, càn thát bà (vị thần Hương Ấm) đều vô cùng hoan hỉ được nghe những lời chỉ dạy, và hết lòng kính ngưỡng tin nhận thọ trì.

Bản dịch tiếng Anh: Garma C.C. Chang
Lưu Ly dịch ra tiếng Việt
(Trích từ “An Introduction to the Buddha and his teachings”)
(Ngọc Bảo)



The Gangottara Sutra
The Sutra Called "Flawless Purity"
A dialogue with the Laywoman Gangottara


Thus have I heard.

Once the Buddha was dwelling in the garden of Anathapindika, in the Jeta Grove near Shravasti. At that time, a laywoman named Gangottara came from her dwelling in Shravasti to see the Buddha. She prostrated herself with her head at the Buddha’s feet, withdrew to one side, and sat down.

The world honored one asked Gangottara, “Where do you come from?”

The Laywoman asked the Buddha, “World-Honored One, if someone were to ask a magically produced being where he came from, how should the question be answered?

The World Honored One told her, “A magically produced being neither comes nor goes, is neither born nor perishes; how can one speak of a place from which he comes?

Then the laywoman asked, “Is it not true that all things are illusory, like magic?”

The Buddha said, “Yes indeed, what you say is true”

Gangottara asked, “If all things are illusory, like magic, why did you ask me where I came from?”

The World Honored One told her, “A magically produced being does not go to the miserable planes of existence, nor to heaven; nor does he attain nirvana. Gangottara is that also true of you?”

The Laywoman replied, “As I see it, if my own body were different from a magically produced one, then I could speak of going to the good and miserable planes of existence, or of attaining Nirvana. I see no difference, though, between my body and a magically produced one, so how can I speak of going to the good or miserable planes, or of attaining nirvana?

“Furthermore, World Honored One, nirvana’s very nature is such that it is not reborn in the good or miserable planes, nor does it experience parinirvana. I perceive that the same is true of my own nature.”

The Buddha asked, “Do you not seek the state of nirvana?”

Gangottara asked in turn, “If this question were put to one who had never come into being, how should it be answered?”

The Buddha replied, “That which has never come into being is nirvana itself.”

Gangottara asked, “Are not all things identical with nirvana?”

The Buddha replied, “So they are, so they are.”

“World-Honored One, if all things are identical with nirvana, why did you ask me, ‘Do you not seek the state of nirvana?’ “Furthermore, World-Honored One, if a magically produced being asked another magically produced being, ‘Do you not seek the state of nirvana?’ what would the answer be?”

The World-Honored One told her, “A magically produced being has no mental attachments (and thus seeks nothing).”

Gangottara inquired, “Does the Tathagata’s very question stem from some mental attachment?”

The World-Honored One told her, “I raised the question because there are in this assembly good men and good women who can be brought to maturity. I am free of mental attachments. Why? Because the Tathagata knows that even the names of things are inaprehensible, let alone the things themselves or those who seek nirvana.”

Gangottara said, “If so, why all the accumulation of good roots for the attainment of enlightenment?”

[The Buddha replied,] “Neither Bodhisattvas nor their good roots can be apprehended, because in the Bodhisattvas’ minds there is no discriminative thought as to whether they are accumulating good roots or not.”

Gangottara asked, “What do you mean by ‘no discriminative thought’?”

The World-Honored One answered, “The absence of discriminative thought canot be understood or grasped by means of thinking. Why? Because in the state [of no discriminative thought], even the mind is inapprehensible, let alone the mental functions. This state , in which the mind is inaprehensible, is called inconceivable. It cannot be grasped or realized; it is neither pure nor impure. Why so? Because, as the Tathagata always teaching, all thins are as empty and unimpeded as space.”

Gangottara inquired, “If all things are empty space, why does the World-Honored One speak of form, feeling, conception, impulse and consciousness; the [eighteen] elements; the [twelve[ entrances; the twelve links of dependent origination; the defiled and the undefiled; the pure and the impure; samsara and nirvana?"

The Buddha told Gangottara, "When I speak of a 'self', for example, althugh I express the concept by a word, actually, the nature of 'self' is inapprehensible. I speak of form, but in reality the nature of form is also inapprehensible, and so it is with the other [dharmas], up to nirvana. Just as we cannot find water in mirages, so we cannot find a nature in form, and so it is with the others, up to nirvana.

“Gangottara, only a person who cultivates pure conduct in accordance with the Dharma, perceiving that nothing can be apprehended, deserves to be called a real cultivator of pure conduct. Since the arrogant say that they have apprehended something, they cannot be said to be firmly established in genuine pure conduct. Such arrogant people will be terrified and doubtful when they hear this profound Dharma. They will be unable to liberate themselves from birth, old age, sickness, death, worry, sorrow, suffering and distress.

“Gangottara, after my parinirvana, there will be some people able to spread this profound Dharma, which can stop the rounds of samsara. However, some fools, because of their evil views, will hate those Dharma-masters, and will contrive to harm them. Such fools will fall to the hells for that.”

Gangottara asked, “You speak of ‘this profound Dharma which can stop the rounds of samsara.’ What do you mean by ‘stop the rounds of samsara’?”

The World-Honored One replied, “To stop the rounds of samsara is to [penetrate] reality, the realm of the inconceivable. Such a Dharma cannot be damaged or destroyed. Hence, it is called he Dharma that can stop the rounds of samsara.”

Then the World-Honored One smiled graciously and emitted from his forehead blue, yellow, red, white, and crystalline lights. The lights illuminated all the numerous lands, reaching as high as the Brahma Heaven, then returned and entered the top of the Buddha’s head.

Seeing this, the Ven. Ananda thought to himself, “The Tathagata, the Worthy One, the Supremely Enlightened One, does not smile without a reason.” He rose from his seat, uncovered his right shoulder, knelt on his right knee, and joined his palms toward the Buddha, inquiring, “Why did the Budha smile?”

The Buddha replied, “I call that, in the past, a thousand Tathagatas also taught this Dharma here, and each of those assemblies was also led by a laywoman named Gangottara. After hearing this Dharma preached, the laywoman and all the assembly left the household life. [In time,] they entered the nirvana without residue.”

Ananda asked the Buddha, “What name should be given to this sutra and how should we accept and uphold it?”

The Buddha said, “This sutra is called ‘Flawless Purity’, and you should accept and uphold it by that name.”

During the preaching of this sutra, seven hundred monks and four hundred nuns were liberated from defilements forever and their minds were set free.

At that time, the gods of the Desire-Realm magically produced various kinds of wonderful celestial flowers and scattered them upon the Buddha, saying “Rare indeed is this laywoman, who can converse fearlessly with the Tathagata on equal terms. She must have served and made offerings to countless Buddhas, and planted good roots of every kind in their presence.

After the Buddha had finished speaking this sutra, the laywoman Gangottara and all the gods, humans, asuras, gandharvas, and so forth were jubilant over the Buddha’s teaching. They accepted it with faith and began to follow it with veneration.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11082)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53665)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12998)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16531)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15411)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19169)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19944)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15560)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15359)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15150)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20353)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23969)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15499)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13040)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20153)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13292)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29027)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11714)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18305)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16648)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13253)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12813)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13259)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12999)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12890)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13020)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13551)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11726)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14252)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17748)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22607)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13454)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14344)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105794)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14613)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19802)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38442)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15540)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34699)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16064)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11354)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15673)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14044)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12840)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13722)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19391)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27039)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13154)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13486)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21622)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21923)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16082)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16157)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19119)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24795)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 13676)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant